Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II- Thiền thể hiện vào đời sống

25/04/201105:57(Xem: 4154)
II- Thiền thể hiện vào đời sống

THIỀN TRONG ĐỜI THƯỜNG
Thích Thông Huệ

Chương 1

THIỀN VÀ SỰ SỐNG

II- THIỀN THỂ HIỆN VÀO ĐỜI SỐNG

Bằng tinh thần nhập thế của Đạo Phật, Thiền hòa quyện vào đời sống nhờ tính chất thực tiễn, linh hoạt và bình đẳng, làm cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn. Đồng thời, nhờ uyển chuyển tùy duyên một cách hiệu quả nhất, nên Thiền trở thành muôn màu muôn vẻ, phù hợp với tất cả mọi người.

1- Tính thực tiễn

Nhà đại bác học Albert Einstein từng thừa nhận “Nếu có một tôn giáo phù hợp với những yêu cầu của khoa học hiện đại, thì đó là đạo Phật”. Để “phù hợp với những yêu cầu của khoa học hiện đại”, trước tiên đạo Phật phải có tính thực tiễn, vì khoa học không chấp nhận mê tín thần quyền. Yêu cầu này cũng là chủ trương của đạo Phật, một đạo trí tuệ và vô cùng thực tiễn. Thiền tông, một tông phái trong nhà Phật càng đặt nặng tinh thần này.

Thiền sư Suzuki nói: “Thiền là biển nước, là không trung, là núi non, là sấm sét, là hoa xuân nắng hạ tuyết đông. Không những thế mà còn hơn thế, Thiền chính là con người”. Thấy biển nước không trung một cách sâu xa tức tự tri tận bản chất các pháp. Thiền không phải xa rời thế giới hiện thực để tìm kiếm một thế giới lý tưởng xa vời, mà là thực tại nhiệm mầu khi tâm ta bất động nơi đương xứ. Thiền không phải biểu hiện trên từ chương ngôn ngữ, trong khái niệm tư duy, mà hiện sinh trong từng giây phút của đời sống thiền tập. Khi trở về bản thể thanh tịnh và hằng tri, an trú vào giờ phút hiện tại bất động, chánh niệm tỉnh giác trên từng biến đổi động thái của sự vật và bản thân, hành giả nhận rõ rằng, Thiền-Đạo–bản thân và muôn pháp thật sự không hai không khác.

Một Sa-di đến hỏi Ngài Tùng Thẩm Triệu Châu:
- Thế nào là đại ý Phật pháp ?
Ngài hỏi lại:
- Chú ăn cháo chưa ?
- Bạch Hòa thượng, con ăn rồi.
- Rửa chén đi !
Sa-di liền ngộ, sụp lạy tạ ơn.

Sự ngộ đạo sao quá dễ dàng đơn giản? Nghĩa lý nào ở chỗ ăn cháo rửa chén? Nếu công phu của chúng ta chưa có chiều sâu, ta khó thể hiểu ý nghĩa thâm trầm trong câu chuyện nầy. Sa-di đã từ lâu thao thức, từ lâu tinh cần công phu mà vẫn chưa tỏ ngộ lý Thiền nên cầu sư phụ chỉ dạy Pháp yếu. Ngài Triệu Châu hỏi “Ăn cháo chưa?” là một thủ thuật vì đương cơ mà quyền biến. Ai biết ăn cháo, ai biết rửa chén? Khi ăn cháo, rửa chén mà thầm nhận người thật sẵn đó thì rõ ràng Thiền có mặt trong những công việc tầm thường ấy. Chúng ta quá phức tạp, tâm cứ lăng xăng rối rắm, làm việc này nghĩ việc khác nên tâm không thấy cái xuất trần ngay trong trần tục. Vị Sa-di đã dọn sẵn tâm mình, nên khi Ngài Triệu Châu điểm nhẹ, cửa tâm liền mở rộng đón nhận chân lý ngàn đời.

Đức Phật xuất gia tìm đạo và giác ngộ ở tại thế gian. Các bậc Thánh đệ tử của Ngài và những vị Tổ sư cũng tu nơi cõi trần mà thành đạo. Những bậc Đại Bồ-tát Nhất sanh Bổ xứ cũng phải vào cõi Ta-bà lần cuối mới công viên quả mãn, chứng đạt quả vị tột cùng. Phải ở chốn bùn nhơ thì hoa sen mới nở, người tu phải gieo hạt giống Bồ-đề nơi phiền não khổ đau. Chúng ta cũng như thế, ngay thân năm uẩn tại trần gian mà tìm sự sống chân thật, ngay những hoàn cảnh nghịch thường mà tìm hạnh phúc đích thực, nếu biết biến chướng duyên thành thắng duyên. Con người thường hay hứa hẹn, chờ thời điểm thuận tiện, chờ giải quyết công việc gia đình, chờ hoàn thành công trình lớn nào đó mới tu. Nhưng có chắc rằng lúc ấy ta còn cơ hội tu không? Thân có khoẻ, tiền của có nhiều mới tu, chẳng lẽ thân bệnh nhà nghèo không tu được? Nếu có chánh kiến, nắm vững pháp tu thì bất cứ lúc nào và ở đâu ta cũng có thể dụng công; đời tu của ta rất nhẹ nhàng mà hiệu quả. Người biết tu cần tìm sự vi diệu ở ngay những hiện tượng sự vật bình thường trong cuộc sống. Một đóa hoa dại bên đường, một tiếng chim hót trên cao, ngay cả một lời nói thông tục, nếu ta thấy nghe bằng chánh niệm, tất cả sẽ là những bài học sống động diệu thường.

Vì đề cao tính thực tiễn trong sinh hoạt và tu học, nên nhà Thiền không chú trọng thần thông. Thần thông diệu dụng đối với Thiền tông là những công việc thường nhật, khi làm với tâm không. Từ bản tánh thanh tịnh khởi phát diệu dụng, diệu dụng ấy thiết thực phục vụ cho chúng sanh muôn loài. Bàng Long Uẩn nói:

Thần thông và diệu dụng
Gánh nước bửa củi tài.

Trong kinh A-Hàm đề cập ba loại thần thông: Thần túc thông là khả năng đi khắp tất cả chỗ một cách tự do tự tại; Tha tâm thông là khả năng biết mọi ý nghĩ của người khác. Hai loại thần thông nầy không quan trọng đối với đạo Phật, đôi khi làm trở ngại đường tu vì khiến hành giả tăng trưởng ngã chấp. Vả lại, cố ý tu hành để đạt thần thông là hướng ngoại cầu huyền, trái với ý chỉ của nhà Thiền là phản quan tự kỷ. Loại thứ ba là Giáo hoá thần thông được Đức Phật khen ngợi và khuyến khích vì giúp ích được người khác. Muốn có Giáo hóa thần thông, người tu phải có Đạo thông; trước tiên phải rõ lý Đạo, nhận ra thể tánh bất sanh, sau mới có thể giáo hoá người tịnh tu ba nghiệp, giải thoát phiền não kiết sử, giải thoát sanh tử luân hồi.

2- Tính linh hoạt

Hành giả sơ phát tâm rất cần những chuẩn mực đạo đức, những nguyên tắc công phu để đường tu không lạc vào ngã rẽ. Tuy nhiên, nếu chấp vào những khuôn khổ ấy một cách cứng nhắc, ta sẽ không thấy rõ sự vận hành của cuộc sống, không uyển chuyển theo sự vận hành ấy và vô tình, ta trở nên kẻ đứng bên lề.

Phật pháp không hiện diện trong trạng thái tĩnh lặng khô chết, mà ở nơi sinh động hằng chuyển của thế gian pháp. Khi nghe tiếng chim hót mà trực nhận tánh nghe, đó là phù hợp ý Tổ. Thanh tịnh và hằng tri là hai mặt không thể tách rời, làm nên cội nguồn Thiền học. Trên thực tế, ta thấy đời sống trong Thiền viện có vẻ ấm êm yên ổn hơn ngoài đời, nhưng các vị tu sĩ đâu phải lúc nào cũng trang nghiêm trầm mặc? Đức Phật lúc còn tại thế, đâu phải suốt ngày tọa thiền dưới cội cây, mà Ngài cũng đi đứng, nói năng, sinh hoạt như mọi người. Trong một tập thể tu hành cần có những qui tắc cố định giúp người tu thúc liễm thân tâm, nhưng nếu quá gò ép sẽ làm mất sức sống và khả năng sáng tạo của cá nhân. Tinh thần Thiền là luôn linh hoạt sống động, phù hợp với từng con người, từng hoàn cảnh, nhưng không bao giờ xa rời lý Đạo. Đó là nội dung tùy duyên-bất biến.

Khi đã thấu tột yếu chỉ nhà Thiền, các bậc ngộ đạo phát khởi diệu dụng nhiêu ích quần sanh một cách linh hoạt, muôn màu muôn vẻ, tùy đương cơ mà thi thiết phương tiện. Nam Tuyền chém mèo, Lâm Tế hét, Đức Sơn đánh, Câu Chi giơ ngón tay... là những hình ảnh sáng tạo, độc đáo, khế lý khế cơ của các Thiền sư ngày xưa. Đến ngày nay lại khác, con người khoa học đòi hỏi sự giảng dạy phải có tính sư phạm, những ý nghĩa thâm sâu uyên áo phải được diễn đạt bằng ngôn ngữ lý luận khúc chiết; nên mới có chủ trương Thiền-Giáo song hành. Đến với từng dân tộc, Thiền còn hòa nhập vào phong tục tập quán và lối sống hàng ngày, góp phần tạo nên nét đẹp văn hóa riêng của dân tộc ấy. Tại Trung Hoa, từ thời Tổ Bá Trượng với tinh thần lao động “Một ngày không làm một ngày không ăn”, các hình thức Nông Thiền ngày một phát triển. Các Thiền sư có lối dạy người thẳng tắt, mộc mạc và đôi khi thô thiển; như khi nghe hỏi về tôn chỉ nhà Thiền hay yếu lý trong Đạo, các Ngài hoặc đánh hét hoặc trả lời bằng những câu vô nghĩa “Ba cân gai”, “Dưới gót chân ông” .. Ở Việt Nam lại khác, thời đất nước thịnh trị như Đinh-Lê-Lý-Trần, các vị Thiền sư vừa giúp vua trị nước, chống giặc ngoại xâm, vừa hướng dẫn môn đệ tu hành, như các Quốc sư Khuông Việt - Đỗ Thuận - Vạn Hạnh... Cùng những bậc minh quân và hoàng thân quốc thích như vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ..., đều là những trí thức đương thời, thông bác văn chương kim cổ nên thường dùng thơ văn khi muốn khai thị cho đồ chúng. Chúng ta hẳn nhiều lần nghe các câu kệ sau đây:

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
(Cáo tật thị chúng - Thiền sư Mãn Giác)
Nghĩa:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.
Hoặc câu trả lời vua Lý Thái Tông của Thiền sư Thiền Lão:
Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân

Nghĩa:
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân

Tại Nhật Bản, Thiền lại mang màu sắc khác, được ứng dụng vào các ngành nghệ thuật như cắm hoa, hội họa, uống trà; sau đó phát triển sang các lĩnh vực khác như võ thuật, công kỹ nghệ. Nhờ áp dụng công phu thiền tập trong đời sống hàng ngày, người hành thiền có sức định tâm, tự chủ nên công việc đạt kết quả tốt, năng suất cao. Hiện nay, một số xí nghiệp, trường học và cả trại giam ở Nhật và các nước phương Tây đã tổ chức những giờ tọa thiền vào buổi sáng trước khi làm việc. Qua nghiên cứu và theo dõi một thời gian, người ta thấy Thiền giúp tăng sức tập trung, phát huy tính sáng tạo và phát triển trí thông minh. Đặc biệt, người tu Thiền có sự vui sống, bớt căng thẳng phiền não, bớt khuynh hướng bạo động, nên tỷ lệ tù nhân tái phạm tội hoặc trốn trại giảm đi đáng kể. Từ đó, Thiền được xem như một phương thức điều trị các bệnh tâm thần kinh; một liệu trình kết hợp để kiểm soát những bất ổn của tim mạch, tiêu hoá...; một phương pháp nâng cao sức khoẻ, sức chịu đựng và khả năng lao động. Có thể nói, trong thời đại khoa học thiên về vật chất hiện nay, Thiền là một gam màu linh động không thể thiếu trong bức tranh toàn cảnh của đời sống nhân loại.

3- Tính bình đẳng:

Tinh thần Đại thừa, nhất là Thiền tông, đặt căn bản trên Phật tánh bình đẳng sẵn đủ, nên bất cứ ai chứng ngộ chân tâm đều có thể thành Phật. Chú tiều Huệ Năng đến Hoàng Mai bái yết Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn cầu pháp làm Phật. Nghe Tổ hỏi “Ông là người Lãnh Nam quê mùa thất học, có thể kham làm Phật được sao?”, Huệ Năng liền đáp:

Người tuy có Nam có Bắc nhưng Phật tánh đâu có Bắc Nam. Thân quê mùa nầy vốn cùng Hòa thượng chẳng đồng, nhưng Phật tánh không hề sai khác.

Triệt ngộ tự tánh nhờ nghe Ngũ Tổ giảng kinh Kim Cang, Ngài được Tổ truyền trao y bát kế thừa Tổ vị, dù vẫn còn thân cư sĩ. Sau 15 năm tị nạn ở Tứ Hội, đủ duyên ra hoằng hoá, lần đầu gặp Pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết-bàn, Ngài luận giải những ý nghĩa sâu mầu uyên áo đến nỗi Pháp sư phải chắp tay thưa “Tôi giảng kinh như ngói gạch, nhơn giả luận nghĩa ví như vàng ròng”.

Kinh Pháp Hoa, các phẩm 9 (Thọ học vô học nhân ký), 12 (Đề-Bà-Đạt-Đa), 13 (Trì) diễn tả rõ ràng tính bình đẳng trong sự tu hành và đắc quả. Long nữ là loài súc sanh, được Bồ-tát Văn Thù chỉ dạy pháp yếu, đốn ngộ Phật thừa, thoắt chốc liền thành Phật. Những vị Tỳ-kheo ni như Kiều Đàm di mẫu, Da-Du Đà-La đều được Đức Phật thọ ký. Thậm chí nhiều đời theo phá Phật như Đề-Bà Đạt-Đa, cũng vẫn có phần. Một tiền thân của Đức Phật là Ngài Thường Bất Khinh, suốt đời chỉ hành một hạnh duy nhất là nhắc nhở cho tất cả những ai gặp Ngài “Tôi không dám khinh các người, vì các người sẽ thành Phật”. Trên thế giới từ cổ chí kim, có lẽ chưa có vị giáo chủ nào tự đặt mình ngang hàng với môn đệ và mọi loài chúng sanh như Đức Bổn sư của chúng ta.

Trong Thiền sử cũng kể chuyện nhiều vị cư sĩ, dù gia duyên ràng buộc vẫn ngộ đạo và tự tại trước sanh tử. Gia đình Bàng Long Uẩn lúc còn sống, cả nhà cùng tấu khúc vô sanh; khi hết duyên, an nhiên thị tịch mỗi người một kiểu. Việt Nam có 5 đời vua Trần đều ra đi một cách an nhàn. Tuệ Trung Thượng Sĩ là hình ảnh tuyệt vời của một bậc phong lưu tiêu sái, ở trong trần mà không chút bợn nhơ.

Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trên đời(3)

“Thân ngoại vật” là thân không bị ràng buộc bởi các duyên, dù ở nơi thế tục mà vẫn xuất thế. Người hoàn toàn sống với Phật tánh sẵn đủ thì dù ở hoàn cảnh nào, dưới hình tướng nào, cũng cùng Phật Thánh làm bạn.

Đoạn vấn đáp sau đây là một giai thoại trong nhà Thiền:

- Năm nay Ngài bao nhiêu tuổi ?
- Tuổi tôi bằng tuổi Phật Di –Đà
- Vậy Phật Di-Đà bao nhiêu tuổi ?
- Phật Di- Đà bằng tuổi tôi.

Người không hiểu tinh thần bình đẳng của nhà Thiền sẽ cho câu nói này là phạm thượng bất kính. Phật A-Di-Đà là Đấng Giáo chủ ở cõi Cực Lạc, bằng
48 lời đại nguyện đã thiết lập Tịnh độ Tây phương, tiếp dẫn chúng sanh. Ai có lòng tin đối với Ngài, với cõi nước của Ngài; có tâm chí thành chí kính muốn sanh về Cực Lạc, niệm danh hiệu Ngài đến nhất tâm bất loạn; thì khi mạng chung, Ngài và chư Thánh chúng sẽ hiện đến trước mặt, tiếp dẫn về Tịnh độ. Đức Phật A-Di-Đà là vị Phật đã thành đạo trước Đức Bổn Sư mười kiếp, làm sao có thể so sánh tuổi mình với tuổi của Ngài? Phật A-Di-Đà, Trung Hoa dịch là Vô lượng quang và Vô lượng thọ, tức ánh sáng và thọ mạng vô lượng. Tự tánh Di-Đà là Phật tánh thường hằng sẵn đủ ở mỗi chúng sanh. Chúng sanh mê mờ, quên tánh giác đuổi theo ngoại trần (bối giác hiệp trần) nên cứ lên xuống trong trần lao sanh tử; chư Phật sống trọn vẹn với Pháp thân thường trụ, không nhiễm trần cấu (bối trần hiệp giác) nên là những bậc giác ngộ Giải thoát. Nhưng dù chúng sanh còn vô minh còn luân hồi, Phật tánh vẫn thường nhiên, bình đẳng cùng chư Phật. Thẩm thấu được điều này, chúng ta có cơ sở để phấn đấu không mệt mỏi, chỉ cốt đạt mục đích cuối cùng. Biết và tin chắc mình có chánh nhân thành Phật, đó là động cơ khích lệ vô cùng quý báu trên đường đạo thăm thẳm và đầy cạm bẫy chông gai.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2023(Xem: 1590)
Phật Tánh? Xin nói rằng, tôi không biết. Tôi không thể trả lời câu hỏi có Phật Tánh hay không, và nếu có, thì là như thế nào. Bài viết này không nhằm trả lời những câu hỏi tương tự, mà chỉ là một khảo sát từ cương vị một người học Phật, chưa học tới đâu và cũng chưa tu tới đâu. Bài viết này là một lời thú nhận, rằng không biết chắc có bao nhiêu phần đúng, nhưng hy vọng sẽ phần nào giúp được một số độc giả để dùng làm viên gạch dò đường qua sông. Xin mời độc giả khảo sát, nghi vấn từng câu, từng chữ trong bài này, và rồi nên dựa vào Kinh Phật để đối chiếu.
03/08/2022(Xem: 3575)
Hít vào thở ra, đếm: "một" Hít vào thở ra, đếm: "hai" Cứ thế, đến "mười" rồi nghỉ Vài giây sau, lại bắt đầu
05/07/2022(Xem: 5466)
“Niêm hoa vi tiếu” (Chữ Hán: 拈花微笑, Nghĩa Việt: cầm hoa mỉm cười), gọi đầy đủ là “Niêm hoa thuấn mục phá nhan vi tiếu” (Chữ Hán: 拈華瞬目破顏微笑; Nghĩa Việt: Đưa hoa ra, trong chớp mắt thì chuyển mặt mỉm cười), chuyện kể Đức Phật thông qua hành động im lặng cầm hoa sen truyền Tâm Ấn Trí Tuệ Bát-nhã cho Ngài Ma-ha Ca-diếp. Giai thoại này được cho là bắt nguồn từ giới Thiền Tông Trung Quốc nhằm dẫn chứng cho hệ truyền thừa Thiền Tông bắt nguồn từ Đức Phật.
12/03/2022(Xem: 8280)
Thái tử con vua bỏ cõi trần Xuất gia học đạo quyết tìm chân Thừa đương ấn pháp du Hoa lục Đảm nhiệm tông phong báo Phật ân Thiếu Thất trừng tâm truy diện mục Tung Sơn diện vách bặt ngôn âm Chín năm huyền sử bày chân tướng Lục diệu pháp môn mở diệu tâm.
10/02/2022(Xem: 7632)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống. Thậm chí một số cho rằng lối tu truyền thống bao gồm tụng kinh, niệm Phật trở nên lỗi thời, chỉ có tu theo Thiền Chánh Niệm mới giải thoát mà thôi. Quan niệm đó hoàn toàn sai, trái với lời Phật dạy. Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng, “Pháp của ta không có thấp có cao”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật lại dạy rằng “vạn pháp bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm” và diễn rộng là là “bất thấp, bất cao, bất đúng, bất sai”. Tất cả tùy căn cơ của mỗi chúng sinh mà thôi.
02/12/2021(Xem: 16357)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
23/11/2021(Xem: 5166)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
19/11/2021(Xem: 6922)
Trung Bộ Kinh Nikãya có bốn bài kinh số 131, 132, 133 và 134 có cùng nội dung chỉ khác nơi và người giảng. Cả bốn bài kinh này có tên là “Bhaddeka ratta Sutta” đã được cố đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pãli sang tiếng Việt, gọi chung là “Nhất Dạ Hiền Giả”. Trước đây chúng tôi đã có bài viết “Tìm Hiểu Kinh Nhất Dạ Hiền Giả”, số 131 (*). Nay, với tinh thần cầu học, chúng tôi muốn chia xẻ thêm với các bạn thiền sinh, cũng đề tài này qua văn phong dịch thuật của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh với tựa đề là “Kinh Người Biết Sống Một Mình”.
18/11/2021(Xem: 3866)
Dù nhìn dưới góc độ nào hay y cứ theo ý nghĩa của bất kỳ truyền thống nào thì Triết gia Karl Marx (1818-1883) không phải là một Phật tử. Từ những nguồn có thể xác định được, trong những chuyến vân du đó đây vòng quanh châu Âu, cá nhân Triết gia Karl Marx chưa bao giờ tiếp cận với bất kỳ hình thức Phật giáo "dân tộc" nào.
09/11/2021(Xem: 5388)
Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành thiền quán tập trung 4 đối tượng Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thực hành Tứ Niệm Xứ, giúp người tu có được cái nhìn sâu sắc về vô thường, từ đó loại bỏ được những phiền não trong cuộc sống hàng ngày.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567