Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

1. Các Thực Hành Chuẩn Bị Cho Việc Hàng Phục Dòng Tâm Thức Chính Bạn

07/01/201110:03(Xem: 3495)
1. Các Thực Hành Chuẩn Bị Cho Việc Hàng Phục Dòng Tâm Thức Chính Bạn

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo
Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston
none
none

PHẦN MỘT

GIỚI THIỆU VÀ CÁC CHUẨN BỊ

1

Các Thực Hành Chuẩn Bị Cho Việc Hàng Phục
Dòng Tâm Thức Chính Bạn

Bây giờ chúng ta đến các thực hành chuẩn bị, đó là cốt lõi thật sự của thực hành Pháp. Đây không phải là thời gian để đi tắt. Chúng ta đã đi tắt từ thời luân hồi vô thủy, và điều này dẫn đến sự hiện hữu kéo dài mãi mãi trong sinh tử của chính chúng ta. nếu chúng ta đi tắt trong hiện tại như đã từng đi trong quá khứ, thì trong tương lai chúng ta chỉ tiếp tục lang thang trong sinh tử. Do vậy, lắng nghe, học tập kỹ lưỡng và áp dụng giáo lý vào thực hành là rất quan trọng. Nếu không làm như thế mà nghĩ rằng bạn có thể giảng dạy giáo lý này cho người khác, thì thật hổ thẹn. Bạn đã phá sản. Tất cả giáo lý này đều là giáo lý Atiyoga, và không nên đối xử hời hợt hoặc thiếu trang trọng theo kiểu đó. Với những ai đang dự định lướt qua sáu tiến trình chuyển tiếp, nếu bỏ qua thực hành chuẩn bị thì bạn thật sự tạo sai lầm và làm mất toàn bộ điểm quan trọng.

Sự giới thiệu này liên quan đến các thực hành chuẩn bị để hàng phục dòng tâm thức bạn, và điều này bắt đầu bằng một cầu nguyện.

Những Thực Hành Chuẩn Bị Để Điều Phục Dòng Tâm Thức Bạn

Với niềm tin và sùng kính, con thầm đảnh lễ
Đến Pháp Thân Phật nguyên thủy Phổ Hiền,
Báo Thân, chư Bổn Tôn quang vinh hiền minh và phẫn nộ,
Và đến Hoá Thân, Đức Liên Hoa Sanh.

Trước tiên, mục đích của tiêu đề hay tên của bản văn là gì? Có rất nhiều lý do. Trước hết, chỉ nhìn đề tựa của bản văn, một người thông thạo Giáo Pháp sẽ có một ý thức rất rõ về những gì bản văn nói từ đầu đến cuối. Đề tựa giúp người ta xếp đặt bản văn nằm trong số ba yana và nhận ra là loại giáo lý gì.

Lấy một ví dụ tương tự, điều này giống như bạn có một loại thuốc được dán nhãn tên hiệu, thành phần, và lợi ích. Đó là mục đích của tiêu đề bản văn cho người am tường. Với người không học nhiều, tiêu đề của bản văn tối thiểu cũng cho họ một số ý niệm rằng nó có thể là một bản văn Đại Thừa. Họ sẽ có một số ý niệm về nội dung bản văn, dù họ sẽ không hoàn toàn nắm được văn cảnh và ý nghĩa của nó. Thứ ba là, khi có tiêu đề của bản văn, tối thiểu bạn sẽ biết tìm kiếm nó như thế nào.

Theo sau đề tựa là một kính lễ bốn dòng. Kính lễ để làm gì? Rõ ràng, có nhiều loại kính lễ: có thể là kính lễ đến guru (đạo sư), đến Bổn Tôn đã chọn, và nhiều vị khác. Mục đích của điều này là gì? Có rất nhiều lý do bao gồm sự kính lễ ở đầu bản văn. Một là bằng việc bày tỏ sự tôn kính, tác giả đang xin phép các bậc giác ngộ để soạn thảo tác phẩm sau đây. Nó cũng bao gồm sự kêu cầu một ban phước từ các bậc giác ngộ, và nhất là tác phẩm được bàn bạc có thể đạt thành tựu cao nhất và được hoàn tất. Nó cũng được dùng để cầu nguyện rằng giáo lý sắp soạn thảo có thể lợi ích cho chúng sanh và cho sự bảo tồn Giáo Pháp.

Kế tiếp, điều mà truyền thống chúng ta gọi là “cam kết để soạn thảo bản văn”, qua đó tác giả lập một cam kết để ban giáo lý này. Một lần nữa, lý do nào mà tác giả lập cam kết soạn thảo bản văn này? Nếu đây là một tác giả có tinh thần thế gian, hiện đại, thì sự soạn thảo có thể được làm vì mục đích lợi nhuận. Điều này không phải là trường hợp của các bậc vĩ đại đã soạn thảo bản văn như vậy. Ngoài ra, động lực của các Ngài là điều mà họ muốn soạn thảo bản văn đều vì lợi ích của chúng sanh và lợi ích của Giáo Pháp. Cũng giống như trường hợp chọn Bổn Tôn: bạn chọn Bổn Tôn của mình; và, với sự lựa chọn đó cũng có sự cam kết để thực tế hóa vị Bổn Tôn đó. Trong tiến trình này, khi lập cam kết, chẳng hạn như bạn có thể tự phát sinh như Đức Văn Thù. Sau đó, bạn đem Ngài vào hành động. Đó là một lộ trình. Một lộ trình khác là bạn đơn giản chỉ khẩn cầu sự ban phước của Đức Văn Thù có thể đi vào bạn để bạn có thể đem tác phẩm này đến tột đỉnh của nó. Mục đích chủ yếu khác cho sự cam kết ban đầu là để tác phẩm có thể đưa đến tột đỉnh, để nó có thể được làm tốt, và nó có thể làm tốt vì lợi ích của người khác. Do vậy, chúng ta thấy rằng tất cả mấu chốt này đều nằm trên động cơ của các vị, và sự quan trọng của nó đúng ngay từ lúc khởi đầu. Giống như chúng ta thường tụng niệm “vì lợi ích của tất cả chúng sanh khắp hư không” và sau đó đem vào bất cứ thực hành nào, như đã làm trong thực hành hàng ngày của chúng ta, thì đây là trường hợp trong việc soạn thảo một bản văn. Động cơ là sự khởi đầu hết sức quan trọng.

Tùy theo năng lực cầu nguyện, những hướng dẫn dựa trên kinh nghiệm về các tiến trình chuyển tiếp
Được hiển lộ vì lợi ích của những đệ tử đang rèn luyện dòng tâm thức họ.
Trong đây, đó là những thực hành chuẩn bị, thực hành chính và kết thúc;
Và các hướng dẫn tiệm tiến ở đây trong thực hành chuẩn bị
Sẽ được trình bày rõ ràng cho những người kém thông minh,
Với sự giới thiệu và thực hành tùy theo truyền thống của vị guru.

Ở đây, tác giả nói rằng điều này không chỉ do sự tạo tác chính Ngài. Mà nó phù hợp với truyền thống của vị guru; và ngụ ý rằng sẽ quay về với Đức Vajradhara (Kim Cương Trì), Đức Phật nguyên thủy.

Có nhiều ý nghĩa trong câu đơn giản, “trình bày rõ ràng”. Với một số bản văn, bạn có nguồn gốc, hay nguyên thủy, đề tài, cũng như nhiều luận giảng. Tất cả các luận giảng này giống như cành nhánh phát triển từ thân. Có thể chúng quá nhiều làm che khuất cả gốc rễ. Bạn bị lạc vào những chi tiết đó và không còn thấy gốc rễ. Đó có thể là một vấn đề. Tuy vậy, vẫn có vấn đề khác là khó có thể hiểu được bản văn vì nó quá súc tích. Khi nói “được trình bày rõ ràng ở đây”, ngụ ý bản văn không thể quá sâu rộng làm bạn không thấy những gì thực sự về nó, và cũng không hoàn toàn quá súc tích khiến bạn không thể hiểu bản văn.

Chủ đề ở đây được dạy dưới dạng sáu đề tài phổ biến: (1) suy niệm về những đau khổ của vòng luân hồi, (2) sự khó khăn có được cuộc sống làm người với rảnh rỗi và thuận lợi, và (3) thiền định về cái chết và vô thường là các thực hành chuẩn bị để điều phục dòng tâm thức bạn. Những thực hành chuẩn bị để rèn luyện dòng tâm thức bạn bao gồm: (4) guru yoga, (5) mantra 100 âm, và cuối cùng (6) sự hoạt động tâm linh của cúng dường mandala.

SUY NIỆM NHỮNG ĐAU KHỔ CỦA VÒNG LUÂN HỒI

Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi. Nếu sự tan vỡ ảo tưởng về vòng sinh tử không sinh khởi, bất cứ Giáo Pháp nào bạn thực hành, đều không thể thoát khỏi cuộc sống này, sự tham lam và bám luyến của cuộc sống này không được kết thúc. Do vậy, suy niệm về những đau khổ của luân hồi là đặc biệt quan trọng.

Khi bản văn bày tỏ sự đau khổ của luân hồi, là nhằm ám chỉ cái đầu tiên trong Bốn Chân Lý (Tứ Diệu Đế), Chân Lý của Đau Khổ (Khổ Đế). Những gì cần làm là nhận ra chân lý của đau khổ và nhận ra cách thức trong đau khổ này là gì. Đau khổ như thế nào? Đó cũng là điều cần phải nhận biết. Nếu không ảo tưởng của samsara sẽ không bị tan vỡ, không thiền định như vậy thì khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là bám luyến vào luân hồi. Do đó, qua thiền định, chúng ta chống lại sự chấp bám vào vòng sinh tử. Không có những thiền định như vậy, bất cứ những hoạt động có mục đích tâm linh nào chúng ta tham gia bằng thân và khẩu đều vô ích, vì nó không có nền tảng. Do vậy, nó không giải thoát chúng ta khỏi đau khổ. Không có sự tan vỡ ảo tưởng về vòng sinh tử này, ngay cả nếu người ta dấn thân trong một số ra vẻ thực hành Giáo Pháp, thật ra đó không phải là Giáo Pháp đích thật. Không có sự thực hành Giáo Pháp đích thực, sẽ không có giải thoát và cũng không có bất kỳ giác ngộ nào.

Nhiều người có thể phản ứng, tối thiểu là bên trong, rằng họ đã nghe về các thực hành chuẩn bị nhiều lần và hoàn toàn quen thuộc với chúng. Bạn có thể nghĩ mình biết về nó, nhưng trong thực tế có thể bạn không biết. Điều đó cho thấy gì? Bạn vẫn còn bám luyến vào samsara. Chính yếu tố bạn vẫn bám luyến vào vòng luân hồi này tự nó chứng tỏ rằng bạn không biết các chuẩn bị. Bạn không có được ý nghĩa thật sự từ thực hành chuẩn bị. Bạn chưa chuyển tâm thoát khỏi samsara. Nếu bạn nhìn kỹ về Bốn Suy Niệm Chuyển Tâm, [9] sự đau khổ của samsara được bàn luận ở đây. Chỉ nghe về chúng hay thực hành thiền định một ít không có nghĩa là bạn hiểu rõ điều này. Nếu hiểu được, bạn sẽ không bám luyến vào samsara. Nó rất minh bạch, mà chúng ta lại ở đây, chúng ta vẫn trong samsara. Chúng ta vẫn bám luyến vào samsara và lý do là chúng ta vẫn chưa hiểu rõ các chuẩn bị.

Trước tiên, bạn hãy đi đến một nơi khiến sinh khởi việc làm tan các ảo tưởng. Nếu có thể, hãy đến một nơi hoang vắng, một nơi đổ nát điêu tàn, một cánh đồng cỏ khô xào xạc trong gió, hoặc một nơi đáng sợ, hay một nơi mà những người bệnh tật đáng thương, hành khất v.v.. mà trước đó là những người giàu sang sau đó rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Nếu không thể, hãy đi đến một nơi cô tịch. Về phần tư thế của bạn, hãy ngồi trên một đệm thích hợp, xếp bằng một chân. Đặt chân phải trên đất, ép chân trái chống trên đất, đặt khuỷu tay phải trên đầu gối phải, áp lòng bàn tay chống lên má phải, và lòng bàn tay trái ôm đầu gối trái. Tư thế thất vọng này sẽ dẫn đến việc hoàn toàn chán nản.

Sau đó với tâm suy niệm về những đau khổ của vòng sinh tử, và thỉnh thoảng miệng thốt ra những lời này để khơi dậy sự tỉnh thức của bạn “Than ôi! Than ôi! Khốn khổ thân tôi! Luân hồi sinh tử này là đau khổ! Niết bàn là hạnh phúc!” Hãy suy nghĩ theo cách này, “Ôi, tôi bị kẹt trong đau khổ của vòng luân hồi, giống như một hầm lửa, và tôi sợ hãi! Bây giờ là lúc đào thoát khỏi cuộc sống này. Sự đau khổ của ba trạng thái bất hạnh trong sinh tử là không thể chịu nổi, và nó thì vô tận. Những cơ hội cho hoan hỷ thậm chí không xảy ra dù trong một chốc lát. Bây giờ là lúc chuẩn bị đào thoát nhanh chóng.”

Hãy hình dung như vầy, “chu trình sinh tử này là một hầm lửa khổng lồ với sức nóng mãnh liệt. Nó sâu, rộng và cao. Trong một hầm lửa khủng khiếp như vậy, tôi la khóc vì bị mắc kẹt cùng với mọi chúng sanh khác trong luân hồi.” Diễn tả bằng lời điều này một cách nhiệt thành, với một giọng đau buồn, “Than ơi, tôi sợ hãi ở trong hầm lửa vĩ đại này của luân hồi. Từ thời vô thủy tôi vẫn bị thiêu đốt, và tôi sợ hãi.” Trong lúc bạn thốt ra những lời than vãn này, trong không gian trên hầm đó, hãy quán tưởng vị thầy tâm linh nguyên sơ của bạn, được trang hoàng với sáu loại trang sức bằng xương, trong tay Ngài cầm một móc câu bằng ánh sáng. Quán tưởng Ngài nói với bạn: “Than ôi! Sự đau khổ của luân hồi như một hầm lửa. Bây giờ là lúc thoát khỏi nó. Sự đau khổ của ba trạng thái bất hạnh của sinh tử là vô tận, và cơ hội cho hạnh phúc không xảy ra thậm chí chỉ trong chốc lát. Bây giờ là lúc thoát khỏi hầm lửa.”

Chỉ nghe được những lời này, hãy phát khởi niệm tưởng, “Than ôi! Tôi đã bị mắc kẹt lâu dài trong hầm lửa đau khổ của chu trình sinh tử. Giờ đây, với những lời quan tâm của vị thầy tâm linh, tôi sẽ đào thoát khỏi sinh tử và cũng sẽ giải thoát mọi chúng sanh.” Ngay khi bạn phát sinh tinh thần tỉnh thức này, hãy quán tưởng móc câu trong tay vị thầy giữ lấy ngực bạn; và bạn lập tức được giải thoát vào cõi Sukhavati (cõi Tịnh Độ Cực Lạc). Ngay sau đó, một móc câu ánh sáng cũng xuất hiện trong tay bạn, và mọi chúng sanh trong hầm lửa lần lượt được bạn cứu. Hãy trang nghiêm trau dồi lòng bi cho tất cả chúng sanh trong sinh tử.

Khi thiền định theo cách này, bạn nên áp dụng các giáo lý khác mà bạn đã tiếp nhận được trình bày sâu rộng hơn của những thực hành chuẩn bị, trong đó những loại đau khổ riêng biệt gắn liền vớisáu cõi luân hồi đều đã được dạy. Kết quả của thiền định như vậy là gì? Nó giúp tâm chúng ta chuyển khỏi sinh tử, và cũng giúp bạn tiến bộ trong việc trau dồi hai loại tinh thần tỉnh thức: tinh thần mong ước tỉnh thức và tinh thần mạo hiểm hướng đến tỉnh thức.

Liên tục suy ngẫm theo cách ấy, về hầm lửa của chu trình sinh tử và suy nghĩ mọi đau khổ của luân hồi. Ngày và đêm, hãy mang điều này trong tâm không sao lãng. Một sutra trình bày, “Hạnh phúc không bao giờ hiện diện trên đầu mũi kim của luân hồi.” Do đó, hãy thiền định về các vấn đề của chu trình sinh tử cho đến khi sự tan vỡ ảo tưởng phát sinh. Một khi tâm bạn quay khỏi luân hồi mà bạn đã thiền định trên đó, bạn sẽ biết chắc sự cần thiết của Giáo Pháp; và kinh nghiệm thiền định sẽ sinh khởi như việc không còn thèm khát về cuộc sống này.

Nếu tâm bạn không chuyển khỏi chu trình sinh tử, thì sự thiền định là vô nghĩa. Thiền định về điều này trong ba ngày, và sau đó trở lại. Nhờ thiền định về điều này trong lúc sống, tâm bạn sẽ rút khỏi luân hồi, và cuối cùng sẽ lên đến niết bàn. Hãy thực hành điều này! Sự thiền định về những đau khổ của luân hồi là giai đoạn đầu tiên trong Giải Thoát Tự Nhiên Qua Thiền Định: Các Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về Tiến Trình Chuyển Tiếp.

Khi bản văn sử dụng thuật ngữ “tất cả đau khổ của chu trình sinh tử,” điều này ám chỉ sự đau khổ của mọi loại chúng sanh trong samsara khắp sáu cõi. Một khi tâm bạn chuyển khỏi samsara, thì cách nói đơn giản như “Tôi sẽ thực hành Giáo Pháp” hoặc “Tôi cần phải thực hành Giáo Pháp” hay “Tôi muốn thực hành Giáo Pháp” sẽ thật sự là đúng. Mong ước của bạn sẽ đúng đắn và nó sẽ dẫn dắt bạn đến việc thực hành lắng nghe, suy nghĩ, và thiền định chân chính.

Dù bạn thiền định tại nhà hay nhập thất, điều này là điểm để khởi đầu. Dạng thiền định này dẫn đến một nền tảng; và, nếu bạn trau dồi tốt, thì những gì theo sau nó rất có ý nghĩa. Bạn sẽ có kết quả tốt nếu xây dựng một nền tảng bền vững trong loại thiền định này nhằm chuyển tâm bạn khỏi samsara. Nếu làm điều này, bạn sẽ không giống như người hăng hái đoán trước “điều kế tiếp là gì” về mặt thực hành, như thể bạn là người đang xem phim và tự hỏi nó sẽ kết thúc như thế nào. Hơn nữa, bạn sẽ có một nền tảng vững chắc, và bạn sẽ tiến bộ tốt. Dù chúng ta thực hành Giáo Pháp lâu bao nhiêu, hoặc hai mươi năm, mười năm hay tám năm – hoặc giống như trường hợp của tôi, khoảng sáu mươi hay sáu mươi lăm năm – chúng ta đều có thể xem xét những gì thực sự phát sinh trong tâm chúng ta ngay lập tức. Chúng ta có nhận thức gì? Những nhận thức tâm linh vẫn chưa xuất hiện trong tâm của nhiều người, và bởi vì không nhận thức được mục đích nền tảng, chúng ta vẫn chưa giác ngộ. Đây là lý do tại sao chúng ta vẫn chưa đạt được mục đích của mình. Tại sao chúng ta không thành công trong việc hoàn tất sự tự-quan tâm của chính mình? Bởi vì chúng ta dốc sức làm nền tảng này chưa hiệu quả.

Nếu tìm kiếm an bình cho tâm, chúng ta nên quan tâm đến những thực hành như vậy, vì bằng phương tiện này tâm chúng ta sẽ trở nên thăng bằng. Tinh thần tỉnh thức sẽ sinh khởi từ loại thiền định này, và nó cũng dẫn đến việc giảm đi phiền não trong tâm thức của chúng ta. Khi những hành giả của Pháp tìm thấy tâm họ thực sự chuyển hóa, là vì họ đã xây dựng một nền tảng vững chắc trong thiền định như vậy. Qua điều này, Giáo Pháp xuất hiện thật sự trong tâm. Ngược lại, nếu không có điều này, người ta có thể rất kiêu ngạo về kiến thức và kinh nghiệm, v.v.. của họ. Thái độ này giống như việc phá hủy sừng một con nai – thay vì để nó mọc ra trong một phô diễn đầy ấn tượng. Dù sao, tất cả điều này là một biểu hiện Giáo Pháp chỉ ở miệng và không có trong tâm người đó.

Đức Padmasambhava nói, “Thiền định về điều này trong ba ngày và sau đó thiền định trở lại.” Một số trong các bạn đã thiền định về điều này lâu hơn ba ngày. Song, đây là điều bạn có thể thiền định trong ba ngày, ba tháng, hoặc ba năm. Sau khi thành Phật, bạn chẳng cần thiền định về nó nữa. qua thực hành này, tâm chuyển khỏi samsara. Qua thực hành lắng nghe, suy nghĩ, và thiền định, cuối cùng bạn thật sự đạt đến nirvana (niết bàn). Bản chất đau khổ của samsara như thế nào? Điều đó có nghĩa gì? Điểm đầu tiên là nhận ra bản chất thực sự của tự thân samsara. Trên nền tảng đó bạn tìm ra nguyên nhân của samsara. Trong tiến trình này, việc phân biệt giữa nguyên nhân thật sự của hạnh phúc và nguyên nhân thật sự của phiền não hay đau khổ là rất quan trọng. Chỉ nói , “Ồ, tôi không thích bị đau khổ” hoặc “Tôi không thích samsara” là không đủ.

Khi chúng ta nói về samsara, dường như nó là điều xấu. Samsara là gì? Bạn chỉ rõ điều gì khi muốn nhận dạng samsara? Nếu bạn tự hỏi samsara là ai, thì bạn có thể chỉ vào chính bạn. Mỗi người chúng ta là samsara của chính mình. Nó có khác hay giống chúng ta? Không thể tìm thấy nó ở phần nào khác với hiện hữu của chúng ta; chúng ta là người kinh nghiệm đau khổ; chúng ta là người kinh nghiệm hạnh phúc. Ngoài ra, chúng ta là người tạo ra samsara cho chính mình. Vậy samsara được tạo ra phải không? Đúng, và người tạo ra là chính chúng ta. Nó xảy ra như thế nào? Với phiền não của ba độc như tham, sân, và si, chúng ta tạo ra samsara. Bản chất của ba độc là ảo tưởng. Đó là cái tạo ra samsara của chúng ta.

Tất cả chúng ta đều có bám luyến. Chúng ta chấp vào cái này sang cái khác. Tất cả chúng ta là chủ thể cho ganh tị, tất cả chúng ta đều có sân hận, và tất cả chúng ta đều có kiêu mạn; và bản chất của tất cả ba độc này là ảo tưởng. Đây là cái chúng ta có. Chúng ta sở hữu một phức hợp năm độc này. Bản chất của điều này là bám chấp vào một “bản ngã” có thật, nhưng trái lại, trong thực tế không có bản ngã vốn sẵn thực sự hiện hữu (vô tự tánh). Đó là một dạng ảo tưởng. Một dạng khác của ảo tưởng là là bám chấp nhị nguyên vào hiện hữu thực sự của chủ thể và đối tượng. Những thứ này đều là bản chất của ảo tưởng, đó là bản chất của tất cả năm độc.

Giờ đây, chúng ta có một thân được tạo ra bởi bốn hay năm nguyên tố, và chính thân này là nền tảng của đau khổ. Trên cơ sở này, chúng ta dấn thân vào nhiều loại bất thiện khác nhau. Trong phạm vi phân loại mười phần, có ba bất thiện của thân, bốn của khẩu, và ba của ý. Đương nhiên không chỉ có mười bất thiện, mà mười cái này dẫn đến vô số bất thiện khác nhau. Tham gia vào sự bất thiện sẽ dẫn đến tái sanh trong nhiều trạng thái bất hạnh khác nhau trong cuộc sống. Dựa vào cường độ của động cơ, sự bất thiện như vậy có thể dẫn đến tái sanh trong một của tám hỏa ngục hoặc tám địa ngục hàn băng. Ngoài ra, những hành động như vậy có thể dẫn đến tái sanh như một preta, hay tinh linh, có thể dẫn đến tái sanh như một súc vật, vốn có vô số loài khác nhau. Trong cõi người, chúng ta thấy sự đa dạng bao la của con người. Trên cõi người là asura, hay bán thiên, mà đặc tính nổi bật là gây hấn và cạnh tranh. Cuối cùng, đó là deva, hay chư thiên kinh nghiệm đau khổ mãnh liệt khi mạng sống của họ sắp hết.

Sự đa dạng là đặc biệt rõ ràng trong cõi người. Thậm chí trong một gia đình, có rất nhiều khác biệt ngay cả từ thành viên này sang thành viên khác về mặt công đức, tuổi thọ, và mức độ đau khổ của họ. Tất cả những khác nhau này trong cuộc sống làm người và trong những dạng cuộc sống khác là kết quả hành động trước của chúng ta. Chúng ta là người tạo ra những điều này. Chúng ta là người tạo tác. Về mặt đa dạng rộng lớn của con người, chúng ta xem xét người ta tụ họp ở đây. Mặt khác, có sự khác biệt rõ ràng giữa nam và nữ; và có những khác biệt khác trong cách bạn xuất hiện, v.v..

Chính chúng ta là người tạo ra đau khổ cho chính mình. Đây là trường hợp của con người, thật khó tìm thấy người nào trong vị trí cầm quyền, như vua chúa, hay người lãnh đạo thế giới mà không có đau khổ hoặc không có năm độc. Ngay cả giữa các lama cũng khó tìm thấy. Các lama vĩ đại nhất thì thực sự phi thường, nhưng phần lớn còn lại đều có đau khổ và vẫn là chủ thể cho năm độc. Dù người ta đầy quyền lực hay giàu có, tử tế hay hào phóng đều không có nền tảng cho sự tự đắc về vị trí của họ. Nếu trở thành người đầy sự tự cho ta là quan trọng, điều này chỉ dẫn đến bị ghét bỏ. Thậm chí nếu bạn ở vị trí có quyền lực to lớn như một tổng thống hay nhà vua, nếu trở nên kiêu ngạo về điều này trong lúc bạn vẫn là chủ thể cho đau khổ và năm độc, thì điều này chỉ dẫn đến việc bị cách chức. Ngoài ra, nếu một vị thầy tâm linh phát triển một cảm giác rằng họ hoàn toàn thật sự đặc biệt thì họ cũng tạo ra một sai lầm rất lớn.

Tất cả trường hợp được nhắc đến trước đó có thể dẫn đến việc bị ghét bỏ nếu bạn không cẩn thận. Phương cách để có sự cẩn thận là kiểm soát trên tâm thức của bạn. Nếu không chu đáo về điều đó, bạn sẽ lâm vào tình trạng bị ghét bỏ. Ngay cả nếu bạn hoạt động dưới chiêu bài phục vụ chúng sanh với một động cơ vị tha hay vì lợi ích của Giáo Pháp, nếu không kiểm soát trên tâm thức chính bạn thì có thể bạn giống như chủ đề của một cách ngôn Tây Tạng nói về người phô bày vẻ ngoài giống như một người phục vụ, trong khi bên trong lại quỷ quyệt chiếm đoạt những thứ chỉ vì tính tư lợi của chính họ. Những gì bạn nói ra miệng là vị tha, nhưng những gì bên trong thật sự vẫn là sự tự cho mình là trung tâm. Nếu hoạt động theo cách xảo quyệt như vậy, nó thật sự dẫn đến việc ghét bỏ chúng sanh, và cũng là ghét bỏ Giáo Pháp. Bằng việc phô bày vẻ ngoài như người phục vụ, trong khi thật sự cố bóp méo sự vật vì lợi ích chính bạn, tính tư lợi của bạn đe dọa hủy hoại chính bạn. Nếu bạn cố lừa gạt mọi người thì có thể trong thực tế, bạn sẽ làm được trong vài tháng, nhưng sau một thời gian họ sẽ hiểu. Chư Phật và Bồ tát đều thấu suốt toàn khắp, nên bạn hoàn toàn không thể dối gạt các Ngài! Không có gì lừa gạt được chư Phật và Bồ tát, cũng như chúng ta không thể lừa gạt được Hộ Pháp hoặc các thần thánh đi cùng các Ngài.

Thế nhưng, có một người bị lừa gạt; đó là chính bạn. Nếu cố lừa gạt người khác; người đầu tiên bị lừa gạt chắc chắn là chính bạn. Kết quả của điều này là bạn bị mất mát. Nếu cảm thấy bạn là người có lòng bi, thì điều đó là quan trọng nhất, trước tiên hãy nhìn xem trong thực tế bạn thực sự có lòng bi hay không. Vào lúc bắt đầu thì rất khó. Chừng nào chúng ta còn chấp ngã mạnh mẽ thì điều đó ngăn cản lòng bi. Thế nên, hãy xem xét cẩn thận. Chư Phật và Bồ tát đã từ bỏ khuynh hướng bám chấp và thành thật phấn đấu vì lợi ích của người khác.

Khi tôi còn là một đứa bé, tôi thường nói dối với các vị thầy tâm linh của tôi. Tôi dựng chuyện gạt các Ngài, các Ngài lắng nghe và nói, “Ồ, Ta hiểu, Ta hiểu” như thể các Ngài khen ngợi mọi điều tôi nói. Tôi cảm thấy mình đã lừa gạt các Ngài, trái lại các Ngài biết mọi chuyện diễn tiến ra sao. Các Ngài chỉ tiếp tục dẫn dắt tôi. Sau đó ở Ấn Độ, có nhiều vị đại lama mà tôi đã từng tiếp xúc, bao gồm Đức Karmapa, Dalai Lama, Dudjom Rinpoche v.v.. Khi nói về những lama như vậy, thì ngay cả nếu các Ngài nói, “Ồ đúng, ồ đúng” như thể các Ngài đồng ý và chấp nhận mọi điều chúng ta nói, nếu nói dối thì điều này chỉ dẫn đến việc chúng ta bị hổ thẹn. Từ khía cạnh của các Ngài, những gì các Ngài thấy tất cả hiện tượng đa hợp đều vô thường. Các Ngài nhìn thế gian trong ánh sáng của mười loại suy về thế giới con người giống như một ảo ảnh, giống như một phản chiếu trong gương, v.v.. Một số các lama này thật sự là các bậc thầy về Atiyoga và đang sống với kinh nghiệm của Đại Viên Mãn. Quan điểm của tất cả điều này là, nếu cố lừa gạt người khác thì chính mình là người bị mất mát. Ở Ấn Độ và Tây Tạng có nhiều người lừa dối các vị đại lama. Nhiều người đạo đức giả đến Đức Dalai Lama kể về đủ thứ chuyện, và nghĩ rằng họ đã thành công. Tuy nhiên, tất cả họ chỉ thực sự thành công trong việc đem sự ghét bỏ vào trong đầu của chính họ. Hãy thận trọng về những gì bạn nói. Điều quan trọng là đừng lừa dối. Mặt khác, kể lể một mạch mọi thứ mà bạn đã thấy, và nghe v.v.. cũng chẳng vinh dự gì. Bạn chẳng cần phải làm thế. Thỉnh thoảng, bạn có thể chỉ im lặng.

Khi chúng ta xem xét hoàn cảnh của sáu cõi hiện hữu, và suy niệm rằng chúng ta là người tạo ra nó, điều này làm chúng ta có vẻ thật sự thông minh và đầy quyền năng. Xét một khía cạnh nào đó thì đúng; nhưng xét trong một khía cạnh thì không. Khi phán xét người khác, chúng ta nói, “Ông ta làm điều này, Bà ta làm điều đó. Họ làm điều này. Tôi thì tốt, nhưng tại họ làm điều này.” Đây là một số thỏa mãn khi chúng ta chỉ ra những lỗi lầm của người khác và đăït họ vào chỗ của họ. Tuy nhiên, với người đang nghe chúng ta nói xấu người khác, chúng ta lâm vào cảnh bị chán ghét. Người khác sẽ thấy loại người chúng ta là chuyên đi nói xấu người khác. Điều này như thể chúng ta có một số năng lực phi thường có thể tạo ra nhiều cảnh giới khác nhau của luân hồi.

SUY NIỆM VỀ SỰ KHÓ CÓ ĐƯỢC CUỘC SỐNG LÀM NGƯỜI
VỚI NHÀN RỖI VÀ THUẬN LỢI

Nếu sự khó có được một cuộc sống làm người được rảnh rỗi và thuân lợi không được suy niệm, người ta sẽ không suy nghĩ về Giáo Pháp, nên những suy niệm như vậy rất quan trọng. Về mặt địa điểm, hãy đến nơi có sâu bọ, kiến, và nhiều loại thú vật. Về phần tư thế, hãy ngồi xếp bằng, hai tay kết định ấn.

Sự nói đến “nhàn rỗi và thuận lợi” là tám loại nhàn rỗi và mười loại thuận lợi mà hiện nay chúng ta có. Nó làm cuộc sống này khác biệt. Thân hiện tại này rất khó có được. Liên quan đến thân này, chúng ta trong một hoàn cảnh hiếm có ở thời buổi hiện đại này. Ngày nay, phụ nữ thường giết con họ khi chúng còn trong bào thai. Trước đây không lâu một phụ nữ ở miền Nam nước Mỹ đã lái xe xuống hồ giết chết hai con của bà ta; và người ta sững sờ làm sao họ lại có thể làm như vậy. Họ thật ngạc nhiên. Tôi lại hoàn toàn không thấy ngạc nhiên. Có một phụ nữ khác ném con xuống cầu, và người ta ngạc nhiên tại sao người mẹ lại có thể làm điều đó. Từ khía cạnh của tôi, điều này hoàn toàn không ngạc nhiên. Một số phụ nữ phá thai ba hay bốn lần. Khi điều đó thật phổ biến, tại sao lại ngạc nhiên rằng một phụ nữ phải đợi ít lâu khi để giết con khi chúng lớn lên một chút? Có gìï khác biệt lớn đâu?

Cuộc sống làm người mà hiện nay chúng ta có được có thể là động cơ để đạt Phật quả. Nó có thể là lý do cho chúng ta phục vụ hiệu quả cho nhu cầu của người khác và làm nhẹ bớt đau khổ của họ. Đây là tiềm năng chúng ta có với thân hiện tại này. Khi chúng ta xem kỹ những phẩm tính của Phật quả, chúng có vẻ như đáng kinh ngạc. Đúng như vậy, nhưng chúng ta nên nhận ra rằng thân hiện tại này hoạt động như một nguyên nhân để đạt được những phẩm tính kỳ lạ đấy của Phật quả. Tương tự, về mặt tỉnh thức tâm linh chúng ta có thể thấu hiểu tình thương và lòng bi to lớn trong sự sợ hãi tràn ngập trạng thái tâm thức đó. Một lần nữa, hãy nhận biết rằng tỉnh thức tâm linh là điều gì đó có thể được trau dồi với thân này. Để học hỏi nhiều hơn về sự quý báu và hiếm có của cuộc sống làm người với nhàn rỗi và thuận lợi, đơn giản chỉ quay trở lại những Tư Tưởng làm Chuyển Tâm. Nó là sự đi trở lại từ A, B, C mà khi bạn đạt được, hãy tiếp tục trở lại với nó.

Hãy suy nghĩ trong tâm theo cách này: “Than ôi! Có được cuộc sống con người chỉ ở bây giờ. Nếu không thể đem Giáo Pháp vào thì sau này rất khó có được. Ngoài ra, việc chỉ có cuộc sống con người cho tôi là không đủ, vì những chúng sanh trong tam giới đang lang thang lâu dài trong những trạng thái bất hạnh, Ôi đáng thương thay!”

Thốt ra miệng những lời này trong giọng nói nhẹ nhàng và để chúng khởi lên trong sự chú tâm của bạn: “Than ôi! Than ôi! Khốn khổ thân tôi! Có được cuộc sống con người quý báu chỉ ở bây giờ, nếu tôi thất bại trong việc hoàn tất bất cứ Giáo Pháp nào trong đời này, thì rất khó có được cuộc sống làm người sau này. Thương thay cho những người tái sanh trong ba trạng thái bất hạnh của hiện hữu!”

Sinh khởi sự chú tâm của bạn với những lời này và thiền định như sau: “Khắp vũ trụ bao la cho đến tận cùng của không gian, chúng sanh đang kêu gào đau khổ trong cõi địa ngục, preta đang chịu đựng đau khổ không thể chịu nổi của đói và khát; và tất cả thú vật – bao gồm cọp, beo, gấu đen, gấu nâu, chó, cáo, sói, trâu yak, dê, và cừu – ăn thịt lẫn nhau. Ở dưới đất, kiến đỏ, kiến đen, bò cạp, nhền nhện, và mọi loại côn trùng đầy trên đất giết hại lẫn nhau. Dưới nước, vô số sinh vật sống trong nước bao gồm cá, ếch nhái, nòng nọc giết lẫn nhau. Và trong bầu trời, kên kên, diều hâu, chim ưng, đại bàng, chim sẻ, quạ, bồ câu, chim ác là, chim chíc, v.v.. đầy trong bầu trời giết và ăn thịt lẫn nhau. Ngay cả các côn trùng có cánh đầy trong bầu trời và trên đất đều ăn thịt những sinh vật khác, tạo ra những âm thanh đáng sợ.”

Trong chu trình luân hồi này, có những loại đau khổ chung mà mọi chúng sanh là chủ thể. Rồi có những đau khổ đặc biệt gắn liền với nhiều cõi khác nhau của luân hồi, trong đó người ta có thể bị sinh vào đó. Nói chung, cường độ của đau khổ, cách thức phải kinh nghiệm đau khổ, và thời gian chịu đau khổ được tạo ra bởi chính hành động của người đó. Nghiệp của người đó là yếu tố quyết định.

Hãy quán tưởng toàn bộ bầu trời và trái đất di động và rung chuyển, bao la và đáng sợ. Sau đó suy nghĩ như vầy: “Ở giữa chúng, tôi đơn độc trên một đỉnh núi cao, không bạn đồng hành. Chỉ mình tôi có được cuộc sống làm người, và tôi sắp rơi xuống. Than ôi! Giữa vô số cư dân của các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chỉ mình tôi có được cuộc sống con người. Có phải hoàn cảnh độc nhất hiện tại này chỉ là vận may của tôi, hay nó xuất hiện bởi năng lực của công đức? Có được thân người rồi, thật khó kiếm lại, giờ đây nếu tôi không có mục đích, rơi trở lại trắng tay, tôi sẽ kinh nghiệm những đau khổ tràn ngập ở đó. Thật lãng phí biết bao! Bây giờ tôi có được thân người khó kiếm, không có thời gian để lãng phí, vì giờ đây chẳng mấy chốc tôi sẽ bị rơi xuống đó. Vậy cách gì tốt nhất để tránh không rơi xuống đó? Nó ở đâu? Than ôi! Khốn khổ thân tôi? Ôi, tôi sợ quá!”

Tha thiết thốt ra những lời than vãn này: “Than ôi, tôi sợ quá! Có nhiều chúng sanh trong trạng thái khốn khổ của sinh tử. Việc có được cuộc sống làm người thật hiếm. Và chẳng mấy chốc tôi sẽ rơi xuống đó. Thân người khó kiếm lại dễ bị huỷ hoại. Tôi có thể làm gì để được giải thoát? Nếu có một con đường, tôi sẽ đi theo nó.”

Cuộc sống con người là “khó tìm” mà “dễ bị phá hủy”. Đem lại những nguyên nhân dẫn đến việc có được một cuộc sống làm người với nhàn rỗi và thuận lợi thật khó có. Mà một khi có được lại rất dễ mất. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc mất nó. Người ta cần phát sinh quyết tâm rất mạnh mẽ để làm bất cứ những gì có thể để có được cuộc sống làm người lần nữa.

Trong khi bạn thốt ra những lời than này, giống như trước, hãy quán tưởng vị thầy tâm linh đầu tiên của bạn xuất hiện trong bầu trời phía trước, phô diễn ấn ban sự bảo vệ. Quán tưởng Ngài thốt ra những lời này với bạn: “Than ôi! Có được cuộc sống làm người với nhàn rỗi và thuận lợi thật khó tìm, giờ đây có được nó rồi, và nó thì vô thường. Chẳng mấy chốc con sẽ rơi vào một trạng thái khốn khổ của sinh tử. Nếu điều gì đó có ý nghĩa to lớn mà không hoàn thiện ngay bây giờ, thì rất khó kiếm được cuộc sống làm người sau này. Hãy nhìn vô số chúng sanh để thấy là nó có hiếm hay không. Hãy dựa vào cuộc sống làm người này để thành tựu Phật quả!”

Sự nói đến “điều gì đó có ý nghĩa to lớn,” gắn liền với cả mục đích của chính người đó cũng như với việc phục vụ những nhu cầu của người khác. Không làm gì cả với cuộc sống này mà muốn hoàn tất cả hai điều đó rồi sau đó tự hỏi liệu có hy vọng đạt được hoàn cảnh tương tự như vậy trong tương lai hay không là điều rất vô lý.

Ngay khi bạn nghe những lời này, hãy suy ngẫm, “Than ôi! Giữa vô số chúng sanh như vậy, chỉ mình tôi có được cuộc sống làm người, là điều thật khó đạt được. Giờ đây tôi sẽ tự giải thoát khỏi những đau khổ của vòng sinh tử, sau đó tôi sẽ giải thoát mọi chúng sanh ở cõi dưới này. Bây giờ không có thời gian để sao lãng, vì tôi phải nhanh chóng đem họ đến trạng thái của Phật tánh.” Ngay khi phát sinh tinh thần tỉnh thức với những tư duy này, hãy quán tưởng tinh túy của những tia sáng từ ngực vị thầy tâm linh của bạn đi vào bạn, lập tức làm bạn tới cõi Sukhavati. Sau đó vô số tia sáng xuất hiện từ ngực bạn, và đem từng chúng sanh đến cõi Sukhavati. Hãy trau dồi lòng bi hùng mạnh cho tất cả chúng sanh.

Điều này giống như sự kêu gọi thức dậy, hãy nói, “ngay bây giờ hãy nhìn xem bạn làm được gì; hãy nhìn vào cơ hội hiện nay của bạn. “Hiếm thấy ai nói rằng họ muốn làm việc vì lợi ích của người khác và hành động họ lại chẳng vị tha. Mà trong lúc họ cố giúp người khác họ không thể giúp ngay chính bản thân mình. Họ vẫn là chủ thể cho chính ảo tưởng của họ. Điều này giống như người mù dẫn dắt người mù. Trước khi tâm bạn an định khỏi phiền não thì bạn vẫn chưa được trang bị tốt để phục vụ nhu cầu của người khác một cách hiệu quả. Một số người có thể đồng ý rằng bây giờ liệu họ cố tập trung giúp đỡ người khác, có giống như người mù cố dẫn người mù hay không. Trong thực tế, chúng ta phải thật sự cố gắng giúp đỡ người khác. Tôi không nói rằng cố gắng giúp người khác là sai. Điều đó là tốt. Nhưng mức độ và tính chất của việc phục vụ mà chúng ta cống hiến bây giờ đôi khi hoàn toàn giả tạo, nên tôi đề nghị rằng chúng ta nên thấy mình liệu có biểu hiện phục vụ người khác hiệu quả và chân thành hơn không .

Để minh họa điều này, đây là một câu chuyện về một vị đại lama ở Tây Tạng. Rất nhiều lama đến thăm Ngài, và Ngài đều chào đón họ. Khi một vị tăng đến thăm, Ngài hỏi những gì ông ta biết về một lama nào đó. Vị tu sĩ nói với Ngài, “Ồ, ông ấy đang làm những việc to lớn. Ông ta xây tháp, in ấn Kinh sách, và xây dựng tu viện, đền chùa.” Vào lúc nghe điều này, vị lama nói, “Ồ, điều đó tốt, nhưng thực hành Giáo Pháp chân thực có phải còn tốt hơn không.” Vào một dịp khác, Ngài hỏi về vị lama khác. Vị tu sĩ trả lời, “Ồ, ông ấy làm nhiều việc thiện. Ông ta giảng dạy Giáo Pháp và có nhiều đệ tử. Ngài nói, “Điều đó rất tốt, nhưng việc thực hành Giáo Pháp chân thực còn tốt biết bao.” Vào dịp khác, Ngài hỏi về một lama khác; và vị tu sĩ trả lời, “Ông ấy nhập thất rất nghiêm ngặt, đang tụng niệm mantra.” Vị lama già nói, “Ồ điều đó rất tốt, nhưng thực hành Giáo Pháp chân thực lại tốt biết bao.” Vào lúc khác, Ngài hỏi về lama khác. Vị tăng trả lời, “ À, ông ta ngồi ì ra đó, trùm áo khoác lên đầu và khóc suốt.” Và vị lama già nói, “Ồ, ông ấy đang thực hành Giáo Pháp chân thực.”

Đừng nghĩ rằng người này rơi vào một số trạng thái phiền muộn kinh niên. Ông ta khóc vì lòng bi. Nếu bạn thực sự muốn phục vụ nhu cầu của người khác, thì lòng bi cũng như trí tuệ chân thực như vậy là cần thiết; điều này làm bạn có thể phục vụ người khác chân thành và hiệu quả hơn. Trái lại, khi thiếu trí tuệ và lòng bi như vậy, lại làm ra vẻ phục vụ người khác, rốt lại có khả năng là chúng ta sẽ phục vụ cho tính tư lợi của mình, trong lúc trình diễn một vẻ ngoài là vị tha thanh tịnh.

Chúng ta có thể lấy sự loại suy khác của những con nhện giăng tơ làm tổ, thấy chúng giống như đang làm điều gì đó thật đẹp đẽ và phức tạp, nhưng thật ra chúng chỉ đang chờ đợi bắt những côn trùng khác để ăn thịt. Bất cứ khi nào chúng ta bắt đầu lẫn lộn Giáo Pháp với sự việc thế gian như tám mối quan tâm thế gian, chúng ta rơi vào nguy hiểm này. Khi dẫn dắt cuộc sống chúng ta như con nhện giăng lưới, cuối cùng chúng ta cũng bị bắt giữ trong mạng lưới của mình.

Thiền định liên tục về việc khó có được cuộc sống làm người. Vị thầy tâm linh của bạn cũng nên giải thích chi tiết những lý do khó đạt được thân người. Tóm lại, quyển Một Hướng Dẫn Về Cuộc Sống Cho Bồ Tát Đạo trình bày:

Những thuận lợi và nhàn rỗi này, thật khó có được, khi đã đạt được rồi, chúng đem lại lợi ích cho người khác. Nếu lơ là không quan tâm đến cơ hội thuận lợi này, làm sao sự kiện đặc biệt này có thể xảy ra lần nữa?

Một sutra trình bày:

Ném những hạt đậu vào tường mong chúng có khả năng dính vào đó, nhưng tất cả chúng đều rơi xuống đất. Tương tự, muốn thấy việc sinh làm người là khó được ra sao, thì hãy xem số lượng chúng sanh.

Một sutra trình bày:

Ngài Sariputra (Xá Lợi Phất) hỏi Đức Thế Tôn, ‘Bạch Đức Thế Tôn, có bao nhiêu chúng sanh trong địa ngục? Và bao nhiêu chúng sanh trong các cõi ngạ quỷ, súc sanh, người, bán thiên và cõi trời?’ Đức Thế Tôn trả lời, ‘Này Sariputra, số lượng những chúng sanh trong địa ngục giống như trái đất; số lượng pretas (ngạ quỷ) giống như những hạt cát của một thành phố được xây dựng bằng cát; số lượng súc sanh giống như những hạt ngũ cốc được sử dụng làm ra rượu; số lượng của bán thiên (a tu la) giống như những bông tuyết trong một trận bão tuyết, và số lượng của chư thiên và người giống như bụi đất dưới một móng tay.’

Thế nên, bạn phải biết rằng điều này rất khó đạt được. Một sutra trình bày:

Sự xuất hiện của một vị Phật thật hiếm có và khó thấy, và sinh ra là người cũng rất khó đạt được. Những bạn bè, lòng tin và cơ hội lắng nghe Giáo Pháp có thể không có được thậm chí trong một trăm a tăng kỳ nữa.

Nếu việc có được cuộc sống làm người với nhàn rỗi và thuận lợi là khó thì sự xuất hiện của một vị Phật cũng rất hiếm và khó tìm chẳng cần phải bàn cãi. Sự nói đến “bạn bè” là nói đến những người bạn tâm linh và thánh nhân như chư bồ tát v.v...; và sự nói đến “niềm tin” là niềm tin phục vụ như một nguyên nhân để đạt giác ngộ. Chúng “có thể không có được thậm chí trong một trăm a tăng kỳ.”

Do vậy, hãy thiền định theo cách này về sự khó đạt được một cuộc sống làm người với nhàn rỗi và thuận lợi cho đến khi tâm bạn chuyển khỏi chu trình sinh tử. Nếu cuộc sống làm người là khó đạt được, bằng mọi phương tiện bạn phải làm thấm nhuần cơ hội duy nhất với Giáo Pháp hiện tại này. Hãy trau dồi lòng bi chân thành cho những người có được cuộc sống làm người thuần túy nhưng trở về trắng tay. Nếu lòng bi không sinh khởi khi bạn thấy những người thế gian này, thì kinh nghiệm sẽ không xuất hiện. Nếu lòng bi phát sinh và sự nhiệt thành tăng trưởng, kinh nghiệm sẽ sinh khởi. Nếu sự nhiệt thành không gia tăng, thì thiền định là vô ích. Hãy thiền định về điều này trong ba ngày, sau đó quay trở lại!

Cơ hội của Giáo Pháp giống như sống trong một vùng đói kém đột nhiên gặp được một bữa tiệc. Nếu bạn đến dự một bữa tiệc lớn lại chẳng ăn gì, sau đó trở về cuộc sống khô cằn, điều này thật ngu dại. Tương tự, chúng ta đã lang thang trong sinh tử một thời gian dài vô tận, và giờ đây chúng ta ở trong hoàn cảnh có phương tiện làm cho chính mình và người khác đạt được giác ngộ. Bỏ qua cơ hội này thì thật điên khùng.

Nếu bạn phản ứng với sự ghen tị, kiêu mạn, giận dữ khi thấy người thế gian tham gia làm nhiều loại việc xấu, bạn vẫn thiếu một kinh nghiệm chân thực của Giáo Pháp. Nếu phát sinh lòng bi chân thực và kiên trì [10] gia tăng thì kinh nghiệm đã được sinh khởi. Những dấu hiệu này của Giáo Pháp thật sự xuất hiện trong dòng tâm thức của người đó. Để lòng bi chân thực như vậy xuất hiện, hãy chú tâm vào sự kiện người khác hoan hỷ hay đau khổ như chính bạn, và tất cả chúng ta tiếp tục đau khổ vì không biết nguyên nhân thật sự của đau khổ và nguyên nhân thật sự của hạnh phúc.

Khi người ta nghe về Atiyoga, Đại Viên Mãn. Mắt họ mở lớn và lắng nghe rất thích thú. Trái lại, khi chủ đề chuyển sang việc có được cuộc sống làm người là hiếm có và quý báu, họ lại tỏ ra lãnh đạm. Điều này không phải là một thái độ có ích. Khi trau dồi Bốn Tư Tưởng Chuyển Tâm, khuynh hướng chúng ta là cố che đậy toàn bộ, giống như mèo dấu phân trong cát. Bây giờ là lúc bộc lộ và sử dụng giáo lý này. Trong thời buổi hiện đại này, phụ nữ và đàn ông lớn tuổi thường cố che dấu tuổi tác của họ, và họ thật sự thích khi nghe người khác nói, “Ồ, bạn trông thật trẻ”. Tất cả đều là giả dối. Họ không còn trẻ nữa, họ già rồi. Những gì họ nên làm là chuẩn bị cho cái chết của họ.

Về mặt thực hành Giáo Pháp, rất thường xảy ra trường hợp bạn bè và bạn đồng hành sẽ là sự đe dọa cản trở lớn nhất. Mặt khác, những người bạn tâm linh có thể là người hỗ trợ lớn nhất; nhưng họ cũng có thể cản trở chúng ta trong thực hành. Thậm chí mối tương quan với một vị thầy tâm linh có thể là một chướng ngại việc thực hành của chúng ta. khi chúng ta bị ám ảnh với suy nghĩ, “Vị thầy nói thế này”, và “vị thầy nói thế kia”, thì nó trở thành một chướng ngại. Do đó, nó có thể tích lũy những nguyên nhân tái sanh vào cõi thấp qua mối tương quan với vị thầy và bạn bè của chúng ta. Ở mức tối thiểu, cố gắng đừng cản trở lẫn nhau trong thực hành tâm linh. Nếu có thể giúp đỡ lẫn nhau, thì điều đó là tốt; mà, bất luận thế nào, hãy cẩn thận không gây chướng ngại cho nhau. Ở Tây Tạng, Ấn Độ, và Mỹ tôi đã thấy nhiều trường hợp bạn đồng hành cản trở lẫn nhau trong thực hành tâm linh của họ. Giải pháp là trách nhiệm thật sự của chính bạn. Bạn phải kiểm soát chính mình và biểu hiện một số nghị lực. Với những việc thế tục, chúng ta có thể thật sự cứng đầu như những con lừa, vậy; cũng như với Giáo Pháp đây là thời điểm cần cứng đầu và có nghị lực!

Cơ hội phi thường của Giáo Pháp là ở đây và bây giờ. Ngay bây giờ chúng ta ở giữa một bữa tiệc Giáo Pháp vĩ đại. Thật là một lỗi lầm tai hại khi suy nghĩ rằng chỉ những người khác cần loại thực hành này vì bạn là người đặc biệt không cần thiết thực hành điều này. Tôi đã nghe người ta có quan điểm này ở Tây Tạng. Một số lama nói, “Ồ, tôi không cần làm, nhưng các bạn nên làm.” Nhưng chúng ta có thể hỏi những người như vậy, “Bạn thật sự có năng lực khắc phục những phiền não và nguồn đau khổ của bạn hay không?” Thường là không, những người như vậy chỉ biểu lộ tính tự cao tự đại và sự khờ dại của họ.

Nhờ thiền định về sự khó được một cuộc sống làm người với nhàn rỗi và thuận lợi như vậy, trong tương lai bạn sẽ có được một cuộc sống làm người, bạn sẽ thoát khỏi thèm khát về cuộc sống này, bạn sẽ không suy nghĩ về bất cứ điều gì ngoài Giáo Pháp, và cuối cùng bạn sẽ trở thành một vị Phật. Hãy thực hành điều này! Sự thiền định về việc khó được thân người với nhàn rỗi và thuận lợi là phần thứ hai trong Giải Thoát Tự Nhiên Qua Thiền Định: Những Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về Tiến Trình Chuyển Tiếp.

THIỀN ĐỊNH VỀ CÁI CHẾT VÀ VÔ THƯỜNG

Nếu bạn không suy nghĩ về cái chết và vô thường, sự nhận thức rằng không có thời gian để lãng phí sẽ không sinh khởi trong dòng tâm thức bạn. Nếu nhận thức không để thời gian lãng phí không phát sinh trong dòng tâm thức, bạn sẽ không chống nổi sự lười biếng và uể oải, và bạn sẽ không suy nghĩ về Giáo Pháp. Bạn sẽ tự mình thích nghi với cuộc sống này, và sẽ cho phép mình lười biếng và tự mãn. Nếu chết đột ngột với thái độ thông thường này, cuộc sống làm người quý báu của bạn sẽ bị lãng phí; vậy thiền định về cái chết và vô thường là rất quan trọng. Một khi sự nhận biết vô thường sinh khởi trong dòng tâm thức, bạn sẽ không có thời gian để tự mãn. Mang cái chết trong tâm một cách nghiêm chỉnh, Giáo Pháp sẽ tự động phát sinh; do vậy, hãy thiền định về vô thường.

Mặt khác, có thể nói tất cả chúng ta đều biết rằng mình đang đi đến cái chết. Điều đó không phải là tin thời sự. Tuy nhiên chúng ta chưa nhận ra rằng thời điểm cái chết của chúng ta là hoàn toàn không thể biết trước. Chúng ta chưa thực sự tìm hiểu thực tế cái chết của chính mình. Lấy một ví dụ của một người thật sự hiểu được ý nghĩa của cái chết, nhớ lại chuyện kể về một thiền giả thực hành trong hang động mà gần cửa động có một bụi gai nhỏ. Có một ngày ông đi lấy nước, trên đường ra bụi gai cào ông, và ông nghĩ, “Ồ, tôi cần phải đốn bụi gai này để mỗi lần ra, vào không bị cào.” Ngay khi tư tưởng đó khởi lên, ông ta nghĩ, “À, nhưng nếu dùng thời gian của mình để làm việc này, có thể tôi chết trước chăng? Tôi nghĩ rằng mình không có thì giờ để làm việc đó.” Dần dần, bụi gai mọc càng ngày càng lớn hơn, và mỗi lần ra ngoài nó lại cào ông. Một lần nữa ông nghĩ, “Ồ, tôi cần phải đốn nó,” và sau đó tư tưởng ông lại khởi lên, “Nhưng tôi không có thời gian.” Điều này lại tiếp diễn, và cuối cùng thiền giả này trở thành một thành tựu giả, và bụi gai trở thành một bụi gai rất, rất lớn. Cho nên cả hai cùng phát triển đến trưởng thành. Từ một viễn cảnh, bạn có thể nói rằng bụi gai hoạt động như một chướng ngại. Nó là một cản trở cho sự tiện nghi của ông ta. mặt khác, nó hoạt động để khơi dậy sự tỉnh thức về vô thường của ông và nhờ đó giúp ông trong thực hành.

Câu chuyện đó giữ vững quan điểm trái ngược với thái độ suy nghĩ phổ biến ngày nay, “Việc thực hành Giáo Pháp là rất quan trọng, nhưng tôi có nhiều việc khác phải làm.” Thái độ này là một biểu hiện chúng ta vẫn chưa tìm hiểu thực tại của đau khổ. Chúng ta vẫn chưa thiền định đủ về ý nghĩa của một cuộc sống làm người với nhàn rỗi và thuận lợi, và chúng ta chưa thể nhập thực tại của vô thường. Ngoài ra, với loại tinh thần này chúng ta bám chấp vào những gì vô thường như trường cửu và những gì không ổn định như bền vững. Như một kết quả của thái độ không để ý này, chúng ta lẩn tránh thực hành Giáo Pháp; và, như một kết quả của điều đó, chúng ta không đạt được giải thoát. Trong thời gian đó, bất kể Giáo Pháp nào chúng ta thực hành cuối cùng đều là giả tạo.

Khi người ta chấp nhận thái độ này, sau một thời gian họ thấy không có tiến bộ trong thực hành tâm linh như họ đã hy vọng. Do vậy việc họ kết luận như sau là phổ biến, “Ồ, thế đấy, Phật giáo không thực sự hiệu quả.” Vấn đề không phải là Phật Pháp không hiệu quả mà là cách thực hành của chúng ta không hiệu quả. Nếu bạn không biết cách dùng thuốc hoặc hoàn toàn không uống thuốc, thì không cách nào bạn có thể kết luận hiệu lực của thuốc không hoạt động. Vấn đề là người ta không biết làm thế nào để nhận lấy tinh yếu của Giáo Pháp, và vấn đề phụ là người ta là chủ thể để kiêu mạn và chấp ngã. Khi trạng thái tinh thần này chiếm ưu thế, giống như chúng ta tưởng tượng chính mình đang ở một nơi rất cao từ đó chúng ta nhìn xuống Giáo Pháp. Nếu có thể chuyển ngược lại và đặt bản ngã chúng ta ở dưới Giáo Pháp, thì tự nhiên chúng ta có được kết quả tốt.

Quan điểm của thực hành là để điều phục dòng tâm thức chúng ta. Nói chung, và nhất là ở phương Tây, đa số mọi người nghĩ rằng ngay khi bạn trở thành một Phật tử, bằng cách này hay cách khác sẽ đem lại một chuyển hóa phi thường giống như việc trở thành bồ tát trong một đêm. Điều này không đúng cho bất cứ việc nào khác trong thế gian. Ví dụ, khi đi học bạn không thể đột ngột trở thành tiến sĩ hay bất cứ học vị khác. Điều này chỉ xảy ra một cách dần dần. Tuy nhiên, không nhận thức được điều này, thỉnh thoảng người ta chỉ vào một người và nói, “Ồ, người này đã là một Phật tử trong nhiều năm. Làm sao họ có thể làm như vậy?” Toàn bộ công việc của “nhiều năm” này không có gì là ghê gớm lắm, chúng ta đã củng cố các phiền não trong tâm thức rất nhiều kiếp. Chúng ta đang đối phó với một đại dương thật sự của phiền não tinh thần. Thực hành Giáo Pháp trong nhiều năm hoàn toàn rất tốt, nhưng đừng mong đợi chuyển hóa triệt để, phi thường, ngay cả bạn đã thực hành trong một thời gian dài. Sự chuyển hóa xảy ra từng chút một. Thật sai lầm khi mong đợi rằng sự chuyển hóa kỳ lạ sẽ xảy ra nếu bạn trở thành một Phật tử và chỉ thực hành Giáo Pháp trong một thời gian ngắn.

Ngay cả dù có thể bạn đã là một Phật tử trong một thời gian dài, những lỗi lầm có thể tiếp tục tồn tại, bạn phải tiếp tục trong thực hành theo từng bước. Nếu một Phật tử đã thực hành nhiều năm mà vẫn tham gia vào những việc bất thiện, điều này có phải là lỗi của Phật giáo hay không? Tôi nghĩ là không, đây chỉ là những vấn đề của con người mà Phật giáo chỉ cung cấp phương thuốc. Nó chẳng là lỗi của Phật giáo, chẳng hạn đạo Công Giáo khi một số tín đồ Công Giáo đã thực hành tín ngưỡng của họ trong nhiều năm cũng biểu hiện một số lỗi lầm nào đó. Tôi cảm thấy đây không phải là lỗi của đạo Công Giáo; đơn giản đây là lỗi của con người. Tương tự, điều này cũng đúng với Hồi Giáo, v.v...

Quan điểm chung cho rằng thực hành hay thực hành đạo Phật nói riêng giống như quy trình “nhấn-nút” dĩ nhiên là sai lầm. Những người không phải đạo Phật sai lầm khi áp đặt sự mong cầu của họ lên những Phật tử, nghĩ rằng họ phải đạt được một số tiến bộ tâm linh thật sự nhanh chóng, kỳ diệu. Những người mong đợi và đánh giá như vậy từ bên ngoài nên để chính bản thân họ tiếp cận và kiểm nghiệm. Hãy bước vào, thử nó, và thấy việc trở thành bồ tát trong một đêm chỉ bằng việc búng ngón tay của bạn có thật dễ dàng hay không.

Dù chúng ta có thực hành tịnh hóa dòng tâm thức mình hay không đều tùy thuộc vào việc trau dồi Bốn Tư Tưởng Làm Chuyển Tâm và thiền định về Tứ Diệu Đế. Đây là điểm trọng yếu để tịnh hóa tâm. Cũng từ thiền định này tinh thần của tỉnh thức xuất hiện. Một tinh thần tỉnh thức thật sự như vậy hoặc thậm chí là một số bản sao, đều sinh khởi từ thiền định như vậy. Tương tự, mức độ niềm tin mà chúng ta có nơi Phật, Pháp, Tăng v.v... đều xuất phát từ sự hiểu biết của mình về Bốn Tư Tưởng Làm Chuyển Tâm và Tứ Diệu Đế. Nếu thiếu sự hiểu biết này, bạn sẽ không có nền tảng để thực hành Giáo Pháp.

Về phần những vị khenpo, tulku, lama, tu sĩ, vị thầy, v.v... nếu những vị này thật sự có tâm linh tỉnh thức, điều này cho thấy các vị hoàn toàn hiểu biết thấu suốt về Bốn Tư Tưởng Làm Chuyển Tâm và Tứ Diệu Đế. Có được hiểu biết này ngụ ý rằng các vị không còn bám luyến bản thân và ác cảm với người khác. Cũng ngụ ý rằng các vị được phú cho lòng bi và niềm tin. Thậm chí dù có những vị lama, khenpo, vị thầy, tulku, v.v... có những phẩm tính và sự thanh tịnh như vậy, thật khó cho chúng ta có thể thấy và xác quyết cho chính mình. Những gì chúng ta thấy đều là lỗi lầm. Vì bản thân chúng ta có khuyết điểm, chúng ta có khuynh hướng thấy lỗi lầm. Do đó, ngay cả nếu gặp một người thanh tịnh thì thật khó cho chúng ta nhận ra được người đó là thanh tịnh. Ví dụ, chẳng hạn nếu Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến ngay đây, có khả năng chúng ta thấy lỗi lầm nơi Ngài. Hoặc Đức Padmasambhava bước vào cửa ngay bây giờ. Và nhìn cách cư xử của Ngài chúng ta có thể kết luận, “Ồ, ông ta là một tay chơi.” Hoặc nếu Đức Phật Shakyamuni đến, có thể chúng ta nghĩ, “Ồ, một gã đầu trọc!” chúng ta xây dựng tất cả những khái niệm chấp trước này. Sự phóng chiếu này xuất phát từ những lỗi lầm của chính chúng ta. Nếu chúng ta có khả năng nhận thấy lỗi lầm của các bậc hoàn toàn thanh tịnh, thì chẳng cần bàn cãi nữa chúng ta sẽ thật sự bị tập trung vào các lỗi lầm của người khác mà trong thực tế có thể họ có một số lỗi lầm. Chẳng hạn, trước đây có một câu chuyện về Đức Dalai Lama, nói Ngài có một số bạn gái người phương Tây, mà, dĩ nhiên đây là một chuyện bịa đặt. Trong thực tế, Đức Dalai Lama chưa từng gặp một phụ nữ nào đáng bị nghi vấn. Tuy nhiên, những tin đồn như vậy lại lan truyền, hoặc bởi Cộng Sản hoặc do một số hệ phái cạnh tranh, ai biết được? Loại nói xấu này có thể xuất phát từ chủ nghĩa bè phái, từ Chủ nghĩa Cộng Sản, hay từ những tổ chức chính trị. Do vậy, quan điểm là mỗi người chúng ta cần giải thoát chính mình khỏi lỗi lầm. Từ viễn cảnh của Đức Dalai Lama và bất cứ người lành mạnh nào khác, chỉ nên nhìn người phao tin đồn như vậy với lòng bi.

Những lỗi lầm của người khác thật sự không phải là việc của chúng ta, và chúng ta không cần quan tâm tới chúngï. Điều quan trọng là chú tâm vào Bốn Tư Tưởng Làm Chuyển Tâm, vì điều này thật sự giải thoát chúng ta và người khác. Chúng ta cần giải thoát chính mình khỏi thái độ không để ý làm chúng ta đi vòng vòng không chủ định, và để chuyển hóa tâm chúng ta cần không có thì giờ dành cho tám mối quan tâm thế gian. Khi bản văn nói, “Bạn sẽ áp dụng những hoạt động của chính bạn vào cuộc sống này,” nó đặc biệt ám chỉ tám mối quan tâm thế gian này. Có phải là một mất mát lớn nếu chúng ta bỏ lỡ cơ hội thực hành Giáo Pháp và sau đó làm mất nó một cách dễ dàng không để lại dấu vết hay không? Nếu ai đó ăn cắp của bạn một ngàn đô la, bạn sẽ cảm thấy, “Ôi, tôi bị mất nhiều quá! Một mất mát lớn thay! Thật là một thảm họa! Thật là một lãng phí!” hiện thời chúng ta được phú cho cuộc sống này vốn có thể hoạt động như một nguyên nhân cho hạnh phúc, cho chính cuộc sống này cũng như trong kiếp tương lai, và vào lúc này chúng ta không coi trọng cơ hội này nhiều như việc coi trọng đồng tiền. Ngoài ra, đôi lúc thậm chí chúng ta còn giúp được sự lãng phí thời gian của người khác qua việc tham gia vào hành động bất thiện, v.v... của họ.

Đôi khi đi vào Giáo Pháp cũng giống như đi đến cửa mà không có chìa khóa và tự hỏi, “Làm sao tôi vào được?” Nhờ thiền định về cái chết và vô thường, cánh cửa của Giáo Pháp sẽ tự nó mở ra.

Hãy thiền định trong những nơi chốn như vầy: Hãy tự bạn đi, không bạn đồng hành, lên một vùng xa xôi chưa có ai đến, một nơi đáng chán, không vừa ý, tối tăm, hiểm trở, đầy sỏi đá, và đổ nát làm bạn đồng hành, nơi đó làn gió tạo âm thanh xào xạc trong cỏ, với mặt trời đang lặn khỏi bầu trời, và những dòng sông của núi non chảy xuống vang như sấm. Hoặc đi đến những mộ địa, ở đó có nhiều xác người nằm xung quanh, với các mảnh chân, tay, xương, thịt và da, nơi có những con cáo tru gào, những con quạ đang đi vòng quanh, các con cú đang gọi nhau huyên náo, gió đang rền rĩ, chó sói và cáo đang lôi kéo qua lại trên những xác chết. Chính bạn tự đi đến một nơi khủng khiếp, đáng chán, ghê rợn, và sợ hãi như vậy. Nơi chốn tạo ra một khác biệt lớn, vì đi vào một vị trí như vậy để thiền định, một nhận thức về vô thường sẽ tự động sinh khởi. Do vậy nơi chốn rất quan trọng.

Tại phương Tây, chúng ta cho rằng cảnh mặt trời lặn là huy hoàng và tương tự như vậy. Một cách khác để nhìn cảnh mặt trời lặn là chỉ xem đó là một dấu hiệu khác về cuộc đời bạn đang trôi qua. Ngoài ra, ở những nghĩa địa của Mỹ là nơi có khuynh hướng vui vẻ, đẹp đẽ với nhiều loại hoa, v.v... Nếu bạn thật sự muốn tìm kiếm điều gì đó gần gũi với những mộ địa như đã nhắc đến trong bản văn, bạn có thể đi đến Ấn Độ.

Một khi đã đến đó, hãy ngồi theo tư thế xếp bằng, lòng bàn tay ôm đầu gối, hoặc ngồi trong tư thế chán nản như trước. Thu rút tâm bạn và đi theo dòng tư tưởng này một cách nghiêm chỉnh, “Than ôi! Đây là gì? Về mặt vũ trụ bên ngoài, thì thế gian là vô thường. Bốn mùa trôi qua trong từng khoảnh khắc, xuân, hay, thu, và đông v.v... dần dần thay đổi và trôi qua. Và thậm chí trong một ngày, sáng, trưa, chiều, và tối cũng thay đổi và qua đi. Ngay cả thời gian không đứng yên một chỗ từ lúc này đến lúc kế tiếp mà nó trôi qua. Những chúng sanh là cư dân của vũ trụ đều vô thường. Cha mẹ tôi, người già, hàng xóm, người đồng hương quê tôi, bạn bè cùng thời, và tất cả kẻ thù, bạn bè cũng đều vô thường, và từng người một sẽ chết. Con người trong những giai đoạn khác nhau của cuộc đời, từ thơ ấu, thiếu niên và trưởng thành, người già, cho đến khi chết chẳng thể đứng yên trong một khoảnh khắc mà thay đổi dần dần và trôi qua. Tất cả những chúng sanh được sinh ra đều gần gũi với cái chết. Có những người năm ngoái còn hiện diện ở đây mà năm nay đã ra đi, có những người sống ở đây vào năm này nhưng đã ra đi ngày hôm qua, và những người buổi sáng còn ở đây nhưng ra đi khi màn đêm buông xuống. Tất cả đều là bản chất của vô thường. Giờ đây cái chết cũng chẳng mấy chốc xảy đến với tôi, như sự trôi qua nhanh chóng của ngày, tháng và năm. Lấy gì làm chắc cho tôi trụ được trong thân hiện tại này cho đến năm sau? Chưa nói đến việc chẳng có gì bảo đảm trong cuộc sống chính tôi, liệu tôi sẽ chết vào ngày mai hay ngày mốt không? Vì giờ chết là bất định, nên chẳng có thời gian cho tôi sống như thường lệ; do vậy, nếu cuộc sống làm người của tôi hao mòn dần trong tiến trình để thời gian trôi qua vô ích thì thật lãng phí! Tôi bảo đảm cái chết là chắc chắn. Tuy trong lúc tôi chưa chết, vẫn không ai có thể thoát khỏi chết, nên cái chết là chắc chắn. Vì thân thể là một hỗn hợp, cái chết là chắc chắn; và vì cuộc đời trôi qua không dừng lại dù trong một khoảnh khắc, nên cái chết là điều chắc chắn. Giống như đá rơi xuống từ sườn núi, hoặc như con vật bị dẫn đến lò sát sinh; tôi cũng chắc chắn đến gần cái chết.

Thậm chí trong quá trình của một giờ, bạn có thể thấy tiếng tích tắc của từng phút trôi qua. Khi một người lớn lên, họ được gọi là một đứa bé, một thiếu niên, và người trưởng thành, v.v... Những danh hiệu này là cho tiến trình thay đổi đi đến cái chết. Tất cả chúng ta giờ đây còn sống, nhưng rồi mọi người sẽ chết và trở thành một tử thi. Cũng như vậy, chúng ta hoàn toàn sắp sửa là tử thi, nên hoàn cảnh môi trường hiện tại của chúng ta hoàn toàn là một nghĩa địa. Do vậy, bạn có thực sự cần đi đến nơi nào khác hay không? Về phần Kim Cương Thừa, sáu loại ý thức được bàn luận như là một nghĩa địa. Tòa Bạch Ốc ở Washinton D.C., cũng là một nghĩa địa. Ngày nay, Potala cung điện của Đức Dalai Lama ở Lhasa cũng là một nghĩa địa.

Khi bản văn nói, “sống như thường lệ” có nghĩa vẫn sống với thói quen trước đó liên quan đến ba bất thiện của thân, bốn của khẩu, và ba của ý.

Trong lúc cái chết là chắn chắn, giờ chết thì không thể đoán trước. Vì không có gì bảo đảm rằng cuộc sống tôi sẽ tiếp tục trong bất kỳ thời gian nào đã định, vì giờ chết là không thể đoán trước. Nên không có thời gian để lãng phí năm tháng.

Khi tôi sắp chết, sẽ chẳng ai có thể giữ tôi ở lại, không có bảo vệ, sẽ không có ai giúp tôi. Tài sản mà tôi đã tích lũy sẽ chẳng giúp gì vào lúc chết, vợ, con, họ hàng cũng chẳng giúp gì thậm chí chính thân tôi sẽ chẳng giúp gì vào lúc chết. Thân thể tôi sẽ để lại phía sau đem hỏa thiêu và sẽ cuốn lên trên trong dạng tro tàn. Thậm chí tro này sẽ được gió mang đi, và không ai nói rằng chúng sẽ đi đâu. Của cải tôi đã tích lũy sẽ bỏ lại, và tôi sẽ chẳng thể lấy được gì ngay cả một cây kim. Tôi sẽ bị chia cách khỏi họ hàng quyến thuộc, vì giờ đây tôi phải đi trên một con đường dài sẽ chẳng gặp họ lần nữa. Tôi không thể đem ngay cả một người bạn đồng hành với tôi. Giờ đây tôi sắp đến thời điểm phải đi một mình vô vọng, không bạn đồng hành, vậy làm sao có thể có thời gian để sống trong sự uể oải? Làm sao có thể có bất cứ thời gian cho những hoạt động của cuộc sống này?Than ôi! Từ hôm nay trở về sau, tôi sẽ thực hành đạo đức, và ngay từ hôm nay tôi sẽ từ bỏ tội lỗi. Sau đó khi đối mặt với cái chết, tâm tôi sẽ được thanh thản, và nhờ đó tôi sẽ đạt tới con đường. Khốn khổ thân tôi! Thật đáng sợ biết bao!

Thậm chí Phật Amitayus, Đức Phật Vô Lượng Thọ cũng không thể giúp bạn vào lúc chết; và nếu Ngài không thể giúp, thì người nào có thể giúp? Ngay cả người có năng lực và ảnh hưởng vĩ đại cũng chẳng thể làm gì để giữ bạn khỏi chết. Thậm chí có một triệu Mỹ kim cũng không giúp được gì vào lúc chết. Ngay cả nếu có nhiều vợ, tất cả đều đẹp cũng chẳng giúp được bạn.

Phong tục ở Ấn Độ và nơi khác là hỏa táng xác chết. Tại Tây Tạng, việc cắt tử thi cho chim kên kên ăn cũng rất phổ biến. Ở Mỹ, việc chôn xác xuống đất để trở thành thực phẩm cho giun là phổ biến. Bất kể bạn làm gì với thân xác, cuối cùng nó cũng bị hư hoại. Ngay cả việc bạn đã tích lũy một tài sản đầy cả thế gian, cũng chẳng có thể mang theo. Bạn thường bị nhiễm nhiều bám luyến về những gì mình sở hữu, như vậy khiến có thể tích lũy những nguyên nhân tái sanh vào cõi thấp. Cho nên, “một cây kim” bạn cũng không thể mang đi sau khi chết. Giờ đây, chúng ta đang gõ cánh cửa của cái chết.

Hãy suy ngẫm theo cách đó, thốt ra những lời này với giọng nói buồn chán để chúng khơi dậy sự chú tâm của bạn, “Than ôi! Than ôi! Khốn khổ thân tôi! Vật chất đa hợp là vô thường. Ngày và đêm đang lấy đi cuộc sống của tôi. Giờ chết là không thể đoán trước. Thật may mắn biết bao khi bây giờ tôi vẫn chưa chết! Nhưng giờ đây cái chết sắp xảy đến.”

Với những người trong trạng thái cùng khổ, cái chết có thể không là một viễn cảnh xấu. Điều đó thực tế có thể thích hợp vì họ có thể giải thoát khỏi cõi đó. Trong cõi người, tôi nhận thấy người bị giam trong tù nhiều năm và bị hành hạ mà cuộc sống của họ là một chuỗi cực khổ liên tục. Từ kinh nghiệm cá nhân tôi, những người như vậy thực sự muốn tìm cái chết vì nó chấm dứt đau khổ mà họ phải kinh nghiệm trong cuộc sống. Tuy nhiên, nếu những người này có một cuộc sống bất thiện, thì khi thoát khỏi nỗi đau khổ này thậm chí còn phải chịu nhiều đau khổ tệ hơn. Trái lại, nếu cuộc sống họ đạo đức, sau khi chết trong tù, điều này không thực sự là xấu. Nói chung, phần lớn chúng ta, không ở trong trại tập trung và không bị hành hạ, đều sợ chết.

Khơi dậy một cách sinh động sự chú tâm của bạn khi thốt ra những lời này, và hình dung trong tâm như sau, “ Tôi đi đến một nơi mà trước giờ chưa từng biết đến. Vùng đất đó quay mặt về hướng bắc, tối đen, không có tiếng nói hay chuyển động của con người. Âm thanh của nước ào ạt chảy xuống. Gió đang gào hú, cỏ xào xạc. Mặt trời đang lặn xuống khỏi đỉnh núi, đá trên núi tỏa ánh sáng tía lấp lánh. Những con quạ đang kêu. Tôi đã đến một nơi chưa từng biết như vậy. Không có bạn, người đồng hành, thật là trước đây tôi chưa từng biết. Tôi phải lang thang trong sự bàng hoàng, không có cảm giác bị giới hạn ở đâu. Thốt ra miệng những lời này, “Than ôi! Khốn khổ thân tôi! Trời ơi! Chao ôi! Bất hạnh thân tôi! Không bạn đồng hành tôi lang thang đơn độc trong một nơi hoang vắng. Quê nhà tôi ở đâu? Cha mẹ tôi ở đâu? Con cháu và tài sản tôi ở đâu? Khi nào tôi về quê nhà? Chao ôi! Bất hạnh thân tôi! Thật đáng chán nản.” Nói lớn những lời này, tôi lang thang không mục đích trong sự bàng hoàng. Sau một lúc tôi đến một khe núi và té xuống. Hai tay quơ cào trong một thời gian ngắn tôi chụp được một bụi cỏ trên mặt vách đá. Nắm chặt vào nó tôi run rẩy vì sợ. Nhìn xuống dưới là một vực sâu không đáy, nhìn lên tôi thấy bầu trời. Tảng đá thì rộng lớn và trơn tuột như một tấm kiếng. Gió đang gào hú. Rơi vào một tình thế khó khăn như vậy, một con chuột trắng xuất hiện từ khe nứt của tảng đá phía bên phải bụi cỏ, gặm đứt các lá cỏ và mang đi. Một con chuột đen xuất hiện từ kẽ nứt bên trái tảng đá, cũng cắn đứt các cọng cỏ và tha đi. Hai con chuột làm việc thay đổi luân phiên, và bụi cỏ ngày càng nhỏ hơn. Tôi không có cách nào chống lại chúng, và hoảng sợ cái chết. Run rẩy vì kinh hoàng, sợ hãi, tôi nghĩ, “Giờ đây cái chết xảy đến với tôi. Chẳng có nơi nào để thoát. Tôi không có Giáo Pháp vì trong quá khứ đã không nghĩ về cái chết. Tôi sợ bị kẹt ở nơi này. Ngày hôm nay tôi sẽ chết, chuyện này chưa từng xảy ra với tôi, mà giờ đây cái chết lập tức sẽ đến với tôi. Bây giờ, từ hôm nay trở đi, tôi sẽ bị chia cắt với quê hương xứ sở, con cái, của cải, họ hàng, người cùng xứ sở, hàng xóm, bạn học, và bạn bè, tôi sẽ chẳng gặp lại họ nữa. Của cải tôi đã tích lũy sẽ để lại đằng sau, và từ giờ trở đi tôi phải đi trên một chuyến hành trình dài đến một nơi không quen thuộc mà trước đây chưa từng được kinh nghiệm. Ôi cách tốt nhất nào để thoát khỏi nỗi sợ hãi này? Nó ở đâu? Tôi nên làm gì? Ôi than ôi!”

Phép loại suy về những con chuột đang ăn cỏ biểu tượng ngày và đêm đang lấy dần cuộc sống của chúng ta. Khi có cơ hội hoàn hảo để thực hành Giáo Pháp mà chưa tận dụng được là vì chúng ta quên suy nghĩ về cái chết.

Suy ngẫm như vậy, thốt ra rõ ràng những lời này “Ôi, than ôi, Tôi sợ quá! Than ôi, cái chết đang đến gần! Giờ đây cái chết chẳng mấy chốc sẽ đến. Tôi phải ra đi một mình, không bạn đồng hành, phải đến một nơi thật xa tới một nơi chưa biết, tôi phải vượt qua một con đường lớn. Tôi có thể làm gì để được giải thoát? Nếu có cách nào, tôi sẽ làm. Than ôi, Tôi sợ quá!” trong khi than vãn những lời này, hãy quán tưởng bầu trời phía trên vị thầy tâm linh đầu tiên của bạn trên một hoa sen và mặt trăng, đang cầm một damaru (trống tay) và một chuông. Trong tư thế đang nhảy múa, Ngài trang hoàng bằng sáu loại trang sức bằng xương. Hãy quán tưởng Ngài nói với bạn, “Than ôi! Thực tại đa hợp này là vô thường và chẳng mấy chốc sẽ bị hư hoại. Bốn mùa bên ngoài là vô thường, thay đổi và qua đi. Người già, kẻ thù, và bạn bè đều chết và xa cách. Tuổi trẻ và người trưởng thành thay đổi theo từng năm, tháng, và ngày. Cuộc sống này trôi qua nhanh chóng như dòng nước chảy xuống dốc núi. Con thật khờ dại để cuộc sống trôi qua mà không biết con sẽ chết. Giờ đây vô thường và cái chết sắp xảy đến. Không có cách nào ngăn chận được cái chết này. Hãy nhìn vào hiện tại để thấy có cách nào ngăn chận được nó hay không? Bây giờ không có thời gian để lãng phí – hãy tôn kính vị thầy tâm linh của con!” ngay khi nghe những lời này, hãy suy ngẫm, “Than ôi! Trước khi chạm trán cái chết, đã có Giáo Pháp cho tôi thực hành, nhưng cho đến nay tôi vẫn chưa thực hành Giáo Pháp. Tôi hối tiếc biết bao! Giờ đây dù tôi sống hay chết, vị thầy tâm linh quý báu đều biết. Nếu vị thầy tâm linh có lòng bi, tại sao Ngài không giải thoát cho tôi khỏi vấn đề to lớn này? Vị thầy tâm linh quý báu, người cha của tôi, biết cách.

Nếu không thực hành Giáo Pháp, chúng ta sẽ hối tiếc. Bạn nghĩ gì về điều này? Bạn có nghĩ bản văn nói về cái chết và vô thường là rườm rà hay không? Phật giáo nhấn mạnh về cái chết có phải là một vấn đề không? Nó không phải là vấn đề của Phật giáo, nó là vấn đề của chúng ta. Phật giáo đơn giản chỉ gợi chú ý một số đặc tính nổi bật của cuộc sống chúng ta. Đây là vấn đề của chúng ta và của mọi chúng sanh. Là chúng sanh, chúng ta là chủ thể cho cái chết và vô thường.

Có lần, tôi giảng dạy về chủ đề này và toàn bộ kết quả của đau khổ trong samsara ở Los Angeles, và người ta hỏi tôi, “Có phải những gì Phật giáo nói tới thực sự như vậy? Nó chỉ là đau khổ? Là một tôn giáo về đau khổ?” không, điều này không phải là đặc tính của đạo Phật. Đây là một mô tả về bản chất thực sự của cuộc sống hàng ngày chúng ta. Nếu để cuộc sống chúng ta bị bám luyến chế ngự, không tư duy về cái chết, thì chết một cách tuyệt vọng là kết quả tự nhiên. Để chống lại điều đó, đã đến lúc dấn thân trong thực hành lắng nghe, suy nghĩ, và thiền định. Lý do chính của hướng dẫn này là loại bỏ tâm thức phiền não và trau dồi đạo đức của bạn.

Đơn giản phát sinh lòng sùng kính và niềm tin mạnh mẽ với những phản ánh chân thật như vậy, hãy quán tưởng tinh hoa của những tia sáng từ ngực vị thầy tâm linh đi vào bạn; và cùng lúc đám cỏ bị kết thúc, những tia sáng lập tức nhấc bạn lên và đem bạn đến cõi Sukhavati. Sau đó, vô số tia sáng chiếu ra từ ngực bạn đem từng chúng sanh của tam giới đến Sukhavati. Hãy trau dồi lòng bi mạnh mẽ cho tất cả chúng sanh. Vị thầy tâm linh cũng nên ban một giải thích chi tiết về những lý do cho cái chết và vô thường. Suy ngẫm về cái chết và vô thường trong cách đó và hãy phát sinh một cảm giác không ảo tưởng.

Tóm lại, một sutra trình bày:

Không thể thấy một nơi đa hợp mà thường hằng. Tất cả đa hợp đều vô thường, này Ananda, cũng đừng nên buồn chán.

Sutra Lanka Truyền xuống (Kinh Lăng Già) trình bày:

Cuộc sống con người giống như một dòng nước chảy xuống dốc núi một cách nhanh chóng.

Mahayana Yoga trình bày:

Dù ngươi đi đến bất cứ dâu, trên đỉnh núi hay dưới đáy biển, cũng chẳng tìm thấy nơi nào mà không có cái chết. Thân này là chủ thể để hủy hoại, giống như một bình đất sét. Nó giống như điều gì đó được vay mượn, và trong nó không có gì mà không thể biến đổi.
Thân này giống như cái gì đó được vay mượn từ bốn nguyên tố. Nó chỉ là vật cho mượn

Tập hợp cách ngôn trình bày:

Một số chết trong tử cung, một số chết tại nơi được sinh ra; tương tự một số chết lúc còn bé, một số khi già, một số lúc còn trẻ, và một số chết vào lúc trưởng thành. Tất cả họ đều dần dần đi đến cái chết, và ai có thể chắc chắn mình vẫn sống hoài với nhận xét của người khác rằng “Người này vẫn còn trẻ”?

Hoàn toàn dễ dàng khi nói, “Người này trẻ trung” hoặc “Người này khỏe mạnh.” Tuy nhiên, có bất cứ bảo đảm nào mà người trẻ trung và mạnh khỏe này ngày mai sẽ còn sống?

Một sutra trình bày:

Giống như người tù bị dẫn đi xử, với mỗi bước đi chúng ta đều đến gần cái chết.

Ngài Nagarjuna nói:

Nhiều nguyên nhân góp phần cho cái chết, và một số ít góp phần cho sự sống. Thậm chí những nguyên nhân hỗ trợ cuộc sống có thể chuyển thành hoàn cảnh dẫn đến cái chết. Thế nên, hãy luôn nỗ lực trong Giáo Pháp.

Những hoàn cảnh được dự định hỗ trợ cuộc sống thường tình cờ chuyển thành hoàn cảnh dẫn đến cái chết. Chẳng hạn, người ta dùng thuốc để chữa bệnh, cuối cùng thuốc men lại giết họ. Tương tự, người ta làm những việc khác nhau để cố bảo vệ cuộc sống họ, và đôi khi chính những hành động này lại dẫn đến cái chết.

Sutra Đảnh Ngọc trình bày:

Các bạn, cuộc sống này là vô thường, trôi qua nhanh chóng như dòng nước đổ xuống dốc núi, người khờ dại không nhận ra nó, người không khôn ngoan bị nhiễm độc bởi những hư ảo của dục vọng.

Thuật ngữ “tính hư ảo của dục vọng” ám chỉ đặc biệt đến bám luyến của chúng ta vào tám mối quan tâm thế gian và chúng bao gồm những cảm giác tự cao và cho mình là quan trọng, thường xuất hiện phổ biến khi chúng ta cảm thấy mình thật tuyệt diệu.

Một sutra trình bày:

Mara (Ma vương) của tử thần giống như người nào đó chờ đợi phục kích. Sinh, già, bệnh, và chết giống như sự xoay vòng của máy quay nước. Trong thế gian này,– dù người vĩ đại hay người thấp kém, kẻ giàu hay người nghèo – không một ai mà không rơi vào bàn tay của tử thần.

Và:

Mỗi một người già đã chết trong quá khứ luôn có con cái và tài sản, nhưng con cháu và tài sản lại không lợi ích cho họ trong những kiếp tới

Thế hệ này sang thế hệ khác – bao gồm ông bà, ông bà cố, ông bà sơ của chúng ta; v.v... – suốt toàn bộ cuộc sống họ đã chuyên tâm vào tám mối quan tâm thế gian để có được tài sản vật chất, con cháu, v.v... Mỗi một thế hệ đều làm điều này, và từng người để lại toàn bộ của cải, sở hữu cho thế hệ kế tiếp. Chẳng những của cải và con cháu này không lợi ích cho họ vào lúc chết mà còn có thể thực sự làm hại họ. Trong quá trình tích lũy những của cải này, người ta thường tham gia vào nhiều việc bất thiện. Điều này thật sự đã xảy ra trong quá khứ và nó cũng đúng trong hiện tại. Trong số chúng ta, nhiều người trong thế hệ hiện tại đang chuyên tâm vào cùng mục đích như vậy và cũng sẽ kết thúc tương tự như những người trong quá khứ. Chúng ta, cũng sẽ chết.

Về tất cả những mối liên quan đến con cái này, một số người có thể nghĩ, “Tôi chẳng có con cái nào, vậy tôi không phải là người được nói đến ở đây.” Nếu bạn nghĩ mình thông minh như vậy, thì hãy thực hành Giáo Pháp.

Vì cuộc sống chúng ta là vô thường và trôi qua không ngừng dù chỉ trong một chốc lát, do vậy không có thời gian để sống trong lười biếng.” Nêu ra nhiều trích dẫn từ những sutra và tantra theo cách này và phát sinh sự không ảo tưởng. Nhờ thiền định về những vấn đề của vô thường và cái chết như vậy, dựa trên kinh nghiệm bạn sẽ hiểu được rằng mọi công việc của thế gian là vô thường, và đặc biệt trong dòng tâm thức bạn sẽ an định, sự nhiệt thành cho Giáo Pháp sẽ khởi lên, v.v...

Chúng ta không nên thỏa mãn chỉ với một giáo lý rất nhỏ bé, thay vào đó hãy suy nghĩ về độ dài của nhiều loại đau khổ trong chu trình sinh tử, ý nghĩa và thực tại của cái chết. Hãy suy nghĩ về nó trong nhiều cách và nhờ đến nhiều nguồn để làm phong phú sự hiểu biết và nhận thức của bạn về nó. Tất cả giáo lý của Đức Phật từ giáo lý cao nhất của Atiyoga xuống đến nền tảng căn bản nhất của Hinayana đều thiết kế để đem chúng ta đến giải thoát. Song, nhiều người trong các bạn chỉ thực sự quan tâm thức tỉnh và lắng nghe khi được giảng dạy về Atiyoga, hay Đại Viên Mãn. Tuy nhiên, bạn cần phải chú tâm trước tiên về những giáo lý này. Lúc đầu bạn phải xây dựng một nền tảng tốt bằng cách chuyển tâm giải thoát khỏi chu trình sinh tử. Hãy thiền định về vô thường và bản chất của hành vi và những hậu quả của nó – luật nhân quả. Nhờ thiền định trên những điều này, một nền tảng tốt đẹp sẽ được thiết lập cho những giáo lý và thực hành nâng cao hơn, và các phiền não của ghen tỵ, bám luyến, thù hận, v.v... sẽ được an định.

Tất cả tám vạn bốn ngàn pháp môn của đức Phật và đặc biệt hơn, là sáu trăm bốn mươi ngàn tantra của Atiyoga được thiết kế để bảo vệ chúng ta khỏi đau khổ của chu trình sinh tử. Sự đau khổ này không phải là chuyện bịa đặt. Sự đau khổ mà chúng ta là chủ thể phải chịu và bản tánh đau khổ của sinh tử không phải là vô nghĩa và xem thường. Đây là điều tại sao chúng ta cần chú tâm về nó và nhận biết độ sâu rộng của đau khổ mà chúng ta là chủ thể. Trên việc nhận biết này, bám luyến của chúng ta sẽ dần dần suy giảm. Với việc làm giảm bám luyến, thù hận cũng sẽ giảm bớt. Qua sự tiến bộ dần dần như vậy, chúng ta có thể mong đợi đạt được giải thoát.

Bạn có thể tự hỏi liệu mình có cần học hết tám vạn bốn ngàn pháp môn hoặc sáu trăm bốn mươi ngàn tantra của Atiyoga hay không. Nếu bạn có thời gian và lòng nhiệt thành, thì điều đó rất tốt. Nhưng vì giáo lý quá nhiều và không có đủ thời gian nên bạn cần chú tâm vào cốt tủy của giáo lý. Trước tiên, một cách để nắm giữ tinh túy của giáo lý này là suy niệm về Bốn Tư Tưởng làm Chuyển Tâm, sau đó nếu bạn đi vào thực hành của Kim Cương Thừa, bạn phải được quán đảnh, và tụng niệm giáo lý của Kim Cương Thừa v.v... Thiền định trên một Bổn Tôn đặc biệt đã chọn. Nếu thiền định tốt về một Bổn Tôn đã chọn thì việc làm này như một chìa khóa cho tất cả phần về sau. Do vậy, bạn không cần dấn thân vào nhiều thực hành sâu rộng. Hãy làm tốt một thứ, và nó sẽ là chìa khóa cho phần còn lại. Bạn sẽ tìm thấy giáo lý về tánh Không trong giáo lý Atiyoga, và sự nhận biết của tánh Không là nguyên nhân khởi đầu để đạt Phật quả.

Nếu tham dục của cuộc sống này gia tăng và bạn không thể sống trong cô độc, ngay cả dù bạn có thiền định về vô thường, thì hãy tiếp tục thiền định cho đến khi kinh nghiệm xuất hiện. Đây là sinh lực cốt tủy của tất cả Giáo Pháp. Nếu bạn không thành công trong điều này thì kinh nghiệm thiền định sẽ không xuất hiện, vậy điều quan trọng là chính bạn chuyên tâm vào điều này. Bất cứ ai có khả năng dù cao hay thấp đều sẽ được giải thoát với điểm trọng yếu này, vậy kiên trì trong điều này là điều quan trọng. Hãy thiền định cho đến khi thấy chúng sanh không chú ý đến cái chết khiến bạn chảy nước mắt vì lòng bi. Hãy thiền định về điều này trong ba ngày, sau đó quay trở lại.

Nhờ thiền định theo cách đó, khi gần đến thời hạn bạn sẽ có hạnh phúc dồi dào, và cuối cùng bạn sẽ trở thành một vị Phật. Hãy thực hành điều này! Sự thiền định về cái chết và vô thường là giai đoạn thứ ba trong Sự Giải Thoát Tự Nhiên Qua Thiền Định: Những Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về Tiến Trình Chuyển Di.

Ba điều này là những chuẩn bị để điều phục dòng tâm thức bạn. Vào lúc bắt đầu, điều đặc biệt quan trọng là bạn có được chú tâm vững chắc vào ba điều này. Nếu không có được chỗ đứng vững chắc trong chúng, bạn sẽ vuột mất mọi Giáo Pháp khác. Cho đến khi nhận thức của vô thường khởi lên liên tục và sống động như thể tim bạn bị mũi tên sắc bén của những điểm này xuyên thủng, hãy tiếp tục thiền định. Samaya.

Hãy thực hành điều này! Cầu mong các thực hành chuẩn bị để điều phục dòng tâm thức bạn không bị biến mất cho đến khi luân hồi trống rỗng. “Những Thực hành Chuẩn bị để Điều phục dòng Tâm thức bạn” trong Sự Giải Thoát Tự Nhiên Qua Thiền Định: Những Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về Sáu Tiến Trình Chuyển Di là những giáo lý của truyền thống Choje, con trai tâm linh của terton Karma Lingpa. Do vậy, điều này đã được Guru Nyida Ozer viết ra, cầu mong sự hiển lộ của Đức Phật được nuôi dưỡng và tăng trưởng trong mọi lúc và mọi nơi, và cầu mong giáo lý được bảo tồn lâu dài.

Mangalam bhavatu!
(Cầu mong được hiệu quả!)


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2023(Xem: 1254)
Phật Tánh? Xin nói rằng, tôi không biết. Tôi không thể trả lời câu hỏi có Phật Tánh hay không, và nếu có, thì là như thế nào. Bài viết này không nhằm trả lời những câu hỏi tương tự, mà chỉ là một khảo sát từ cương vị một người học Phật, chưa học tới đâu và cũng chưa tu tới đâu. Bài viết này là một lời thú nhận, rằng không biết chắc có bao nhiêu phần đúng, nhưng hy vọng sẽ phần nào giúp được một số độc giả để dùng làm viên gạch dò đường qua sông. Xin mời độc giả khảo sát, nghi vấn từng câu, từng chữ trong bài này, và rồi nên dựa vào Kinh Phật để đối chiếu.
03/08/2022(Xem: 3301)
Hít vào thở ra, đếm: "một" Hít vào thở ra, đếm: "hai" Cứ thế, đến "mười" rồi nghỉ Vài giây sau, lại bắt đầu
05/07/2022(Xem: 4866)
“Niêm hoa vi tiếu” (Chữ Hán: 拈花微笑, Nghĩa Việt: cầm hoa mỉm cười), gọi đầy đủ là “Niêm hoa thuấn mục phá nhan vi tiếu” (Chữ Hán: 拈華瞬目破顏微笑; Nghĩa Việt: Đưa hoa ra, trong chớp mắt thì chuyển mặt mỉm cười), chuyện kể Đức Phật thông qua hành động im lặng cầm hoa sen truyền Tâm Ấn Trí Tuệ Bát-nhã cho Ngài Ma-ha Ca-diếp. Giai thoại này được cho là bắt nguồn từ giới Thiền Tông Trung Quốc nhằm dẫn chứng cho hệ truyền thừa Thiền Tông bắt nguồn từ Đức Phật.
12/03/2022(Xem: 7530)
Thái tử con vua bỏ cõi trần Xuất gia học đạo quyết tìm chân Thừa đương ấn pháp du Hoa lục Đảm nhiệm tông phong báo Phật ân Thiếu Thất trừng tâm truy diện mục Tung Sơn diện vách bặt ngôn âm Chín năm huyền sử bày chân tướng Lục diệu pháp môn mở diệu tâm.
10/02/2022(Xem: 6835)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống. Thậm chí một số cho rằng lối tu truyền thống bao gồm tụng kinh, niệm Phật trở nên lỗi thời, chỉ có tu theo Thiền Chánh Niệm mới giải thoát mà thôi. Quan niệm đó hoàn toàn sai, trái với lời Phật dạy. Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng, “Pháp của ta không có thấp có cao”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật lại dạy rằng “vạn pháp bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm” và diễn rộng là là “bất thấp, bất cao, bất đúng, bất sai”. Tất cả tùy căn cơ của mỗi chúng sinh mà thôi.
02/12/2021(Xem: 15714)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
23/11/2021(Xem: 4950)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
19/11/2021(Xem: 6629)
Trung Bộ Kinh Nikãya có bốn bài kinh số 131, 132, 133 và 134 có cùng nội dung chỉ khác nơi và người giảng. Cả bốn bài kinh này có tên là “Bhaddeka ratta Sutta” đã được cố đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pãli sang tiếng Việt, gọi chung là “Nhất Dạ Hiền Giả”. Trước đây chúng tôi đã có bài viết “Tìm Hiểu Kinh Nhất Dạ Hiền Giả”, số 131 (*). Nay, với tinh thần cầu học, chúng tôi muốn chia xẻ thêm với các bạn thiền sinh, cũng đề tài này qua văn phong dịch thuật của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh với tựa đề là “Kinh Người Biết Sống Một Mình”.
18/11/2021(Xem: 3679)
Dù nhìn dưới góc độ nào hay y cứ theo ý nghĩa của bất kỳ truyền thống nào thì Triết gia Karl Marx (1818-1883) không phải là một Phật tử. Từ những nguồn có thể xác định được, trong những chuyến vân du đó đây vòng quanh châu Âu, cá nhân Triết gia Karl Marx chưa bao giờ tiếp cận với bất kỳ hình thức Phật giáo "dân tộc" nào.
09/11/2021(Xem: 4808)
Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành thiền quán tập trung 4 đối tượng Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thực hành Tứ Niệm Xứ, giúp người tu có được cái nhìn sâu sắc về vô thường, từ đó loại bỏ được những phiền não trong cuộc sống hàng ngày.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567