Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Nói Đầu Của Dịch Giả

07/01/201109:57(Xem: 3573)
Lời Nói Đầu Của Dịch Giả

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN

Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo

Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston

Lời Nói Đầu Của Dịch Giả

padmasambhavaQuyển sách này bao hàm một bản dịch và luận giảng về bản văn của vị thầy vĩ đại Padmasambhava của Phật giáo Ấn Độ, có tiêu đề Giáo Pháp Thâm Sâu Của Giải Thoát Tự Nhiên Qua Sự Thiền Định Hiền Minh Và Phẫn Nộ: Giai Đoạn Hướng Dẫn Đầy Đủ Về Sáu Bardo. [1] Có thể đoán sách được soạn thảo khoảng cuối thế kỷ thứ VIII. Bản văn này được Đức Padmasambhava đọc cho vị phối ngẫu Tây Tạng Yeshe Tsogyal của Ngài. Truyền thống Tây Tạng xem Đức Padmasambhava là một hiện thân của Phật A Di Đà, Đức Phật Vô Lượng Quang, và nhắc đến Ngài như Guru Rinpoche, hay Vị Thầy Tâm Linh Thông Tuệ Quý Báu. Tên Ngài, Padmasambhava, có nghĩa “Liên Hoa Sanh” cho thấy sự hóa sanh kỳ diệu của Ngài trong một hoa sen giữa hồ ở vùng Oddiyana. Được Vua xứ Oddiyana nhận làm con nuôi, Padmasambhava đã cống hiến cuộc đời Ngài cho sự học và thực hành mật tông, Phật giáo Kim Cương Thừa.

Vào thế kỷ thứ tám, Vua Trisong Detsen mời Ngài Padmasambhava đến Tây Tạng để giúp đỡ Tu Viện Trưởng Santaraksita của Ấn Độ trong việc xây dựng tu viện lâu dài đầu tiên ở xứ sở đó. Ở Tây Tạng, Pamasambhava đã tự Ngài cống hiến để hàng phục nhiều thế lực xấu ác ngăn cản sự học tập và thực hành Phật giáo ở đó, và đã ban rất nhiều giáo lý cho các đệ tử của Ngài, trong số đó có hai mươi lăm người nổi tiếng, tinh thông và thành tựu xứng đáng với chính họ. Truyền thống nói rằng khi công việc của Ngài ở Tây Tạng đã hoàn tất, Padmasambhava khởi hành đến hướng tây trong thân ánh sáng thanh tịnh tới cõi Phật được biết như Núi Huy Hoàng Màu Đồng, Ngài trụ ở đó cho đến ngày nay. . [2]

Đức Padmasambhava đã chôn dấu nhiều giáo lý của Ngài trong cách “vỏ bọc-thời gian của tâm linh” được biết như “các kho báu” (gter ma; phát âm là terma) để được phát hiện dần dần qua nhiều thế kỷ khi nền văn minh của nhân loại sẵn sàng tiếp nhận. Sự phát hiện chậm trễ các giáo lý này diễn ra song song với cách học thuyết Đại Thừa cuối cùng được phát hiện cho việc công truyền trong vài thế kỷ sau khi Đức Phật lịch sử Thích Ca Mâu Ni viên tịch, và nhiều tantra của Phật giáo được phát hiện lần đầu tiên ở Ấn Độ trong những thế kỷ cũng theo cách đó. Một số giáo lý chôn dấu của Padmasambhava – được biết như các kho tàng đất (sa gter) được viết ra và chôn dấu dưới đất, trong các hang động, hoặc thậm chí ở trong những tảng đá lớn. Các giáo lý khác – được biết như kho tàng tâm (dgongs gter) – là sự huyền nhiệm bí mật trong dòng tâm thức các đệ tử của Ngài, chờ đợi tâm thức của các đệ tử phát hiện trong những kiếp sau đó. Trong những thế kỷ sau khi Ngài khởi hành đến Núi Huy Hoàng màu Đồng, rất nhiều các bậc “khai mật tạng” (gter ston; phát âm terton) là những người thường được xem là hóa thân của Đức Padmasambhava hoặc các đệ tử chính của Ngài, đã phát hiện một số lớn các kho tàng này và sau đó truyền bá những giáo lý này. . [3]

Lời kết thúc “Samaya. Đã Niêm, đã niêm, đã niêm” vào cuối mỗi chương của bản văn này là độc nhất cho các bản văn của kho tàng chôn dấu, hay terma. Chữ samaya trong bản văn chỉ ra rằng người sử dụng bản văn này phải nhớ lại samaya của họ, hoăïc các nguyện tantric. Chữ “đã niêm, đã niêm, đã niêm” là một cảnh báo rằng nếu người nào đó không phải là một khai mật tạng, tình cờ gặp được các bản văn này trong khi chúng vẫn phải được chôn dấu, thì họ phải để nguyên bản văn. Những lời này cũng cảnh báo vị khai mật tạng có ý định phát hiện bản văn chỉ nên phát hiện vào thời điểm thích hợp. Cuối cùng, với người đọc bản văn thì những lời này cảnh báo không nên cho người không có lòng tin hoặc những người mà samaya của họ bị suy đồi được thấy bản văn.

Một trong các vị khai mật tạng nổi tiếng nhất ở Tây Tạng là Karma Lingpa, Ngài sống trong thế kỷ thứ mười bốn và được xem là một hóa thân của chính Đức Padmasambhava. Ngài là người đã phát hiện luận thư hiện nay – một ví dụ kinh điển của kho tàng đất (terma đất) – trong một hang động ở Núi Gampo Dar, trung tâm Tây Tạng. Đề cập đến sáu tiến trình chuyển tiếp, hay bardo, bản văn này nhanh chóng trở thành một luận thư quan trọng của nghi lễ Nyingma của Phật giáo Tây Tạng; hiểu theo cách thông thường, luận thư đã được giảng dạy và thực hành rộng rãi bởi người Tây Tạng suốt từ thời gian đó, nhưng chỉ hoàn toàn dành cho người đã nhập môn vào chu trình giáo lý của Phật giáo Kim Cương Thừa. Luận thư này cũng có thể được xem là quyển sách đồng hành với quyển Tạng Thư Sống Chết.[4] nổi tiếng, vì cả hai đều được bao gồm trong cùng chu trình phát hiện kho tàng bởi Ngài Karma Lingpa. Tạng Thư Sống Chết chủ yếu quan tâm đến tiến trình cận tử và trạng thái trung gian sau đó, hay bardo.[5], trước sự tái sanh kế tiếp của con người. Tác phẩm hiện nay có phạm vi sâu rộng hơn nhiều, cung cấp các hướng dẫn gắn liền với thiền định thực tế cho tất cả sáu tiến trình chuyển tiếp, hay bardo, cụ thể là về cuộc sống, giấc mộng, thiền định, cận tử, trạng thái trung gian sau khi chết, và tái sanh.

Bản văn kho tàng này có thể sử dụng cho mọi người ở phương Tây, trong đầu những tháng năm 1995, khi Ngài Gyatrul Rinpoche Tôn Quý, một lama thâm niên của dòng truyền Payul của nội quy Nyingma, đã giảng dạy nó rộng rãi cho một nhóm bao gồm cả hai Phật giáo và không Phật giáo tại trung tâm Phật giáo Orgyen Dorje Den ở San Francisco, California. Sinh ra trong vùng Gyalrong ở phía Đông Tây Tạng năm 1925, Gyatrul Rinpoche đã được nhận ra từ thời niên thiếu bởi Ngài Jamyang Khyentse Lodro Thaye như một hóa thân của Sampa Kunkyab, một thiền giả của dòng truyền Pagyul, người đã dùng cuộc đời trong nhập thất và sau đó ban quán đảnh, trao truyền từ hang động nhập thất của Ngài cho rất nhiều đệ tử. Sau khi được đem đến Tu Viện Pagyul Domang, ngôi nhà của lần tái sanh trước của Ngài, thiếu niên Gyatrul được dạy dỗ bởi Ngài giám hộ Sangye Gon. Trong sự rèn luyện tâm linh sâu rộng, Ngài nhận được hướng dẫn cá nhân về nhiều luận thư của Đạo Phật, bao gồm luận thư hiện tại này, bởi đông đảo vị thầy nổi tiếng của nghi lễ Nyingma, bao gồm các Ngài Tulku Natsok Rangdrol, Payul Chogtrul Rinpoche, Apkong Khenpo, và His Holliness Dudjom Rinpoche. Ở Tây Tạng Ngài nhận được trao truyền và hướng dẫn miệng về luận thư hiện tại này từ Lama lỗi lạc Norbu Tenzin.

Sau khi đào thoát khỏi Tây Tạng vào Ấn Độ năm 1959, Gyatrul Rinpoche tiếp tục rèn luyện tâm linh của Ngài và phục vụ cộng đồng Tây Tạng ở Ấn Độ trong nhiều cách cho đến năm 1972, khi His Holiness Dalai Lama gửi Ngài đến Canada để cống hiến sự hướng dẫn tâm linh cho những người Tây Tạng định cư ở đó. Từ đó, Ngài đã giảng dạy rộng rãi khắp Bắc Mỹ, xây dựng rất nhiều trung tâm Phật giáo ở Oregon, California, New Mexico, và Mexico. Hiện nay, Ngài di chuyển đi và về giữa trung tâm chính của Ngài, Tashi Choeling, gần Ashland, Oregon và nhà của Ngài ở Cảng Half Moon, California.

Khi Gyatrul Rinpoche dạy bản văn này năm 1995, Ngài đã mời tất cả mọi người có niềm tin vào giáo lý này – dù họ có quán đảnh tantric hoặc chỉ là Phật tử – để lắng nghe và áp dụng vào thực hành. Trong số các tập thể đệ tử có một số người bị đau khổ vì bệnh tật khủng hoảng, bao gồm bệnh AIDS đã làm cho giáo lý về tiến trình cận tử được thấm thía hơn cho tất cả người nghe. Ngài cũng mời tất cả những ai đã đọc sách này với niềm tin tham gia trong thực hành đã mô tả ở đây vì lợi ích của chính họ và tất cả chúng sanh.

Thêm vào bản văn chính của Đức Padmasambhava, cùng với luận giảng miệng, biên tập và sao chép lại được ban bởi Ngài Gyatrul Rinpoche năm 1995, tác phẩm này cũng bao gồm bản dịch của các tác phẩm khác ngắn hơn kết hợp mật thiết với luận thư về sáu tiến trình chuyển tiếp. Để người đọc dễ dàng sử dụng các tác phẩm này, chúng được sắp xếp trong sách này thành ba phần riêng biệt. Phần 1 mô tả các thực hành chuẩn bị, được xem là cần thiết trong các thực hành được mô tả trong bản văn chính. Phần 2 gồm bản văn chính. Và Phần 3 gồm một số bài nguyện bổ sung. Tất cả ba phần cũng bao gồm một bản chép giáo lý miệng của Ngài Gyatrul Rinpoche.

Sự giới thiệu, đề cập đến chủ đề động cơ bao gồm lời khuyên ban đầu và nhận xét được ban bởi Ngài Gyatrul Rinpoche trước khi bắt đầu giảng dạy năm 1995. Trong chương 1, Gyatrul Rinpoche dẫn giải về một đề tựa của bản văn, Các Thực Hành Chuẩn Bị Để Điều Phục Dòng Tâm Thức Chính Bạn: Một Phụ Lục Cho Sự Xuất Hiện Tự Nhiên Của Hiền Minh Và Phẫn Nộ Từ Giác Tánh Giác Ngộ: Các Hướng Dẫn Dựa Trên Kinh Nghiệm Về Tiến Trình Chuyển Tiếp. Bản văn này đã được soạn thảo bởi Ngài Choje Lingpa, đệ tử chính của Karma Lingpa, và được Guru Nyida Ozer viết ra. Mặc dù truyền thống Tây Tạng tính đến tác phẩm này như một phụ lục cho chu trình giảng dạy hiện nay, Ngài Gyatrul chọn việc giới thiệu nó trước tiên vì lợi ích của những người mới thực hành Phật giáo Kim Cương Thừa. Bản văn yêu cầu thiền định từng khía cạnh để điều phục dòng tâm thức lan man của họ như một điều kiện tiên quyết cần thiết để tham gia trong các thực hành gắn liền với sáu tiến trình chuyển tiếp. Các thiền định từng khía cạnh này liên quan đến sự đau khổ của luân hồi, sự khó khăn có được cuộc sống con người với sự nhàn rỗi và thuận lợi, và cái chết thì vô thường. Sự thực hành guru yoga, mantra 100 âm tịnh hóa của Phật Vajrasattva, và sự cúng dường mandala cũng bao gồm trong tác phẩm này bởi Choje Lingpa, nhưng không được dịch ở đây, vì các thực hành này được bao gồm trong phần sau đây.

Chương 2 gồm bản văn liên quan khác gọi là sự giải thoát tự nhiên của bản tâm: Bốn Thời Yoga Của Hoạt Động Tâm Linh Của Mantra Bí Mật Kim Cương Thừa, do Choje Lingpa soạn thảo và được viết ra bởi Guru Suryacandra. Giống như tác phẩm trước, truyền thống bây giờ cũng bao gồm chu trình giảng dạy liên quan đến sáu tiến trình chuyển tiếp tương tự. Cái đầu tiên của bốn thời thảo luận ở đây bắt phải thiền định về thọ quy y bên ngoài, bên trong, và bí mật, phát triển tinh thần tỉnh thức của Đại Thừa, và trau dồi tứ vô lượng tâm. Thời thứ hai là một thiền định liên quan đến sự tụng niệm mantra một trăm âm của Phật Vajrasattva. Trong thời thứ ba người ta tạo nghi lễ cúng dường mandala, và thời thứ tư bao gồm một cầu nguyện đến dòng truyền của vị thầy tâm linh và một thiền định về tiếp nhận bốn quán đảnh. Nếu hành giả tham gia trong thiền định nhập thất về sáu tiến trình chuyển tiếp, tất cả thực hành trên có thể thực hiện trên nền tảng hàng ngày, cùng với các thực hành đã dạy trong tác phẩm chính này. Nếu hành giả kết hợp các cầu nguyện và thiền định này trong thực hành hàng ngày trong lúc đang sống một cách sống hoạt động trong thế gian, các tụng niệm thêm vào này có thể làm từng lúc khi muốn.

Sau hai chương chuẩn bị này xuất phát từ Phần 2 của quyển sách, trình bày bản văn chính, Giáo Pháp Uyên Thâm Của Giải Thoát Tự Nhiên Qua Sự Thiền Định Hiền Minh Và Phẫn Nộ: Giai Đoạn Của Hướng Dẫn Đầy Đủ Về Sáu Bardo, cùng với luận giảng của Ngài Gyatrul Rinpoche. Mỗi một trong sáu chương của bản văn chính được giới thiệu tách biệt, trong chương 3 qua 8 tập giới thiệu. Mỗi chương trong sáu chương này đề cập đến một trong sáu tiến trình chuyển tiếp, hay bardo, bắt đầu với tiến trình chuyển tiếp của cuộc sống và phát triển qua tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng, thiền định, cận tử, tự thân-thực tại, và trở thành. Mỗi chương cũng mô tả một khía cạnh khác nhau của giải thoát tự nhiên, chẳng hạn như sự giải thoát tự nhiên của nhầm lẫn, xảy ra trong tiến trình chuyển tiếp của giấc mộng, và sự giải thoát tự nhiên của cái thấy, xảy ra trong tiến trình chuyển tiếp của tự thân-thực tại. Trong mỗi chương, bản văn đưa ra các hướng dẫn chi tiết để thực hành được thiết kế nhằm giúp hành giả chuyển hóa mỗi tiến trình chuyển tiếp thành một cơ hội thâm sâu cho giải thoát và giác ngộ.

Phần 3 của sách này gồm một số bài nguyện bổ sung, tất cả được xem là một phần của chu trình kho tàng đi kèm với bản văn chính. Chương 9 có tiêu đề Ba bài nguyện liên quan đến các tiến trình chuyển tiếp,” gồm ba bài nguyện. Cái đầu tiên là một bài nguyện để nhớ lại các hướng dẫn thực tế của vị thầy tâm linh hành giả. Bài nguyện thứ hai có đề tựa “Sự giải thoát tự nhiên của mọi thành tựu. Tự thân bài nguyện này có hai phần: “Bài nguyện cho sự giải thoát qua con đường hẹp của tiến trình chuyển tiếp,” đòi hỏi sự khẩn cầu đến năm vị Phật và các phối ngẫu ban phước để chuyển hóa năm tâm thức độc hại thành năm loại trí tuệ nguyên sơ; và “Bài nguyện để bảo vệ khỏi sợ hãi trong tiến trình chuyển tiếp,” đặc biệt nhắm đến việc chuyển hóa tiến trình chuyển tiếp của cận tử để nó trở thành một đại lộ cho sự tỉnh thức tâm linh. Bài nguyện thứ ba trong chương này là “Bài nguyện kêu cầu được giúp đỡ đến chư Phật và bồ tát,” để kêu cầu chư Phật và bồ tát ban phước khi hành giả tại ngưỡng cửa của cái chết. Đức Padmasambhava là tác giả của ba bài nguyện này, cũng như chúng cũng thuộc về kho tàng được phát hiện bởi Karma Lingpa.

Trong chương 10, người đọc sẽ thấy một bài nguyển khẩn cầu có tiêu đề, “Giải thoát tự nhiên của sự rộng mở bao la của ba hóa thân,” trong đó, hành giả khẩn cầu rất nhiều hiện thân của Đức Phật để ban phước cho sự phát triển tâm linh của hành giả trên con đường. Chương 11 gồm một bài nguyện có đề tựa “Sự giải thoát tự nhiên của ba độc mà không cần phản kháng chúng: một cầu nguyện guru yoga đến ba thân.” Bản văn này có mục đích giúp hành giả chuyển hóa ba tâm thức độc hại thành ba thân của Đức Phật. Cả hai bài nguyện này đều được bao gồm trong cùng chu trình giảng dạy như bản văn chính của chúng ta, nên tác giả vẫn là Đức Padmasambhava, và chúng được phát hiện bởi Karma Lingpa.

Sự phiên dịch bản văn gốc được chuẩn bị trong cách sau: trước tiên Ngài Gyatrul Rinpoche xem xét kỹ lưỡng các bản văn này với tôi, từng dòng một, để giúp tôi phiên dịch chúng sang tiếng Anh. Sau đó, Ngài cung cấp một luận giảng miệng cho các luận thư này tại Orgyen Dorje Den, giải thích từ nguyên bản Tây Tạng, trong lúc tôi phiên dịch luận giảng miệng của Ngài và lột tả từ bản dịch phác thảo tiếng Anh của tôi. Sự giải thích và luận giảng thứ hai này làm cho bản dịch nguyên thủy của tôi được tinh tế hơn. Kay Henry, một đệ tử sùng mộ Ngài Gyatrul, đã tình nguyện nhận nhiệm vụ to lớn sao chép toàn bộ luận giảng miệng và kết hợp điều này với bản dịch đúng nguyên văn. Sau đó đến tôi biên soạn luận giảng miệng, và – cùng với John Dunne và Sara McClintock, các biên tập viên của chúng tôi tại Nhà Xuất Bản Trí Tuệ – để chuẩn bị toàn bộ tác phẩm trong hình thức hiện nay của nó. Tôi mong muốn biểu lộ lòng cảm ơn sâu sắc đến Ngài Gyatrul Rinpoche đã dẫn dắt tôi trong việc phiên dịch bản văn này và luận giảng rõ ràng có thể sử dụng của Ngài và đến Kay Henry, John Dunne, và Sara McClintock, không có họ thì tác phẩm này không thể hoàn tất. Cầu mong mọi nỗ lực của chúng tôi được lợi ích!

B. Alan Wallace
Santa Barbara, California

Mùa xuân năm 1997

Sách liên quan:
Chết An Bình Tái Sinh Hạnh Phúc,Harold Talbott - Bản dịch Việt ngữ: Tuệ Pháp
Tàng Thư Sống Chết, Sogyal Rinpoche - Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch
Chết Trong An Bình, Visuddhacara - Thích Tâm Quang dịch
Chết Có Thật Đáng Sợ Không, HT Dhammananda - Thích Tâm Quang dịch Việt

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2023(Xem: 1255)
Phật Tánh? Xin nói rằng, tôi không biết. Tôi không thể trả lời câu hỏi có Phật Tánh hay không, và nếu có, thì là như thế nào. Bài viết này không nhằm trả lời những câu hỏi tương tự, mà chỉ là một khảo sát từ cương vị một người học Phật, chưa học tới đâu và cũng chưa tu tới đâu. Bài viết này là một lời thú nhận, rằng không biết chắc có bao nhiêu phần đúng, nhưng hy vọng sẽ phần nào giúp được một số độc giả để dùng làm viên gạch dò đường qua sông. Xin mời độc giả khảo sát, nghi vấn từng câu, từng chữ trong bài này, và rồi nên dựa vào Kinh Phật để đối chiếu.
03/08/2022(Xem: 3302)
Hít vào thở ra, đếm: "một" Hít vào thở ra, đếm: "hai" Cứ thế, đến "mười" rồi nghỉ Vài giây sau, lại bắt đầu
05/07/2022(Xem: 4867)
“Niêm hoa vi tiếu” (Chữ Hán: 拈花微笑, Nghĩa Việt: cầm hoa mỉm cười), gọi đầy đủ là “Niêm hoa thuấn mục phá nhan vi tiếu” (Chữ Hán: 拈華瞬目破顏微笑; Nghĩa Việt: Đưa hoa ra, trong chớp mắt thì chuyển mặt mỉm cười), chuyện kể Đức Phật thông qua hành động im lặng cầm hoa sen truyền Tâm Ấn Trí Tuệ Bát-nhã cho Ngài Ma-ha Ca-diếp. Giai thoại này được cho là bắt nguồn từ giới Thiền Tông Trung Quốc nhằm dẫn chứng cho hệ truyền thừa Thiền Tông bắt nguồn từ Đức Phật.
12/03/2022(Xem: 7531)
Thái tử con vua bỏ cõi trần Xuất gia học đạo quyết tìm chân Thừa đương ấn pháp du Hoa lục Đảm nhiệm tông phong báo Phật ân Thiếu Thất trừng tâm truy diện mục Tung Sơn diện vách bặt ngôn âm Chín năm huyền sử bày chân tướng Lục diệu pháp môn mở diệu tâm.
10/02/2022(Xem: 6836)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống. Thậm chí một số cho rằng lối tu truyền thống bao gồm tụng kinh, niệm Phật trở nên lỗi thời, chỉ có tu theo Thiền Chánh Niệm mới giải thoát mà thôi. Quan niệm đó hoàn toàn sai, trái với lời Phật dạy. Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy rằng, “Pháp của ta không có thấp có cao”. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật lại dạy rằng “vạn pháp bất tịnh, bất cấu, bất tăng, bất giảm” và diễn rộng là là “bất thấp, bất cao, bất đúng, bất sai”. Tất cả tùy căn cơ của mỗi chúng sinh mà thôi.
02/12/2021(Xem: 15716)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
23/11/2021(Xem: 4950)
Đề tài diễn giảng chuyên môn đầu tiên "Phật giáo và Tâm lý trị liệu" (佛教與心理療癒) của Kế hoạch nghiên cứu thuộc Trung tâm Nghiên cứu Đại học Phật Quang Sơn tổ chức tại sảnh Vân Thủy, ngày 17 tháng 11 vừa qua, tiếp đến chủ đề "Tu hành và Chuyển hóa - Đối thoại giữa Tu thiền và Tư vấn Tâm lý" (修行與轉化 禪修與心理諮商的對話), do Thạc sĩ Dương Bội (楊蓓), Chủ nhiệm Khoa Giáo dục đời sống thuộc Học viện Dharma Drum Institute of Liberal Arts (法鼓文理學院); Giáo sư Quách Triều Thuận (郭朝順), người Tổng chủ trì Kế hoạch nghiên cứu, Viện trưởng Học viện Phật giáo Phật Quang Sơn chủ trì. Gần 70 vị Giáo sư nổi tiếng, thuộc Khoa Phật học, Khoa Tâm lý học, Học viện Nghiên cứu Tôn giáo đã tham dự buổi tọa đàm đầy ý nghĩa.
19/11/2021(Xem: 6629)
Trung Bộ Kinh Nikãya có bốn bài kinh số 131, 132, 133 và 134 có cùng nội dung chỉ khác nơi và người giảng. Cả bốn bài kinh này có tên là “Bhaddeka ratta Sutta” đã được cố đại lão Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ tiếng Pãli sang tiếng Việt, gọi chung là “Nhất Dạ Hiền Giả”. Trước đây chúng tôi đã có bài viết “Tìm Hiểu Kinh Nhất Dạ Hiền Giả”, số 131 (*). Nay, với tinh thần cầu học, chúng tôi muốn chia xẻ thêm với các bạn thiền sinh, cũng đề tài này qua văn phong dịch thuật của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh với tựa đề là “Kinh Người Biết Sống Một Mình”.
18/11/2021(Xem: 3679)
Dù nhìn dưới góc độ nào hay y cứ theo ý nghĩa của bất kỳ truyền thống nào thì Triết gia Karl Marx (1818-1883) không phải là một Phật tử. Từ những nguồn có thể xác định được, trong những chuyến vân du đó đây vòng quanh châu Âu, cá nhân Triết gia Karl Marx chưa bao giờ tiếp cận với bất kỳ hình thức Phật giáo "dân tộc" nào.
09/11/2021(Xem: 4808)
Tứ Niệm Xứ là phương pháp thực hành thiền quán tập trung 4 đối tượng Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thực hành Tứ Niệm Xứ, giúp người tu có được cái nhìn sâu sắc về vô thường, từ đó loại bỏ được những phiền não trong cuộc sống hàng ngày.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567