Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tọa Đàm 37 - 48

02/12/201211:09(Xem: 2830)
Tọa Đàm 37 - 48
THIỆN CĂN, PHƯỚC ĐỨC VÀ NHÂN DUYÊN

Tác giả: Cư sĩ Diệu Âm

 

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 37

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Kính bạch Sư Cô!

Hôm nay Diệu Âm xin tiếp tục nói về Thiện-Căn, Phước Đức, Nhân-Duyên.

Xin thưa với Sư Cô cùng chư vị! Nói gì nói, thì làm sao chính mình sau khi xả bỏ báo thân phải được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc cho được. Nếu sơ ý chỉ cần lọt lại trong lục đạo luân hồi, thì chúng ta sẽ gặp rất nhiều khó khăn và có thể là không biết đến kiếp nào mình mới có cơ hội niệm được câu A-Di-Đà Phật để vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Hơn nữa, khi chúng ta niệm được câu A-Di-Đà Phật rồi, nhưng sơ ý không có người biết hộ niệm ở bên cạnh trợ duyên tích cực cho ta khi xả bỏ báo thân, thì cũng chưa chắc gì ta được vãng sanh…

Khi biết được hộ niệm rồi chưa xong. Ta còn phải nghiên cứu cho thật kỹ, thật vững vàng để áp dụng chính xác thì mới có phần vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Chứ không phải cứ nói hộ niệm là tới niệm niệm mấy câu Phật hiệu là được vãng sanh đâu!...

Ngày hôm qua mình đã đưa ra những cái mẫu chứng minh điển hình vừa mới đây thôi. Một người thì gửi thơ tới báo cáo là hộ niệm cho một bà cụ vãng sanh, sau mười bốn tiếng đồng hồ thì thấy thoại tướng tốt bất khả tư nghì. Một người nữa thì báo cáo là sau mười hai tiếng đồng hồ thoại tướng cũng bất khả tư nghì, thấy vậy gia đình đó đã phát tâm nguyện rất lớn. Bên cạnh đó cũng có một người cũng được hộ niệm trải qua hai tháng ròng rã, nhưng đến ngày chót thì bị trở ngại!... Sau đó ra đi mất phần vãng sanh.

Chính vì vậy mới thấy rằng hộ niệm là tối quan trọng. Xin đừng nên khinh thường. Bên cạnh đó, chúng ta lại nhận thêm một tin khác nữa, từ bên Canada một vị điện thoại qua nói chuyện, vừa mừng, vừa vui, mà vừa khóc tức tưởi!... Họ cho biết rằng, hồi giờ họ cũng đi hộ niệm. Nhưng mà khi nghe đến đĩa này, tức là đĩa MP3 “Hộ Niệm là một Pháp Tu”, chính chúng ta đã tọa đàm tại đây, được người gởi tặng cho vị đó. Khi nghe xong đĩa đó, thì vị này mới ngỡ ngàng là thật sự từ trước tới giờ đã hộ niệm sai!... Đã lấy cách hộ táng mà tưởng là hộ niệm. Đã lấy việc đưa đám chết mà tưởng là hộ niệm! Họ đã lầm tưởng vãng sanh tức là chết!

Khi vị đó biết được chuyện này thì ngỡ ngàng, mừng quá và hứa là nhất định phải cải tổ lại phương pháp hộ niệm cho đúng đắn chứ không thể nào lầm lạc được nữa. Cô ta cũng nói thêm một câu mà khi nghe đến mình cũng cảm thấy đau lòng! Cô nói: “Thật đáng tiếc! Nếu tôi nghe được cái đĩa này cách đây hai tháng thì tôi có thể cứu được người thân rồi...”, vì cách đó hai tháng, người thân, không biết là người thân gì của cô đã ra đi. Cô cũng hộ niệm đủ cách! Nhưng bây giờ mới biết ra là hộ táng, là hậu sự, là tới tụng kinh xong rồi tẩm liệm người chết... mà cứ cho là hộ niệm!

Chính vì vậy mới biết cái phương pháp hộ niệm thật sự vô cùng quý giá. Một người biết được pháp hộ niệm có thể cứu người vãng sanh. Một người không biết pháp hộ niệm thì mơ hồ! Rõ ràng, cũng có tu hành, cũng quyết lòng niệm Phật... Ví dụ như cả gia đình của cô đó đều có niệm Phật, nhưng trong suốt một thời gian khá lâu trong quá khứ đến giờ này chưa chứng nhận được một người nào được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc!

Thấy đó, khi đã gặp được phương pháp Hộ Niệm xin chư vị đừng nên lơ là. Nếu lơ là, coi chừng chính ta bị sơ suất:

- Đi hộ niệm mà biến thành đi hậu sự…

- Đi hộ niệm mà biến thành đi hộ táng…

- Đi hộ niệm mà lại biến thành tắm rửa người chết, thay áo thay quần, xong để vô trong quan tài, rồi tụng kinh... Ấy vậy mà gọi là hộ niệm!…

Cũng nhắc lại một câu chuyện rất thân thuộc với chúng ta, là có người đã biết qua hộ niệm, nhưng lại không chịu nghiên cứu kỹ, để đến khi chính một người thân nhất trong gia đình của mình bị bệnh… Rồi tự mình đứng ra hộ niệm, nhưng lại ứng dụng sai. Chỉ cần sai một chút thì người thân mất vãng sanh!... Cái sai đó chắc mấy tọa đàm trước mình có nói qua. Sự sơ ý này chính là cưỡng bức người bệnh, làm cho người bệnh phiền não! Phiền não vì không biết cách chiều người bệnh. Hẳn nhiên, có những điều mình không chiều được, nhưng có những điều cần chiều mình bắt buộc phải chiều người bệnh, đó mới là đúng phương pháp hộ niệm. Còn ở đây không chiều chuộng người bệnh, mà lại bắt người bệnh phải chiều theo ý của người hộ niệm một cách quá đáng!

Khi hiểu được những chuyện này, chúng ta nêu ra đây để làm kinh nghiệm. Chư vị thấy rằng, muốn vãng sanh về Tây-Phương phải nghiên cứu pháp hộ niệm cho thật kỹ. Nếu nghiên cứu qua loa, nhất định khi hộ niệm sẽ bị sơ hở! Sơ hở nhiều lắm!...

Ví dụ như người bệnh khi đã tắt hơi rồi, mình tới hộ niệm, niệm Phật cho người đó, thì trong pháp hộ niệm có nói, phải cố gắng dời cái ghế cách xa cái giường người bệnh một chút, cỡ chừng một thước rưỡi, hai thước, rồi ngồi nghiêm trang niệm Phật, đừng nên rục rịch. Để chi?... Tại vì trong những lúc này là thời điểm rất quan trọng đối với thần thức của người đó. Có những người hộ niệm mà sơ ý kéo ghế sột-soạt sột-soạt, đi qua đi lại... Điều này nhất định không tốt! Làm vậy có thể ảnh hưởng xấu đến chuyện vãng sanh của người ra đi. Có nhiều người quá sơ ý, cầm cái ghế liệng bên này liệng bên kia. Nhiều người cầm chiếc ghế đưa ngang qua cái thân người chết. Những điều này vô cùng tối kỵ!...

Khi đi hộ niệm thì chư vị bên này cần nhìn bên kia, chư vị bên kia quan sát lại bên này... Nếu thấy trên đầu kèo có một con mèo đứng nhìn xuống, thì mình phải mau mau tìm cách đuổi con mèo đó đi. Nếu thấy có con chó đang đi lảng-vảng lảng-vảng bên cạnh, mình phải nói với người nhà tìm cách đuổi con chó ra. Người hộ niệm tới nhà người bệnh, nếu thấy có nuôi những con vật này, tốt nhất là phải cảnh cáo người nhà liền. Một là phải nhốt chúng lại, hai là đuổi nó ra đừng có để đến gần. Lý do, vì trong lúc mình đang niệm Phật, con chó có thể bất ngờ vồ chụp hoặc nhảy qua xác người chết. Vấn đề này có thể sẽ làm trở ngại rất lớn đến chuyện vãng sanh của người chết!...

Cầm một cái ghế, cầm một cái khăn, hay bất cứ vật gì chuyển qua trên cái xác của người chết thật là điều không tốt! Một là bất kính với người đã ra đi, hai là có thể ảnh hưởng không tốt đến thần thức của họ!...

Ví dụ khác như mình cảm thấy nóng quá, cần mở máy quạt, nhưng phải chú ý không được quạt thẳng vào thân người chết. Xin quý vị nhớ thật kỹ điều này. Không được quạt thẳng vào thân người chết. Nếu quạt thẳng vào xác họ, sẽ làm trở ngại cho họ rất nhiều. Những chuyện này tuy nhỏ nhặt từng chút, từng chút… Nhưng chúng ta cũng phải cố gắng lưu tâm, chớ khinh thường phạm đến.

Xin kể ở đây một câu chuyện nho nhỏ xảy ra tại Sài-Gòn vào năm 2006. Có một người kia đã chết rồi, đã được liệm trong quan tài, quan tài có kính, đã qua một hai ngày rồi để chờ một người con ở nước ngoài về rồi mới chôn cất. Trong thời gian đó thì con cái ồn ào quá! Họ không tuân giữ sự trang nghiêm! Họ cãi cọ với nhau về mai táng và những chuyện khác nữa (Không tiện nói ra)!.. Sự việc này đã làm cho cái xác của người chết đó ói máu ra!... Cảnh tượng khá dễ sợ!…

Cho nên, xin chư vị phải chú ý, đừng nên sơ ý gây ồn náo. Niệm Phật hộ niệm âm thanh phải đều nhau. Đừng nên đi qua đi lại nhiều quá... Giả sử như trong ban hộ niệm có người đang niệm không đều, hoặc không hòa với âm thanh của đại chúng, tốt nhất là mình nhẹ nhàng kêu trưởng ban hộ niệm ra ngoài bàn thảo lại, nhắc nhở cho người trưởng ban để tìm cách thay đổi giọng niệm. Thay đổi âm giọng dễ lắm, nhưng phải báo cho người trưởng ban biết. Nếu quả đúng là tiếng niệm Phật nhão quá, chậm quá, buồn quá hay sao đó... thì người trưởng ban có thể đánh một tiếng khánh để tất cả mọi người ngừng lại. Khi ngừng lại rồi, thì người trưởng ban lợi dụng cơ hội này nên có lời khai thị ngắn cho người chết đó trước. Khai thị xong thì bắt lại giọng niệm khác cho chuẩn xác hơn. (Trường hợp này rất cần máy niệm Phật để làm chuẩn). Xử sự như vậy mới đúng pháp hộ niệm.

Ví dụ thấy mọi người đang niệm nhè nhẹ nhè nhẹ! Yếu quá! Xin đừng sơ suất tự mình phát tiếng niệm lớn, niệm ào ào lên... Làm như vậy thật sự là sai pháp hộ niệm, dễ gây phiền não đến người ra đi, làm trở ngại đường vãng sanh của họ. Xin chư vị phải chú ý.

Có những trường hợp người ra đi với thoại tướng rất tốt, mắt nhắm, miệng ngậm... nhưng khi chúng ta gây nên một sự ồn náo, tạo ra phiền não hoặc làm kinh động đến thần thức, nhiều khi người chết mở mắt ra mà ta không hay! Thật sự đã từng xảy ra chuyện này, chứ không phải là đơn giản đâu! Chư vị cần lưu tâm.

Hiểu được những chuyện này xin chư vị cố gắng giữ trang nghiêm. Nhất định cần phải nghiên cứu cho thật nhiều về pháp hộ niệm.

Vì thời gian ngắn quá, nên chúng ta không cách nào nói nhiều được. Nhưng điểm chính mong chư vị hiểu cho, là phải cố gắng giữ gìn trật tự, trang nghiêm và kính cẩn.Luôn luôn phải kính cẩn để công cuộc cứu người được trọn vẹn!...

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 38

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Kính bạch Sư Cô cùng đại chúng!

Hôm nay Diệu Âm xin giới thiệu một người khách quý từ bên Mỹ qua. Đó là cậu Tư của Diệu Âm. Hai cậu cháu đã thất lạc với nhau trên sáu mươi năm, nay mới được gặp lại… Mà một điều rất hay là gặp nhau trong buổi cộng tu. Cậu vì muốn niệm Phật nên từ nửa vòng trái đất đã bay qua đây.

Chúng ta đang nói về “Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên”, thì thật sự đây cũng là một nhân-duyên rất lớn cho cậu của Diệu Âm. Nếu nương theo cái nhân-duyên này cậu quyết lòng niệm Phật, thì một báo thân này nữa thôi ở trong lục đạo luân hồi, báo thân tiếp theo là “Thanh Hư Chi Thân, Vô Cực Chi Thể, Kim Cang Bất Hoại” trên cõi Tây-Phương, chứ không còn là thân phàm phu tục tử vô thường trong cảnh ngũ trược ác thế này nữa.

Tất cả đều do duyên!… Nếu chúng ta quyết lòng nhận cái duyên này để đi về Tây-Phương Cực-Lạc, thì chắc chắn Phật không bao giờ để chúng ta chịu đau khổ tiếp nữa đâu… Trong tọa đàm “Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên” này, đến nay thì cũng đã gần viên mãn, nếu chư vị có những câu hỏi gì, thì nên viết ra để chúng ta cố gắng mổ xẻ sâu hơn về phương pháp hộ niệm cứu người vãng sanh.

Trong mấy ngày qua chúng ta nói rất nhiều về nhân-duyên, thì hôm nay Diệu Âm xin nói qua phước-đức, rồi nếu như những ngày sau mà không có câu hỏi gì nữa, thì mình sẽ chuyển lên thiện-căn. Cứ thế mình tiếp tục xoay vần ba điểm này.

Phước-Đức, thì trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ Phật nói: “Phước-Đức Nhân-Thiên, Phước-Đức Nhị-Thừa, Phước-Đức Đại-Thừa”.

Phước-Đức Nhân-Thiêngồm có: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm không sát sanh, tu mười điều thiện”.

Ví dụ như hôm kia, mình có đọc một cái tin rằng có một vị khi có thân nhân vãng sanh xong đã phát tâm nguyện không giết, không ăn thịt, tất cả những con vật đang nuôi trong nhà như heo, gà, vịt... mà tiếp tục nuôi cho đến khi chúng chết. Khi chúng chết rồi thì cũng phát tâm hộ niệm cho chúng vãng sanh! Đây chính là làm cái phước-báu nhân-thiên.

Phước-Báu Nhị-Thừalà: “Thọ trì tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm uy nghi” (Có ba điều).

Phước-Báu Đại-Thừalà: “Phát Bồ-Đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả”.

Trong phước-báu nhân-thiên điểm quan trọng là “Hiếu dưỡng phụ mẫu”. Phước-đức này nếu mà khai triển ra thì nhiều khi bao trùm pháp giới. Hòa Thượng Tịnh-Không nói rằng, đạo Phật suy cho cùng là trả tròn đạo hiếu.... Cho nên chuyện này không phải là tầm thường. Thật ra chính Diệu Âm cũng bắt đầu đi vào đạo Phật bằng cách dựa câu này mà đi.

Khi biết được pháp môn Niệm Phật quá vi diệu, thấy cha mẹ mình tu hành nhưng cứ tìm con đường phước-báu nhân-thiên mà đi, không biết gì về niệm Phật vãng sanh hết, cho nên Diệu Âm thấy bức xúc trong người, muốn cứu mà không biết làm sao. Đến khi nghe Phật nói đến ba cái phước này, thì Diệu Âm đã lấy cái phước đầu tiên là “Hiếu dưỡng phụ mẫu” và cái phước cuối cùng là “Khuyến tấn hành giả” để đi.

Nhưng thành thật mà nói là cũng không dám đi, tại vì cứ nghĩ mình còn non kém không thể nào mở lời ra khuyên cha mẹ được. Nhưng khi đọc đến lời khai thị của ngài Ấn-Quang thì thật sự đã giật mình tỉnh ngộ!

Ngài Ấn-Quang đã nói như thế này:

“Ta đã biết con đường niệm Phật vãng sanh thoát vòng sanh tử, thì nỡ nào lại để cho cha mẹ, anh em, bà con quyến thuộc của mình tiếp tục chìm trong bể khổ sông mê. Khuyên Người Niệm Phậtcầu về Tây-Phương là giúp cho một phàm phu thành bậc Chánh-Giác, công đức này vô lượng vô biên. Nếu đem công đức đó hồi hướng về Tây-Phương thì đạo nghiệp tự nhiên thành”.

Chính lời khai thị này làm ngọn đuốc soi đường và Diệu Âm quyết lòng giúp cho cha mẹ vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.

Mình thấy rõ rệt, nếu muốn trả tròn đạo hiếu mà không biết đạo giải thoát thì càng trả chữ hiếu của thế gian bao nhiêu, coi chừng càng làm cho cha mẹ mình bị đọa lạc bấy nhiêu!...

Vì xin thưa thật, trước đây Diệu Âm cũng nghĩ rằng, trả hiếu có nghĩa là gởi tiền về khuyên cha mẹ mua gà, mua vịt, mua cá, mua thịt... để ăn cho khỏe. Nhiều khi mình còn xúi cha mẹ mình giết gà, giết vịt để ăn thịt nữa… Rồi cũng vì báo hiếu cho nên mỗi lần giỗ kỵ, nhiều khi ông già của Diệu Âm đã giết heo, giết gà đem cúng ông bà và đãi khách. Cứ tưởng vậy là hiếu! Nhưng càng trả chữ hiếu theo kiểu này chừng nào, thì vô tình khiến cho ông bà cha mẹ mình càng đọa lạc chừng đó!…

Chính vì thế, là một người con xin hãy cố gắng trả tròn chữ hiếu. Nếu chúng ta là mẹ là cha, thì cũng phải đáp cho tròn cái lòng hiếu thảo của con cái. Nếu chúng ta không đáp tròn thì coi chừng chúng ta cũng bị lỗi, vì đời này chúng là con, nhưng biết đâu đời trước chúng lại là cha là mẹ của mình. Nói như vậy có nghĩa là, con thì trả tròn chữ hiếu, cha cũng phải ráng mà khuyên con niệm Phật. Trên khuyên dưới, dưới khuyên trên đó là trả tròn chữ hiếu vậy.

Có nhiều người làm cha mẹ, đúng ra tới cái tuổi gần đất xa trời thì nên phát tâm niệm Phật tu hành, đàng này không chịu phát tâm niệm Phật mà lại còn cản trở con cái niệm Phật. Thật quá sai lầm! Hàng con cái cũng có nhiều cách báo hiếu sai lầm, cứ nuông chiều cha mẹ, giúp cha mẹ thỏa mãn một cái gì đó trong nhân gian, tưởng như vậy là tròn đạo hiếu. Không ngờ thỏa mãn chuyện nhân gian coi chừng xa lìa đường đạo, đưa cha mẹ mình xuống địa ngục! Cho nên đối với con đường giải thoát xin chư vị phải vững, phải cứng, phải thẳngthì một là chính ta có đường giải thoát, hai là mới giúp hồi đầu được những người làm con, hồi đầu được những người làm cha, làm mẹ...

Xin thưa với chư vị, muốn cứu cha mẹ vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc không phải dễ đâu! Khó lắm đó!... Nếu mà chúng ta không phát cái tâm nguyện ra trước thì chắc chắn không thể nào cứu cha mẹ mình được đâu. Những kinh nghiệm này Diệu Âm lấy chính bản thân mình ra để mà nói.

Ví dụ như khi Diệu Âm bắt đầu viết những lá thư “Khuyên Người Niệm Phật”, thật ra là khuyên cha mẹ niệm Phật chứ không phải là “Khuyên Người Niệm Phật”, nhưng khi có duyên người ta lại phát tâm ấn tống những tập thư đó ra, chẳng lẽ mình nói là “Khuyên Cha Niệm Phật” sao? Nghe không được thuận! Nên mới chuyển thành là “Khuyên Người Niệm Phật”.

Khi bắt đầu làm công chuyện này, thì bao nhiêu thử thách đến dồn dập. Nếu mình không có cái tâm nguyện vững vàng, thì không bao giờ mình có thể làm được.

Ví dụ cụ thể, như đối diện với cha, mình nói: “Cha ơi! Cha niệm Phật đi”…Vừa mới mở một câu nói như vậy, thì thường khi cha mình nổi giận lên liền! Trợn mắt lên liền! Quát tháo lên liền: “Mày là con mà dạy đời cha hả? Ta tu trong lúc mày chưa có trong trứng nước nữa... Mày đã bị ma nhập rồi, đã theo tà ma ngoại đạo rồi, có biết ta tu tới nay là sáu mươi mấy năm, trên cái tuổi đời của mày, mà sao còn dám dạy đời!”…

Xin thưa với chư vị, nếu mình muốn cứu cha mẹ mà không chuẩn bị đối diện với những thử thách này thì thường thường bị thất bại!

Cho nên khi chúng ta nói rằng về khuyên mẹ niệm Phật đi, về khuyên cha niệm Phật đi... đừng tưởng là một năm hai năm, một tháng hai tháng tới khuyên vài câu là xong đâu. Xin thưa, muốn thật sự khuyên thì mình phải theo dõi cho kỹ. Nhiều khi người cha hứa niệm Phật, nhưng thật ra không có niệm Phật đâu ạ!... Niệm chơi chơi trong đó!... Niệm giỡn giỡn trong đó!... Không để ý thì rốt cuộc rồi cứu cũng không được đâu.

Diệu Âm khi nghĩ đến chuyện cha mẹ chết rồi phải chịu đọa lạc, nhiều lần viết một lá thư mà phải quỳ trước bàn thờ rơi nước mắt nguyện cầu xin Phật gia trì. Phải phát tâm nguyện tha thiết như vậy thì khi bắt điện thoại lên nói chuyện với cha, nói chuyện với mẹ, bị mẹ mình la, bị cha mình rầy nhưng mình không dám bỏ. (Vì phát nguyện rồi mà bỏ thì mình sợ rằng có tội với Phật, nên phải quyết lòng làm).

Nếu nói bằng điện thoại không được thì phải viết thư. Không viết thư được phải thì nhờ đến người này nhờ đến người nọ... Nghĩa là làm đủ cách. Có vậy sau cùng may ra mới có thể cứu được một người hồi tâm tỉnh ngộ niệm Phật.

Khi ta cứu được cha mẹ hiện tiền của mình niệm Phật, thì coi như mình cứu được cha mẹ trong vô lượng kiếp. Khi người cha của mình nghe lời mình niệm Phật, thì người cha của mình hình như cũng trả tròn cái đạo hiếu trong vô lượng kiếp của cha mình nữa. Thật sự như vậy. Trong kinh Phật có nói: “Một người vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, thì ngày vãng sanh đó ông bà, cha mẹ thân thuộc của họ tự nhiên thoát được tam ác đạo”.

Cái giá trị của vãng sanh bất khả tư nghì! Không phải là đơn giản!... Có nhiều người nghĩ đến tai ương họa hại, chết chóc nhiều quá, nên lăn xả vào việc cứu tai nạn… Điều này rất tốt, chúng ta phải cố gắng làm. Nhưng làm gì thì làm, chính ta phải có cái phước phần vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc mới được. Làm gì thì làm, chính ta cũng nên cố gắng cứu những người sát bên ta vãng sanh được về Tây-Phương Cực-Lạc, đó mới là những sự chứng minh cụ thể rằng pháp niệm Phật vi diệu… làm cho nhiều người thấy pháp niệm Phật vi diệu, pháp Hộ Niệm vãng sanh về Tây-Phương vi diệu như vậy họ mới phát tâm ra niệm Phật vãng sanh.

Cứu một người vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc công đức vô lượng vô biên. Mình cứu người đó vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc mình hưởng công đức vô lượng vô biên, chính người đó cũng hưởng công đức vô lượng vô biên và chúng sanh vô lượng vô biên trong khắp pháp giới cũng dựa theo đó mà hưởng lợi ích.

Chính vì thế, mong chư vị hiểu điều này, phước-báu nhân-thiên đối với pháp môn Niệm Phật là một trợ hạnh tích cực giúp cho chúng ta về Tây-Phương. Trợ hạnh này rất gần với người phàm phu tục tử như chúng ta. Đem tất cả phước-báu này hồi hướng về Tây-Phương Tịnh-Độ, ta “Niệm Phật vãng sanh”…

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 39

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Trong kinh A-Di-Đà, Phật dạy: Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyênđầy đủ sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Nếu ba điểm này yếu thì khó có thể sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Nhưng nhiều khi chúng ta đã có đủ thiện-căn, phước-đức, nhân-duyên, nhưng sơ ý cũng có thể mất phần vãng sanh. Đây cũng là điều đáng tiếc!...

Làm sao biết mình có đủ Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên?...

Trong Kinh Vô Lượng Thọ Phật có nói một câu này: Vãng tích nhược bất tu phước huệ. Ư thử chánh pháp bất năng văn. Nghĩa là nếu trong quá khứ chúng ta không tu đủ “Phước”, đủ “Huệ”, thì trong cơ duyên này dù gặp phải chánh pháp, tức là câu A-Di-Đà Phật, chúng ta cũng không có thể nào nghe cho được… “Văn” là nghe! Thật ra, “Văn” là đại diện cho “Văn-Tư-Tu”, là người tu trì pháp môn Niệm Phật.

Ta đang kết tụ lại đây hàng đêm niệm A-Di-Đà Phật cầu sanh Tây-Phương Cực-Lạc, chứng tỏ ta có “Văn-Tư-Tu”. Như vậy là chúng ta có thể đã đầy đủ thiện-căn, phước-đức, nhân-duyên rồi chăng?... Đây là một tin thật sự vui mừng. Chúng ta phải quyết lòng đi nhé, nhất định đừng để sơ suất.

Hôm nay chúng ta nói tiếp về phần “Phước-Đức”. Hôm trước thì ta nói phước-đức nhân-thiên, hôm nay xin nói qua cái phước đại-thừa. Trong phước đại-thừa, từ trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ Phật nói: “Phát Bồ-Đề tâm - Thâm tín nhân quả - Đọc tụng đại thừa - Khuyến tấn hành giả”. Bốn điều.

Trong những ngày còn lại, khoảng chừng hơn một tuần lễ nữa, chúng ta cố gắng mổ xẻ vấn đề này, mong làm sao hành trình của chúng ta đi về Tây-Phương phải thẳng, phải tắt, mà trong kinh Vô-Lượng-Thọ gọi là Chánh. Chánh là thẳng. Đừng nên Tà! Tà tức là xiên!... Tà là xéo xéo!... Đi xéo xéo thì xéo một ly đi xa ngàn dặm.

Phát Bồ-Đề tâm! Tâm “Bồ-Đề” tức là tâm “Giác Ngộ”. Tâm giác ngộ có nhiều tầm cỡ lắm, chứ không phải một. Một người làm ác, khi giác ngộ họ bỏ làm ác, đó là họ phát tâm Bồ-Đề, nhưng cái tâm này chỉ tốt so với người làm ác. Một người tham lam khi ngộ ra, quyết lòng bố thí giúp người, họ không còn tham lam nữa. Đây cũng là tâm Bồ-Đề, nhưng tâm Bồ-Đề này chỉ so với tâm tham. Họ bỏ tâm tham.

Tâm Bồ-Đề trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ là Phật dạy cho chúng ta phát cái tâm thành Phật. Thì trong kinh Vô-Lượng-Thọ Phật nói câu này nhiều lần lắm: “Phát Bồ-Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm A-Di-Đà Phật cầu sanh Tây-Phương Cực-Lạc”. Mình coi thử là cái phát Bồ-Đề tâm trong kinh Vô-Lượng-Thọ và cái Bồ-Đề tâm trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ có liên lạc gì hay không?... Hay lắm!...

Trong kinh Vô-Lượng-Thọ, Phật nói: “Phát Bồ-Đề tâm nhất hướng chuyên niệm...”. Có nghĩa là một người phát cái tâm thành Phật, rồi chuyên lòng niệm câu A-Di-Đà Phật cầu sanh Tây-Phương Cực-Lạc, thì thượng phẩm, trung phẩm, hạ phẩm cùng gói ghém vào câu này. Suy cho cùng ra, câu “Phát Bồ-Đề tâm” trong kinh Vô-Lượng-Thọ chính là niềm “Tin” vững vàng và ý “Nguyện” vãng sanh Tây-Phương tha thiết. Tại vì nếu không phải như vậy thì Phật sẽ nói là: “Phát Bồ-Đề tâm, Tín-Nguyện-Hạnh niệm Phật vãng sanh về Tây-Phương”. Thường thường ba điểm Tín-Hạnh-Nguyện đi chung với nhau, nhưng mà trong kinh Vô-Lượng-Thọ Phật lại nói: “Phát Bồ-Đề tâm nhất hướng chuyên niệm”…“Chuyên niệm” là niệm câu A-Di-Đà Phật, còn cái Tín-Nguyện nó nằm ở đâu?... Nó nằm ngay trong câu “Phát Bồ-Đề tâm”.

Chính vì thế, ngài Ngẫu-Ích Đại Sư nói, phát Bồ-Đề tâm chính là người nào có cái lòng tin vững mạnh vào pháp môn Niệm Phật, có một cái ý nguyện tha thiết đi về Tây-Phương, nhất định một đời này phải đi về Tây-Phương, thì người đó là người phát tới Vô-Thượng Bồ-Đề tâm.

Bây giờ mình trở lại câu kinh trong Quán-Vô-Lượng-Thọ. Phước đại-thừa tức là công hạnh tu hành của chư vị đại Bồ-Tát. “Phát Bồ-Đề tâm” và “Thâm tín nhân quả. Hai câu này hợp lại, mình thấy hình như là nó liên kết với nhau rất chặt chẽ. Lạ lắm!...

Thâm tín nhân quảnói trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ, chính là người nào tin vững chắc vào câu A-Di-Đà Phật. “Nhân” là niệm A-Di-Đà Phật, “Quả” là thành A-Di-Đà Phật. Như vậy cái nhân quả trong Quán-Vô-Lượng-Thọ chính là gì?... Nhân niệm Phật để rồi quả thành Phật. Kết hợp hai cái phước: Một cái là “Phát Bồ-Đề tâm”, hai là “Thâm tín nhân quả”. Rõ ràng minh bạch là giữa kinh Vô-Lượng-Thọ và kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ kết hợp chặt chẽ với nhau, mỗi chỗ Phật nói mỗi khác nhưng mà nó lại có ý nghĩa giống hệt nhau.

Rồi khi chúng ta trở lại trong kinh A-Di-Đà, Phật nói: “Bất dĩ thiểu thiện-căn phước-đức nhân-duyên đắc sanh bỉ quốc. Nó sẽ làm rõ nghĩa hơn. Ba kinh này kết hợp lại làm cho ý nghĩa rõ ràng. Phật nói không dễ gì có ít thiện-căn, ít phước-đức, ít nhân-duyên mà được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Nhưng ngay sau đó Phật lại nói... Nếu một người nào mà quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật từ một ngày cho đến bảy ngày nhất tâm bất loạn, thì người đó khi lâm chung A-Di-Đà Phật và chư Thánh Chúng hiện ra trước mặt người đó, tiếp dẫn người đó về Tây-Phương. Người đó tâm sẽ không còn điên đảo nữa, và chắc chắn sẽ được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Câu nói “Nhất tâm bất loạn” trong kinh A-Di-Đà làm cho nhiều người phân vân! Khi nghe Hòa Thượng Tịnh-Không giảng, mình mới thấy rõ ràng hơn. Đây chính là A-Di-Đà Phật gia trì cho những người nào quyết lòng quyết dạ đi về Tây-Phương. Cho nên ý nghĩa nhất tâm bất loạn đó chính là nhất tâm bất loạn trong lúc mình xả bỏ báo thân, chứ không phải là niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn rồi mới được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Hòa Thượng Tịnh-Không nói rằng, ngài Huyền-Trang dịch kinh A-Di-Đà theo cách trực dịch, nghĩa là dịch theo từng chữ từng chữ, thì ngài Huyền-Trang dịch câu này là “Nhất tâm hệ niệm”. “Nhất Tâm” là một tâm một lòng, “Hệ Niệm” là niệm liên tục. Đúng là kinh A-Di-Đà, kinh Vô-Lượng-Thọ và kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ, gọi tắt là “Tam kinh Tịnh-Độ”, nói giống hệt với nhau, không có sai một chút xíu nào hết.

Chính vì thế, khi chư vị quyết lòng một dạ đi về Tây-Phương, đời này mình có cái cơ duyên gặp nhau để “Văn-Tư-Tu”, tức là chúng ta đang kết nhóm niệm Phật, thì nhất định chúng ta phải đi thẳng, không được đi xéo. Diệu Âm nói qua nói lại, nói lên nói xuống cũng chỉ mong sao chư vị nhất định phải đi thẳng. Nhất định tránh con đường đi xéo.

Trong kinh Vô-Lượng-Thọ Phật nói: “Chánh-Định-Tụ nhất định sẽ chứng ư A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam Bồ-Đề. Nhược Tà-Định-Tụ, cập Bất-Định-Tụ bất năng liễu tri kiến lập bỉ nhân cố”. Nghĩa là “Chánh-Định-Tụ” mới chứng Vô-Thượng Chánh-Đẳng Chánh-Giác. Nếu là “Tà-Định-Tụ” hay là “Bất-Định-Tụ”, (Tà-Định-Tụ là đi xéo xéo; Bất-Định-Tụ là không có định chỗ nào hết), “Bất năng liễu tri” là không thể nào có thể là khai được trí huệ, không thể nào hiểu được tại sao niệm Phật vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Trở lại vấn đề phát Bồ-Đề tâm. Có nhiều người nghĩ rằng mình là người sanh ra trong thời mạt pháp thì nghiệp chướng sâu nặng! Nghiệp chướng sâu nặng thì không thể nào vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc được! Cho nên mới phát một cái tâm sám hối nghiệp chướng rất mạnh. Diệu Âm xin thưa rằng: Không cần!…

Tại sao?... Tại vì thành tâm niệm một câu A-Di-Đà Phật phá tan tám mươi ức kiếp nghiệp chướng sanh tử trọng tội. Đây chính là sám hối rồi!...

Cho nên nếu mình phát tâm nhắm vào sám hối thì vô tình mình không phát được tâm mạnh mẽ cầu vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, và thường thường chú tâm vào sám hối thì cái tâm của mình đang chìm đắm trong cái nghiệp, đang nhớ cái nghiệp, đang khơi cái nghiệp, quậy cho cái nghiệp nổi lên... Mình phá được cái nghiệp này thì cái nghiệp khác nổi lên, hàng ngàn cái mắc xích nối liền với nhau. Mình móc được cái mắc xích này, thì mắc xích kia sẽ nổi lên, nó nổi lên cho đến lúc nằm xuống vẫn còn bị cái nghiệp trói mình, không thể vãng sanh được!

Cho nên pháp “Niệm Phật” gọi là pháp đi thẳng. Thẳng là sao?... Không phải niệm Phật để phá nghiệp, mà nhất định một lòng một dạ niệm Phật để đi về Tây-Phương. Chư Tổ nói:

- Câu A-Di-Đà Phật tự nhiên sám hối!…

- Câu A-Di-Đà Phật tự giúp cho mình thành đạo!…

- Câu A-Di-Đà Phật tự giúp cho mình vượt qua sanh tử luân hồi!…

- Câu A-Di-Đà Phật tự giúp cho mình có thể xóa tan nghiệp chướng trùng trùng trong Vô Lượng kiếp để mình đới nghiệp, nghĩa là mình vượt qua nghiệp chướng để đi về Tây-Phương Cực-Lạc...

Khi đi về Tây-Phương Cực-Lạc rồi mình đừng lo sợ nghiệp nữa, tại vì trong kinh Vô-Lượng-Thọ Phật đã nói rằng, về được Tây-Phương rồi, thì A-Di-Đà Phật đóng tuyệt sáu đường sanh tử, đóng tuyệt ba cõi tam giới, mình không còn rơi lại trong hàng “Phàm Phu Vị” nữa. Mà còn hay hơn nữa, không phải chỉ khỏi rơi vào hàng phàm phu tục tử, mà ngay cả hàng “Nhị-Thừa Vị” mình cũng vượt qua luôn, hàng “Bồ-Tát Vị” mình cũng dự phần luôn, gọi là “Tam Bất Thối”. Chư Tổ thường nói là “Viên mãn tam bất thối”. Đây là một điều vô cùng là vi diệu!...

Biết được điều này rồi, xin chư vị nhất định một đường đi thẳng. Đừng lo, đừng nghĩ gì cả, cứ để cho A-Di-Đà Phật lo đi. Một câu A-Di-Đà Phật nhập vào tâm mình, nhất định đừng để cái gì nhập vào trong tâm mình nữa, thì chúng ta sẽ viên mãn hoàn thành ba bậc không thối chuyển, chúng ta thành A-nậu-đa-la-tam-miệu-tam Bồ-Đề luôn.

Nguyện mong chư vị trong một báo thân này ai cũng về Tây-Phương thành đạo…

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 40

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Trước khi bước vào trong chánh điện để cộng tu, thì Diệu Âm mới nhận được một cái tin rất là nóng hổi, là Pháp Sư Ngộ-Phạm được vãng sanh. Nghe tin này làm cho Diệu Âm cảm động! Vì trước đó thì có nghe tin là Pháp Sư ra đi đã trả nghiệp rất là đau khổ, làm cho Diệu Âm cảm thấy bức xúc và ưu tư rất nhiều!... Thì không ngờ hôm nay nghe được tin này và Hòa Thượng cũng xác nhận, thầy Ngộ-Hạnh cũng xác nhận... Làm cho Diệu Âm mừng lắm!…

Diệu Âm đang nhớ lại vào năm 2008, hình như là 2008, có một vị ký giả ở bên Iraq bị khủng bố bắt chém đầu và treo cái đầu lên trên hàng rào. Thần thức của vị này đi về vùng Sydney, Úc Châu, báo cho bà Quảng-Thái và nhờ bà Quảng-Thái cứu độ. Bà Quảng-Thái khuyên vị đó niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ, và bà nhờ đồng tu trong Niệm Phật Đường Baralla cùng hồi hướng công đức. Thì mười hai ngày sau vị đó đã báo mộng lại, lần báo mộng này thì ngồi trên hoa sen mà báo rằng: “Nhờ công đức của bà và chư vị mà tôi đã được vãng sanh về Tây-Phương hạ phẩm trung sanh”, hơn được một bậc...

Hôm nay nghe đến một vị Pháp Sư ở gần Hòa Thượng Tịnh-Không mà khi ra đi đã chịu khá khổ đau, làm cho mấy ngày nay Diệu Âm cảm thấy bức xúc! Mặc dù không nói ra lời, nhưng cảm thấy ưu tư vô cùng!... Thì hôm nay nguồn tin xác định là vị Pháp Sư đó đã được vãng sanh, mà vãng sanh bằng thân trung-ấm. Thật ra là đã vãng sanh tức là thành công. Đây là một câu trả lời quá ư là tuyệt vời để cho mình thấy rằng pháp môn niệm Phật vi diệu bất khả tư nghì!...

Phải biết rằng, khi sống mình niệm Phật tức là có thiện-căn, có phước-đức, và cái nhân-duyên này sẽ thù thắng vô cùng để cho chúng ta thành đạo. Nhưng coi chừng trong đường tu hành nếu chúng ta bất cẩn vẫn có thể bị chướng ngại. Ví dụ như vị Pháp Sư đó đã có chướng ngại. Đây là một bài pháp thật tuyệt vời cho chúng ta tự suy nghĩ lấy, đừng nên sơ ý.

Cái phước duyên của Ngài quá lớn, nên được Hòa Thượng khai thị, rất nhiều người hồi hướng công đức. Còn cái phước duyên của chúng ta chưa chắc gì lớn bằng Ngài đâu!...

Cho nên, giả sử như ta bị ách nạn, liệu có ai hồi hướng công đức cho ta mạnh mẽ như vậy không?... Liệu có ai khai thị mạnh mẽ để cho ta trực tỉnh được trong những ngày giờ mang thân trung ấm hay không?... Đây là câu hỏi mà tự mỗi chúng ta phải trả lời lấy. Khi trả lời được câu hỏi này, thì tự ta phải biết lo chuẩn bị đường đi cụ thể, đừng nên sơ suất.

Mấy ngày nay chúng ta đang nói về phát Bồ-Đề tâm, thì hôm nay mình tiếp tục câu chuyện Bồ-Đề tâm. Bồ-Đề tâm trong pháp môn Niệm Phật chính là phát nguyện vãng sanh Tây-Phương tha thiết. Đây là Chánh Nguyện. Đại Chánh Nguyện. Rồi lòng tin của chính chúng ta một ngày phải vững hơn một ngày. Trước khi vào Niệm Phật Đường niệm Phật niềm tin của chúng ta đã vững. Sau khi mãn khóa niệm Phật ta phải vững hơn. Như vậy thì tâm-tâm nguyện-nguyện của chúng ta càng ngày càng khắn khít với con đường vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Được vậy thì ta đã hoàn thành sự phát tâm Bồ-Đề Viên Mãn Vô-Thượng trong pháp môn Niệm Phật.

Như vậy, nếu đã lấy đây là Chánh Nguyện, thì tất cả những cái nguyện gì khác chớ nên sơ ý khởi phát lên. Nếu chúng ta khởi ý phát lên những nguyện khác, thì vô tình ta lập lững giữa “Trợ Nguyện” và “Chánh Nguyện”. Đến lúc lâm chung nhiều khi ta lại lầm lẫn, lấy trợ nguyện làm chánh nguyện thì chết rồi!… Tiêu rồi!...

Ví dụ, như có những người phát tâm bố thí giúp người thật là lớn lao. Tâm nguyện này tốt lắm, chứ không phải xấu đâu. Nhưng nếu cái tâm nguyện này mà nó đeo đuổi theo chúng ta càng ngày càng mạnh, đến lúc khi nằm xuống rồi, thì cái tâm nguyện này sẽ phát ra mạnh quá, nhiều khi làm cho chúng ta bỏ con đường Tây-Phương, hưởng con đường phước báu nhân thiên chỉ vì cái nguyện này quá mạnh!...

Tôi nhớ lại chuyện thầy Quảng-Thành, là sư huynh đệ của Hòa Thượng Quảng-Khâm, Ngài phát một cái tâm nguyện cứu độ chúng sanh. Khi ngài Quảng-Thành gặp Hòa Thượng Quảng-Khâm nêu lên ý nguyện này, thì bị ngài Quảng-Khâm cảnh cáo rằng:

- Nếu mà Thầy còn tiếp tục giữ cái nguyện này, khi nằm xuống mà còn vẫn nhớ đến, thì Thầy phải ở lại trong lục đạo mà lo cái chuyện cứu người. Thầy mất vãng sanh!…

Ngài Quảng-Khâm nói như vậy. Tại sao?... Tại vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh thì phải về Tây-Phương, phải thành đạo trước. Thành đạo Vô-Thượng, thành Phật rồi mới có khả năng cứu độ chúng sanh. Chứ còn lọt lại trong lục đạo luân hồi thì chẳng qua bố thí vài chục đồng, vài chục ngàn, vài chục xu gì đó là cùng, chứ không cách nào cứu được chúng sanh thoát vòng sanh tử đâu!...

Chính vì vậy, phát tâm Bồ-Đề của pháp môn Niệm Phật nó gói ghém trong hai chữ TínNguyện, thì làm sao suốt cuộc đời chúng ta tín tâm càng ngày càng vững, nguyện vãng sanh càng ngày càng vững. Như vậy càng đi ta càng nắm chắc con đường vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Còn những nguyện khác thì sao? Nếu khôn khéo thì không nguyện. Làm không?... Làm!... Xin chư vị hãy làm, làm nhưng không nguyện. Ví dụ như bố thí, mình có bố thí không?... Bố thí!… Nhưng có nguyện không?... Không nguyện!... Có nghĩa là sao?... Làm tùy duyên. Gặp lúc bố thí giúp người, ta có tiền thì cứ việc giúp...

Ví dụ khác, như có nhiều người phát nguyện rằng tôi sẽ đọc Chú này mười ngàn biến. Cái nguyện này tốt hay xấu?... Tốt. Nhưng mà phát tâm nguyện như vậy, lỡ như mình đọc Chú này mới có ba ngàn biến thôi, rồi tới hạn lâm chung thì sao?... Lúc đó tự nhiên tâm mình sẽ phân vân liền! Trong lúc lâm chung mà tâm bị phân vân, không chịu niệm câu A-Di-Đà Phật, không nguyện vãng sanh, thì nhất định dù bây giờ có nhờ một ngàn người tới niệm cho mình một ngàn bài Chú, thì mình chỉ có thể hưởng phước-báu của bài Chú đó để giảm bớt nghiệp chướng, rồi trở lại trong lục đạo luân hồi, chứ không thể vãng sanh được.

Như vậy bây giờ ta không nguyện gì hết. Ta có thể đọc chú đó giải nghiệp, nhưng mà nguyện thì không nguyện, để chi?...

- Để nhất định cái nguyện vãng sanh càng ngày càng thâm nhập vào tâm chúng ta.

- Niềm tin càng ngày càng thâm nhập vào tâm chúng ta.

- Nhất hướng chuyên niệm A-Di-Đà Phật cầu sanh Tây-Phương Cực-Lạc, thì ta đi thẳng tắp theo con đường vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Nếu ta phát tâm nguyện nào khác, thì cái tâm nguyện đó nó trói cái tâm mình lại. Nhiều khi đang lúc phát nguyện đó mình bị bệnh, đối diện với cái chết, một khi lỡ phát nguyện rồi mà làm không được nên tâm mình bị vướng vào đó mà bị phân-vân, chao đảo! Bên cạnh đó nghiệp chướng của mình tràn lên. Oan gia trái chủ của mình cũng tràn lên, xui khiến mình đi theo cái nguyện diệt nghiệp, làm phước, cầu an... quên đi cái nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Chính vì thế mà người niệm Phật chớ nên sơ ý phát những nguyện khác.

Trợ nguyện phải biết tùy duyên mà làm thì tự nhiên chúng ta thoải mái. Có duyên cứ việc làm, làm để tạo thêm phước. Nhưng thật sự xin thưa với chư vị, hãy nhớ rằng: “Niệm Phật một niệm phước tăng vô lượng”. Muốn tu phước hãy lấy câu niệm Phật này mà tu. Muốn sám hối: “Lạy Phật một lạy tội diệt hằng sa”. Lấy câu này mà sám hối. Thành tâm niệm câu A-Di-Đà Phật phá tan tám mươi ức kiếp nghiệp chướng sanh tử trọng tội.

Làm sao cho được thành tâm?... Chính là phát nguyện vãng sanh Tây-Phương cho thật tha thiết, niềm tin thật vững vàng. Niềm tin vững vàng thì tự nhiên ta niệm từng câu A-Di-Đà Phật với tâm thành vô cùng, tự nhiên sẽ phá tan không biết bao nhiêu nghiệp chướng. Tâm mình thành như vậy thì một câu A-Di-Đà Phật niệm lên quang minh sẽ bủa rộng ra chung quanh bốn mươi dặm... Biết bao nhiêu chúng sanh nghe được câu niệm của mình mà ngộ đạo vãng sanh chăng...

Chính vì thế mà chánh nguyện thì chúng ta phải nguyện cho thật vững. Còn trợ nguyện thì xin để tùy duyên. Có như vậy thì tâm sẽ thoải mái, tự tại, chúng ta không bị vướng mắc một chỗ nào hết. Khi nằm xuống chúng ta cố gắng về Tây-Phương trước khi tắt hơi thở hay hơn là để rơi vào trong cảnh trung-ấm. Trong cảnh trung-ấm, đôi lúc nhờ có phước-duyên lớn cũng có thể giật mình tỉnh ngộ. Nhưng nhiều khi vì nghiệp lực mạnh quá, lại không gặp ai giảng giải khai thị trong thân trung-ấm, thì trong bốn mươi chín ngày mê mờ đi theo cái trợ nguyện của mình mà trở lại nhận phước-báu nhân-thiên. Đây là một điều hết sức oan uổng cho người niệm Phật!...

Mong chư vị nhất định càng ngày càng nguyện vãng sanh tha thiết, niềm tin vững vàng niệm câu A-Di-Đà Phật hôm nay là Nhân-Duyên đưa mình vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 41

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Ngày hôm qua mình nói về “Phát Bồ-Đề tâm”. Phát bồ-đề tâm chính là tha thiết nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Đây là chánh nguyện của người niệm Phật. Lấy nguyện này làm chính, thì cố gắng chuyên nhất.

Niệm Phật phải chuyên nhất. Chúng ta không nên sơ ý phát nguyện nhiều quá mà làm tâm hồn của chúng ta bị chia ra năm đường bảy ngã, rồi không có nguyện nào được trọn vẹn, lỡ trong giai đoạn đó mình mãn phần thì tinh thần sẽ bị chao đảo, phân vân, do dự, sợ sệt… làm cho con đường vãng sanh của mình có thể bị chướng ngại!...

Cho nên chánh nguyện thì càng ngày càng thâm sâu vào trong tâm, còn những trợ nguyện thì cứ tùy duyên, có duyên chúng ta làm, không duyên chúng ta cứ một lòng niệm Phật đi về Tây-Phương thì tất cả đều hoàn hảo.

Trong cái Phước Đại-Thừa,Phật có nói điều “Thâm Tín Nhân Quả”. Thâm Tín Nhân Quả trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ khác với “Tin Nhân Quả” trong những bộ kinh khác.

Làm hiền được phước, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Đó là nhân quả thường thường chúng ta nghe qua. Còn ở đây Phật nói thâm tín nhân quả là Phật kêu gọi những vị đại Bồ-Tát phải thâm hiểu về “Nhân”, về “Quả”. Thì cái nhân quả này, theo như Hoà Thượng Tịnh-Không giảng rất là kỹ, đó là: “Niệm Phật là Nhân thành phật là Quả”. Chư vị Tổ Sư đều đồng nói như vậy: “Niệm Phật là Đại Nhân, thành Phật là Đại Quả”.

Chính vì thế, hôm nay chúng ta có được cái nhân niệm Phật, thì chúng ta phải tin tưởng cái nhân niệm Phật này sẽ đưa ta vãng sanh về Tây-Phương thành Phật. Lòng tin này đừng bao giờ lung lay, nếu lòng tin lung lay thì liền bị trở ngại!

Rõ ràng trong thiện-căn cũng có chữ “Tín”, trong phước-đức cũng có chữ “Tín”, và trong cơ-duyên là ngay trong những giờ phút chúng ta niệm Phật này cũng cần chữ “Tín”. Trong kinh Phật thường hay nói “Một là tất cả. Tất cả là một”. Ta giảng sao cũng được hết. Viên mãn tròn đầy.

Cho nên nếu chúng ta quyết lòng đi về Tây-Phương thì nhất định chính niềm tin vào pháp Niệm Phật này sẽ đưa ta vãng sanh về Tây-Phương một đời thành đạo. Đừng bao giờ để niềm tin lay chuyển. Nếu lay chuyển thì sợ rằng đến lúc nằm xuống chúng ta không còn có cơ hội nào khác để lấy lại cái niềm tin đó đâu! Mong chư vị cố gắng củng cố niềm tin. Tất cả đều ở tại cái niềm tin này mà ta thành đạo…

Năm ngoái, khi đi về Việt Nam để hộ niệm cho người Cô vãng sanh, sau đó chư vị đồng tu bắt đi lang thang các nơi. Thì có một dịp tới tại một ngôi tự viện ở thành phố Nha Trang. Có ba-bốn đạo tràng hợp lại và Diệu Âm đã trình bày về phương pháp hộ niệm. Thì có một vị Sư Bà hỏi như thế này:

- Sư Bà thấy rằng tụng chú Đại-Bi rất tốt. Nếu người bệnh thành tâm tụng chú Đại-Bi thì sẽ hết bệnh. Sư Bà nói chính mắt Sư Bà đã xác nhận có hai trường hợp như vậy, tức là bệnh rất nặng nhưng sau khi trì chú Đại-Bi thì người đó hết bệnh. Sư Bà nói:

- Vậy thì tại sao chúng ta không đem chú Đại-Bi trì tụng cho người bệnh mà phải niệm câu A-Di-Đà Phật?...

Diệu Âm mới thưa với Sư Bà và cùng chư vị đại chúng ở đó như vầy, tụng chú Đại-Bi giải nghiệp rất là tốt. Chính Sư Bà đã xác nhận được có người niệm chú Đại-Bi hết bệnh. Đây đúng là Phật Pháp vi diệu…

Tuy nhiên, Diệu Âm cũng nói, tình thật là Diệu Âm biết được Phật pháp quá ngắn, chưa tới mười năm. Nhưng chính Diệu Âm này cũng đã từng thấy những người niệm câu A-Di-Đà Phật mà được hết bệnh, không phải là một vài người, mà đến mười mấy người như vậy.Diệu Âm mới biết Phật pháp đây thôi.

Như vậy rõ ràng,trì chú cũng có thể hết bệnh, niệm Phật có thể hết bệnh...

Bên cạnh đó thì có rất nhiều vị hộ niệm cùng đi theo, nên Diệu Âm mới nói rằng:

- Bây giờ chúng ta có thể hỏi những vị trưởng ban hộ niệm đang có mặt tại đây, hỏi họ đã chứng nhận bao nhiêu người niệm một câu A-Di-Đà Phật cầu về Tây-Phương vô tình lại được hết bệnh. Hết bệnh một cách rõ ràng, và sĩ số hết bệnh đó chắc chắn phải hơn con số hai người như Sư Bà đã xác nhận.

Tất cả đều ở “Niềm Tin”. Nếu niềm tin của mình vững mạnh vào chú Đại-Bi, tụng chú Đại-Bi sẽ linh ứng bất khả tư nghì. Nếu niềm tin vững mạnh của mình đặt vào câu A-Di-Đà Phật, niệm câu A-Di-Đà Phật cũng sẽ được cảm ứng bất khả tư nghì. Trong kinh Phật không có cái gì mà không vi diệu bất khả tư nghì hết.

Tuy nhiên có một điểm khác như thế này, tụng chú Đại-Bi có thể hết bệnh. Nhưng giả sử như cái thân nghiệp của người đó đã mãn, thì tụng chú Đại-Bi làm giảm bớt nghiệp chướng, nhưng phần vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc hình như là rất khó phát hiện! Trong khi đó thì niệm một câu A-Di-Đà Phật, quyết lòng nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, nếu cái thân nghiệp này đã mãn thì họ được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Nếu cái thân nghiệp này chưa mãn, tức là thọ mệnh của họ còn thì tự nhiên hết bệnh. Khác nhau ở chỗ: “Vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc”.

Chính vì thế khi mà chúng ta quyết lòng tin tưởng vào câu A-Di-Đà Phật, một lòng niệm câu A-Di-Đà Phật và tha thiết nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, thì một có thể hết bệnh, hai vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Còn niệm các chú khác thì một có thể hết bệnh, hai là coi chừng lỗ!.. Lỗ này có nghĩa là mình không trở về Tây-Phương Cực-Lạc để thành đạo được!

Tại vì xin thưa, niệm chú thật ra chính là tu phước, phá nghiệp. Còn niệm Phật cũng tu phước, phá nghiệp, nhưng thêm một phần nữa là được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Như vậy thì tại sao chúng ta không quyết lòng niệm câu A-Di-Đà Phật để vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc?...

Một điểm nữa, là khi hộ niệm cho người bệnh vãng sanh. Nếu xen tạp nhiều thứ quá là do từ niềm tin vào câu Phật hiệu yếu! Chắc chắn hễ đã xen tạp thì tâm sẽ phân-vân, do dự, nửa ở nửa đi, chập chờn trong cảnh giới đó! Ví dụ, nhiều lúc bị đau đớn quá thì cũng muốn về Tây-Phương cho rồi!... Có lúc thấy khỏe khỏe lại một chút thì nhớ tới con, nhớ tới gia đình, nhớ tới sự nghiệp... tự nhiên cũng ham sống thêm một vài năm nữa... Chập chờn nửa ở nửa đi!… Tinh thần này nhất định không bao giờ cảm ứng được đến đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật. Mà không cảm ứng được với Đức A-Di-Đà Phật thì nhất định khó có thể tiếp xúc được với Phật quang của A-Di-Đà Phật.

Bên cạnh đó, một là nghiệp chướng đang hiện hành, chắc chắn nó sẽ quậy tan nát hết. Thứ hai là oan gia trái chủ chướng cũng đang hiện diện, khi thấy một người không quyết tâm đi về Tây-Phương thì thật sự chư vị đó hiểu rõ rệt là người này đã mang nợ máu với mình, nhưng không muốn về Tây-Phương thì nhất định không thể nào trả được cái món nợ sinh mạng của họ được!... Như vậy thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện các Ngài thay tâm đổi tánh, xả bỏ oán thù để hộ niệm cho mình? Tất cả bao nhiêu thứ chướng ngại dồn lại làm cho những người chập chờn nửa ở nửa đi sau cùng trong một trăm phần tìm không ra một phần để vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc! Người bệnh đó dù làm cái gì có hay tới đâu, làm thiện tới đâu đi nữa, thì nhiều lắm là hưởng được cái phước-báu nhân-thiên trong đời sau là cùng.

Y hệt như vậy!... Cũng niệm Phật, cũng nguyện vãng sanh và cũng tu hành giống như vậy...

- Nhưng mà giữ niềm tin vững vàng, nhất định một đường đi thẳng.

- Phát nguyện chuyên nhất.

- Niệm Phật chuyên nhất.

- Lòng tin không lay chuyển

Thì cơ duyên này họ vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Cũng y hệt như vậy!... Cũng phước-báu như vậy!... Nhưng niềm tin chập chờn, nửa ở nửa đi, không muốn về Tây-Phương, thì bây giờ dù có gì đi nữa họ cũng phải rớt lại trong lục đạo trước, sau đó ngàn năm, vạn năm, vạn kiếp... không biết ngày nào để nói lên được câu vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc!

Thưa với chư vị, tất cả đều dồn tới ba điểm “TÍN-NGUYỆN-HẠNH”. Nhất định phải chuyên nhất. “Tin” nhất định là “Thâm Tín”. Niệm Phật là nhân thành Phật là quả.

- Người nào phát khởi cái niềm tin này trước, người đó vãng sanh về Tây-Phương trước…

- Người nào phát khởi cái niềm tin này sau, thì thôi để vài ngàn kiếp sau rồi tính!...

- Người nào quyết lòng quyết dạ một lời nguyện duy nhất nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc… Chư Tổ nói nguyện này chính là “Vô-Thượng Bồ-Đề tâm” đã phát.

Chính đức Thích-Ca-Mâu-Ni Phật trong kinh Niệm-Phật-Ba-La-Mật cũng nói rõ rệt câu này: “Vãng sanh về Tây-Phương thì một đời thành Phật”. Cho nên Ngài cũng nói, “Vãng sanh về Tây-Phương tức là thành Phật”. Một cái đại nguyện thành Phật mình lại không dám nhận, mà cứ nhận những cái nguyện làm phước, làm thiện... để đời sau tu tiếp. Phải chăng, có tu hành nhưng đã sơ ý đi lệch rồi! Đi lệch một ly thì xa ngàn dặm!

Mong chư vị càng ngày càng vững tâm. Nhất định pháp Hộ Niệm sẽ đưa tất cả chúng ta về tới Tây-Phương Cực-Lạc bằng niềm tin vững vàng, bằng chí nguyện vãng sanh tha thiết và kiên trì chuyên nhất một câu A-Di-Đà Phật niệm tới cùng!... Ta thành đạo!…

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 42

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Trong Phước-Báu Đại-Thừa, Phật dạy: “Phát Bề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyến tấn hành giả”.

Hôm nay xin thưa về “Đọc tụng đại-thừa”. Đọc tụng đại thừa, nói rõ hơn là đọc tụng kinh điển đại-thừa, đây là pháp tu phước của chư vị Bồ-Tát. Như chúng ta ở đây, hằng ngày tụng kinh “Phật thuyết A-Di-Đà” là chúng ta thực hiện cái điểm “Đọc tụng đại-thừa” trong kinh Quán-Vô-Lượng-Thọ Phật dạy.

Đọc tụng nên cố gắng chuyên nhất mới hay. Hòa Thượng Tịnh-Không nói, khi chúng ta tu, kinh nào một kinh thôi, trì tụng cho đến suốt đời. Một kinh mà mình hiểu thấu thì tất cả các kinh đều có thể hiểu thấu!...

Không nên hiểu câu “Đọc tụng đại-thừa” là tất cả những kinh điển đại-thừa đều phải đọc tụng hết. Tại vì đọc hết tất cả thì sau cùng mình hiểu không thấu, mình không thâm nhập được kinh tạng. Vì thành thật mà nói, theo như Hòa Thượng Tịnh-Không giảng rằng, Phật không có định thuyết để nói. Ngài chỉ ứng cơ mà nói, tùy bệnh cho thuốc mà thôi. Chúng ta học Phật thì phải tuyển trạch một cách kỹ càng là kinh nào Phật dạy cho chúng ta? Kinh nào Phật cho thuốc cho những người bệnh như chúng ta thì chúng ta cứ dùng món đó để uống, để trì tụng thì sẽ thành công.

Hòa Thượng Tịnh Không nói: “Nhất kinh thông nhất thiết kinh thông”. Một kinh mà thông suốt, thì tất cả các kinh đều thông. Thật ra, vì ứng cơ mà nói nên có chỗ khác. Chỗ khác đó chính là do căn cơ, nhưng sau cùng mối đạo cũng đi về một chỗ. Cho nên một kinh mà mình thông suốt rồi, thì tất cả các kinh khác mở ra cũng giống hệt như vậy, chỉ có từ ngữ khác mà thôi, chứ ý nghĩa thì không khác.

Cách tu của người niệm Phật rất cần chuyên nhất, rất kỵ đa tạp. “Nhất tu nhất thiết tu”. Tu một pháp thì mình dễ thành công, tu nhiều pháp thì thường thường tâm không được định! Một điểm mà tu thì tâm mình định vào điểm đó. Định thì sẽ phát huệ. Phát được huệ thì khi cầm một kinh Phật lên tự nhiên chúng ta sẽ hiểu thấu. “Một là tất cả, tất cả là một”. Tất cả cũng chỉ có một thôi chứ không có nhiều. Chúng ta cứ việc một đường như vậy đi thẳng, khi thành tựu rồi thì tự nhiên có tất cả.

Hôm trước đi qua bên Âu Châu, chư vị ở đó đề nghị Diệu Âm nói về “Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên” trong kinh A-Di-Đà. Khi được đề nghị như vậy, Diệu Âm lấy thẳng cái đề tài này mà nói chuyện trong suốt gần một tháng bên Âu Châu. Sáng và tối thì tọa đàm ngắn. Chiều thì tọa đàm luôn ba tiếng đồng hồ cũng có một đề tài này: “Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên”. Ấy thế mà hình như nói từ bên đó, nói qua tới Úc mà cái đề tài này vẫn chưa xong, không biết chừng nào mới viên mãn được?...

Khi mình hiểu được thấu suốt “Một” thì mình sẽ thấy được “Tất cả”. Lạ lắm!... Chỉ cần từ một điểm thôi mình phăng cho tới cùng... Nhất định sẽ châu biến pháp giới.

Có nhiều người hỏi:

- Mình tụng có một bộ kinh như vậy rồi những bộ kinh khác liệng đi sao?...

Diệu Âm thưa rằng:

- Không! Không có liệng!… Những bộ kinh khác người khác có cảm ứng, để người khác tụng. Ta đi về Tây-Phương thì kinh A-Di-Đà là hợp nhất, còn không thì kinh Vô-Lượng-Thọ. Kinh nào một kinh thôi, đi tới cùng!...

Có nhiều người nói:

- Mình tụng một bộ kinh thôi, chẳng lẽ nếu người nào cũng tụng một bộ kinh đó, như vậy là tất cả tam tạng kinh điển của Phật bị mất rồi sao?...

Diệu Âm nói thật:

- Mình không có lo cái chuyện đó. Bây giờ mình có bắt buộc tất cả mọi người tụng một bộ kinh, mình nói tới một trăm năm đi nữa cũng không nhiều người làm như vậy đâu. Chỉ có những người nào thật sự có duyên mới tụng được…

Cho nên Nhân-Duyêncủa mỗi người mỗi khác. Chỉ có cái nhân-duyên của người muốn vãng sanh về Tây-Phương thì người ta mới đi đường về Tây-Phương, còn những người không muốn đi về Tây-Phương thì không có duyên đó, bây giờ chúng ta có năn nỉ họ cũng không bao giờ chịu đi đâu. Cho nên vạn sự trong vũ trụ pháp giới này đã có sự an bài rồi, mình đừng có lo sợ!...

Có nhiều người nói:

- Kinh Phật mình phải gìn giữ, mình phải đọc tụng cho hết. Nếu không đọc tụng như vậy thì kinh Phật mất dần đi sao?...

Diệu Âm cũng nói thẳng rằng:

- Mình cũng khỏi lo cái chuyện này luôn. Tại vì bây giờ mình muốn giữ kinh Phật, giữ cũng không được. Mình muốn tụng cho hết cũng tụng không được. Nhưng Phật nói mình chỉ tụng một bộ kinh và đi một đường đi về Tây-Phương. Đi được về Tây-Phương rồi thì tự nhiên mình giữ gìn được kinh Phật.

Tại vì chư vị nên nhớ là trước khi Phật nhập diệt. Phật gởi tất cả các pháp của Phật lại cho Địa Tạng Bồ-Tát gìn giữ rồi. Địa chính là Tâm-Địa, Tạng là Kho-Tàng. Khi mình về Tây-Phương rồi thì Chơn-Tâm Tự-Tánh của mình hiển lộ. Trong Chơn-Tâm đã có kinh rồi, đó gọi là Địa-Tạng vậy. Vậy thì, chúng ta cũng khỏi cần phải lo cái chỗ đó nữa.

Có nhiều người thắc mắc nói rằng:

- Nếu ta đi một đường về Tây-Phương, thì mình bỏ rơi những người không muốn về Tây-Phương sao? Như vậy ta không có tâm từ bi!

Diệu Âm cũng nói thẳng:

- Điều quan trọng là làm sao cứu cho được một người thoát vòng sanh tử, làm sao cứu cho được một người vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, để cho chính người đó không còn tiếp tục trong cảnh sanh-sanh, tử-tử, đọa lạc trong vô lượng kiếp. Đây mới là điều quan trọng!

Chứ còn chúng ta lo chuyện gieo duyên. Mình không biết rằng, chính những người chủ trương gieo duyên này tương lai đời tới của họ sẽ ở đâu? Được hưởng gì? Hay là gieo duyên một vài chục năm tưởng vậy là tốt, nhưng coi chừng mình đem cái duyên này mà kéo thêm một số người khác quên mất đường về Tây-Phương, làm cho họ tiếp tục chìm đắm trong cảnh sanh tử luân hồi!... Đây thật sự là điều oan uổng vô cùng!...

Có nhiều người lại nói:

- Nhưng mà tội căn của chúng sanh nặng quá làm sao đi về Tây-Phương?...

Thì Diệu Âm cũng xin thưa:

- Thiện-căn, phước-đức hay là nghiệp chướng gì của chúng sanh cứ để chúng sanh tự giải quyết đi. Riêng cá nhân mình, mình có quyết lòng đi về Tây-Phương hay không?... Đối với chúng sanh, mình có chịu chỉ con đường vãng sanh về Tây-Phương cho họ hay không?... Cái điểm này mới là quan trọng!...

Mình chỉ cặn kẽ, chỉ rõ ràng rồi sau đó tùy theo phước phần của họ. Người có phước họ chộp lấy cái duyên này, gọi là “Nhân-Duyên” để đi về Tây-Phương. Người không có phước thì tự họ lo tu phước, lo tu bồi thiện-căn. Chứ mình không thể nói rằng, vì họ không có thiện-căn, họ không có phước-đức, nên không giảng con đường đi về Tây-Phương làm chi. Giả sử như người ta đã có thiện-căn, phước-đức đầy đủ trong đó, nhưng mình không chịu dẫn người ta đi về Tây-Phương. Mình lý luận lệch đi làm cho người ta quên mất con đường về Tây-Phương, thì trách nhiệm này mình phải chịu, chứ không thể đổ thừa cho thiện-căn, phước-đức, nhân-duyên của họ thiếu được.

Chính vì vậy mà Diệu Âm thường mở một lời nào là nói thẳng tới Tây-Phương Cực-Lạc… Nói rõ ràng minh bạch!... Chỉ dẫn rõ ràng!... Kinh Phật nói rõ ràng, đức Thế-Tôn nói rõ ràng, A-Di-Đà Phật phát thệ rõ ràng, đều nhằm cứu độ tất cả chúng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Nhiệm vụ người hướng dẫn là phải hướng dẫn cho người ta đi thẳng tới Tây-Phương Cực-Lạc. Hãy chỉ con đường đó cho họ đi. Nếu anh quyết lòng đi thì anh được hưởng, anh không quyết lòng đi thì đó là lỗi của cá nhân anh, còn người hướng dẫn đã làm xong nhiệm vụ. Chứ người hướng dẫn không thể nào nói rằng: “Anh không được quyền đi về Tây-Phương, tại vì anh không có thiện-căn, phước-đức, nhân-duyên”...

Ta chưa có thần thông đạo nhãn mà có khả năng thấy suốt được thiện-căn, phước-đức trong vô lượng kiếp của một chúng sanh sao?... Ấy thế tại sao không chịu giới thiệu cho người ta đường vãng sanh về Tây-Phương?

Chính vì vậy mà những lời giảng của Hòa Thượng Tịnh-Không rất là hay. Ngài nói, hướng dẫn là phải hướng dẫn cho tới đích. Đó là nhiệm vụ của người hướng dẫn, còn đi hay không là của chúng sanh. Ta hướng dẫn không đúng đường, ta hướng dẫn không trọn vẹn, ta hướng dẫn lệch hướng... thì ta phải chịu trách nhiệm nhân quả! Trách nhiệm này là đời sau ta không có cách nào có thể vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc được, mà còn chịu trách nhiệm luôn cho những người nghe theo ta không đi về Tây-Phương Cực-Lạc! Đoạn đi huệ mệnh của mình thì mình tự chịu. Đoạn đi cái huệ mệnh của chúng sanh, mình mang tội rất nặng!

Xin thưa với chư vị, chúng ta cũng phải nhớ rằng, tất cả chúng sanh đều ở trong ánh hào quang của A-Di-Đà Phật tiếp độ vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

- Chỉ có Tin cho vững!...

- Chỉ có Nguyện cho tha thiết!...

- Và chỉ có Trì giữ câu A-Di-Đà Phật!...

A-Di-Đà Phật phát thệ người nào làm được như vậy, trước giờ phút lâm chung niệm danh hiệu Ngài mười niệm để cầu vãng sanh Ngài sẽ tiếp đón về Tây-Phương Cực-Lạc. Nếu Ngài không làm được công chuyện này Ngài thệ không thành Phật, không giữ ngôi Chánh-Giác.

Chúng ta lấy thẳng cơ hội này để một đời này về Tây-Phương thành đạo Vô-Thượng…

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 43

Nam Mô A-Di Đà Phật.

Trong mấy ngày hôm nay cậu Tư kể một câu chuyện rất là đáng nhớ!... Cậu kể rằng có một người con khi nghe người mẹ chết, vì một sự tự ái nào đó mà không về thăm! Đây thật sự là một điều đáng chê trách! Đúng ra là phận con cái thì phải tìm cách chăm sóc cha mẹ, nhất là tuổi già. Có như vậy mới trả được phần nào chữ hiếu của người làm con chứ!...

Diệu Âm này khởi đầu học Phật bằng câu A-Di-Đà Phật. Bắt đầu đi khuyên người niệm Phật bằng lời Phật dạy. Câu thứ nhất trong tịnh-nghiệp tam-phước là “Hiếu dưỡng phụ mẫu”, câu cuối cùng là “Khuyến tấn hành giả” và một lời khai thị của ngài Ấn-Quang là “Khi ta biết niệm Phật vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc thì nỡ nào lại để cho cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc tiếp tục chìm đắm trong bể khổ sông mê. Khuyên người niệm Phật cầu về Tây-Phương là giúp cho một phàm phu thành bậc Chánh-Giác, công đức này vô lượng vô biên. Nếu đem công đức đó hồi hướng về Tây-Phương thì đạo nghiệp tự nhiên thành. Cuộc đời của Diệu Âm gói ghém trong những lời này.

Trong tịnh-nghiệp tam-phước, phước cuối cùng Phật dạy là “Khuyến tấn hành giả”. Khuyến tấn người niệm Phật. Khuyên người niệm Phật chính là đáp ứng lời dạy này của đức Thế-Tôn. Khuyên người niệm Phật, thì gần gũi nhất là khuyên cha mẹ, anh em, thân bằng của mình niệm Phật, nhất là bậc cha mẹ. Đời này mình chỉ có một người mẹ, chỉ có một người cha mà không khuyên, không nhắc, không tìm cách trả hiếu, thì khi người mẹ của mình đã ra đi rồi, còn cơ hội nào nữa để trả hiếu?...

Có nhiều người tu hành, nhưng không tìm cách cứu độ người cha già đang chờ từng ngày ra đi, thì đường tu hành làm sao gọi là viên mãn? Trong khi đó, thành thật mà nói, pháp hộ niệm là một cơ hội rất hy hữu và là một phương pháp rất xác thật, cụ thể để giúp cho một người con hoàn thành đạo hiếu.

Phương pháp hộ niệm đơn giản, cụ thể, chính xác, mà lại dễ thực hiện. Tất cả mọi người đều có thể thực hiện được hết, và rất hợp cho một người con khuyên cha mẹ niệm Phật. Rồi đến khi cha mẹ của mình ra đi, mình phải ngồi bên người mẹ của mình, ngồi bên người cha của mình nhắc nhở niệm Phật cầu về Tây-Phương. Thêm nữa, mình còn phải đi cầu khẩn những người biết hộ niệm, mời ban hộ niệm đến để niệm Phật tiễn đưa người mẹ của mình vãng sanh… Chỉ có vậy thôi mà mình trả tròn đạo hiếu. Tại sao không làm?

Trong mấy ngày hôm nay Diệu Âm có coi qua những đoạn phim của cụ Cam Muội… Mình mới thấy được một gia đình đại hiếu, con cái nhắc nhở từng chút từng chút. Bà Cụ có cái tánh bướng, ưa nóng giận... nhưng tất cả con cái đều quyết lòng chiều chuộng, không bao giờ dám để người mẹ khởi lên một cái tâm niệm giận dữ… Thật sự là một gia đình đại hiếu.

Khi nhắc đến chuyện khuyên người niệm Phật, nhắc đến chuyện hộ niệm, có nhiều người nghĩ như vầy: “Làm sao mà ta có năng lực hộ niệm cho một người vãng sanh?”. Vì nghĩ vậy, nên không có dám đứng ra hộ niệm. Ngay cả người thân của mình cũng không dám ngồi bên cạnh niệm câu A-Di-Đà Phật!...

Một chuyện lạ lùng là:

- Người ta không dám ngồi đó để niệm câu A-Di-Đà Phật, mà lại mạnh dạn ngồi đó để khóc!… Người ta mạnh dạn ngồi trước người mẹ của mình réo lên: Mẹ ơi!... Mẹ đừng chết! Mẹ chết, thì mẹ bỏ con sao?... Hì hì!...

- Người ta không dám mạnh dạn niệm Phật trước người mẹ của mình, giúp cho người mẹ nghe tiếng niệm Phật mà niệm theo, để được Phật lực gia trì vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc. Mà người ta lại nói… Mẹ ơi! Tiền bạc mẹ để ở đâu?... Hì hì!… Mẹ chia gia tài cho con chưa?... Hì hì!...

Một lời nói!... Tất cả đều chỉ là lời nói!... Tại sao mình không cất lời niệm câu A-Di Đà Phật? Rõ ràng A-Di-Đà Phật đâu có nói rằng chúng sanh phải có một cái năng lực nào đó mới niệm được câu A-Di-Đà Phật trước người chết, thì người chết mới được vãng sanh?... Rõ ràng trong pháp hộ niệm, Phật không đòi hỏi một năng lực nào hết. Phật không đòi hỏi một khả năng nào hết. Ấy thế mà có nhiều người cứ nói: “Ta không có khả năng, ta không có năng lực thì làm sao hộ niệm cho một người vãng sanh?”...

Cũng có nhiều người nuôi ý chí cũng kiên cường lắm, nói rằng:

- Tôi sẽ quyết tu hành cho đến khi nào có năng lực thì tôi sẽ đi hộ niệm!...

Nghe nói vậy mình biết được một người có chí khí cao, quý hóa vô cùng! Nhưng xin hỏi:

- Bác chừng nào mới có năng lực vậy?...

- Anh chừng nào mới có năng lực vậy?...

- Chị chừng nào mới thấy mình là có năng lực vậy?...

Biết chừng đâu khi nghĩ rằng mình có năng lực, thì một là mình đã chết mất rồi!... Hai là cha mẹ mình đã chết rồi!... Vậy thì còn cơ hội nào nữa mà cứu cha, cứu mẹ? Hoặc là khi nghĩ mình có năng lực rồi, thì coi chừng... như Hòa Thượng Tịnh-Không nói, “Khi mà chư vị thấy mình đã chứng đắc được một cái gì, thì lúc đó đã bị tẩu hỏa nhập ma rồi!”...

Chính vì thế, chúng ta phải hiểu cho cặn kẽ, hiểu tường tận pháp hộ niệm. Pháp hộ niệm không đòi hỏi một năng lực đặc biệt nào hết. Pháp hộ niệm cho người vãng sanh chỉ đòi hỏi cái lòng “Chí-Thành, Chí-Kính”. Tại vì tất cả những người đi hộ niệm thường thường phải chắp tay lại khẩn cầu A-Di-Đà Phật, Quán-Âm, Thế-Chí, Thanh-Tịnh Đại-Hải-Chúng đại từ đại bi phóng quang tiếp độ. Hoàn toàn là lấy lòng chân thành để mà cầu nguyện sự tiếp độ.

Như vậy, người nào có lòng chân thành là người có khả năng đi hộ niệm.

Có nhiều người nói:

- Mình còn ăn mặn thì đi hộ niệm không được!...

Hòa Thượng Tịnh-Không đã xác định rõ ràng rằng, không sao đâu!... Quý vị hãy chân thành đi, thành tâm đi. Nếu thành tâm một chút nữa thì ngày đi hộ niệm quý vị nên ăn chay, ăn chay ngày đó thôi. Ngài nói đừng nên ăn ngũ tân thì tốt hơn nữa, tại vì sợ rằng ăn những thứ đó, mùi hôi từ hơi thở của mình bay ra khó chịu lắm, làm cho chư vị Thiên-Long Hộ-Pháp chịu không được! Ngài đâu có đòi hỏi mình phải ăn chay?

Phương pháp hộ niệm cần người hộ niệm phải Chân-Thành, Khiêm Nhường, Kính-Cẩn.Chỉ vậy mà thôi!

Ngồi trước bệnh nhân mình niệm Phật với lòng chân thành, thì tự nhiên có cảm ứng, làm cho người bệnh nghe theo, niệm theo. Rồi lâu lâu mình nhắc cho họ phát nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Một người bệnh nào làm được chuyện này thì người đó có thể được vãng sanh…

Quý vị nghĩ thử có đúng không?... Một vị ở bên Tây Úc suốt một cuộc đời đi nhà thờ Thiên Chúa giáo. Quý vị có nghĩ rằng các vị đi nhà thờ Thiên-Chúa giáo họ ăn chay không?... Rõ rệt, không có ăn chay!... Ấy thế mà cuối đời bị bệnh ung thư, gặp ban hộ niệm người ta khuyên giải, vị đó liền phát lòng tin tưởng, quyết lòng niệm Phật. Bắt đầu từ khi quyết lòng niệm Phật thì cũng có hạ quyết tâm: “Thôi bây giờ xin tập theo quý vị, tôi cũng ăn chay…”. Ăn chay trong lúc bệnh sắp chết này, ăn được bao lâu?... Thật ra là một vài tô cháo đậu là cùng chứ mấy! Có là bao? Mà lúc đó có muốn ăn mặn, cũng ăn không nổi nữa! Ấy thế mà vì quyết lòng quyết dạ niệm Phật cầu sanh Tây-Phương với một cái tâm lực kiên cường, dũng mãnh, không sợ sệt, không lui bước... Chỉ thế mà thôi đã hợp với đại nguyện của A-Di-Đà Phật mà được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc.

Trong trường hợp này, nếu chúng ta sơ ý nói rằng, “Chị hồi giờ không niệm Phật!... Chị hồi giờ không biết tu!... Chị hồi giờ không có ăn chay!... Chị hồi giờ không đi Chùa!… Như vậy thì chị không đủ khả năng vãng sanh về Tây-Phương. Thôi tốt nhất chị hãy niệm Phật để mà kiếm chút phước nào đó, rồi đời sau tu tiếp!”…

Nếu nói như vậy:

- Thứ nhất là đoạn mất con đường vãng sanh của một chúng sanh sắp sửa thành Phật rồi!.. Quý vị đã ứng dụng câu “Khuyến tấn hành giả” sai rồi!...

- Thứ hai mình chưa biết người đó trong vô lượng kiếp đã tu được bao nhiêu phước-thiện?... Mình chưa biết thiện-căn họ như thế nào? Chưa biết phước-báu đó như thế nào?... Chỉ nhìn cái hình tướng bề ngoài trong một đời này mà dám phán đoán rằng:Chị không đủ khả năng đi về Tây-Phương, chị không đủ khả năng thành Phật, chị không có khả năng được Phật tiếp dẫn!”.

Hoàn toàn nói sai kinh Phật.

Cho nên muốn “Khuyến tấn hành giả”, xin chư vị phải nhớ là Phật dạy sao mình phải nói y hệt như vậy. Nếu mình lấy cái ý nghĩ riêng tư của mình ra mà nói, thì coi chừng… Một là chính mình cũng nghĩ mình chưa đủ thiện-căn, phước-đức, nên đời này tôi cũng tu để kiếm chút phước… Hì hì… Tức là tu theo phước báu nhân-Thiên. Rồi những người nghe mình nói họ cũng nghĩ theo mình, là cùng nhau tu hành niệm Phật để tìm kiếm chút phước chờ đời sau tu tiếp...

Ngài Ấn-Quang nói, niệm Phật để cầu phước-báu nhân-thiên, chẳng khác gì một người đem cái kho tàng quý báu vô lượng vô biên để đổi lấy một tán kẹo!... Hì hì… Lần trước mình có nói rồi. “Vong thất Bồ-Đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp”. Quên mất con đường vãng sanh thành đạo, lo tu thiện lành để tìm chút phước, thì Phật gọi đây là “Ma nghiệp".

Cho nên chúng ta phải hiểu rõ rệt ma nghiệp chính là gì?... Ma nghiệp chính là còn kẹt trong lục đạo luân hồi!... Nhất định đời sau chúng ta phải chịu khổ!...

Đáng tiếc thay! Một vị Phật mà đi làm những chuyện sanh tử luân hồi, để mãi mãi không bao giờ có cơ hội giải thoát!...

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 44

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Cuộc tọa đàm của chúng ta cũng sắp sửa xong, mấy đêm phiêu phỏng còn lại Diệu Âm xin cố gắng trả lời một số câu hỏi liên quan đến vấn đề hộ niệm.

Câu hỏi hôm nay là “Đi hộ niệm có cần cúng thí thực hay không?...

Xin thưa rằng, trong tài liệu của chư Tổ để lại nói về phương pháp hộ niệm thì không có nhắc đến vấn đề cúng thí thực. Vậy khi đi hộ niệm chúng ta không cần phải thiết đàn cúng thí thực. Có nhiều ban hộ niệm đã làm chuyện này. Nếu nói rằng sai pháp thì không dám nói, nhưng mà đúng pháp thì cũng không dám cho là đúng pháp!...

Thực tế, nguyên thủy của pháp hộ niệm rất là đơn giản chứ không có rườm rà. Chúng ta hãy cố gắng khuyên người bệnh phát tâm tin tưởng, buông xả tất cả vạn duyên, niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ. Nếu ba điểm Tín-Hạnh-Nguyện mà ứng hiện rõ rệt, đầy đủ trước những giây phút xả bỏ báo thân, thì họ được cảm ứng với đại nguyện của đức A-Di-Đà Phật và họ được vãng sanh. Những điều này trong kinh Phật có nói. “Mười niệm tất sanh”.

Cho nên khi đi hộ niệm chúng ta không nên bày thêm những nghi tiết rườm rà, không tốt! Nhiều nghi tiết quá, thì có chỗ người ta ứng dụng được, có những chỗ vì quá eo hẹp, hoặc hoàn cảnh khó khăn mà người ta không ứng dụng được. Thành ra nếu chúng ta đưa chuyện cúng thí thực vào, lâu dần nó sẽ thành cái lệ, gây thêm khó khăn. Điều này cũng không hay lắm!

Một điểm nữa, nếu những ban hộ niệm thường xuyên đi hộ niệm, nhất là ở Việt Nam, rất nhiều ca hộ niệm, có nhiều khi từ ngày này qua ngày khác đi hộ niệm liên tục. Nếu hộ niệm liên tục như vậy, mà ngày nào chúng ta cũng bày đàn cúng thí thực, cúng cô hồn... thì vô tình chư vị tạo cái duyên để cho họ theo mình, càng ngày sẽ càng nhiều thêm!… Hì hì!… Đến một lúc nào đó mình lỡ sơ ý cúng không được trang nghiêm, cúng không được tốt... thì cũng có thể họ làm phiền hà mình!...

Trong pháp hộ niệm có cách gọi là điều giải oan gia trái chủ, người hộ niệm khuyên nhủ chư vị trong pháp giới hữu duyên có mặt tại đó nên buông xả oán thù, cố gắng tinh tấn tu hành niệm Phật để trong cơ duyên này được A-Di-Đà Phật đón về Tây-Phương. Làm việc này hay hơn nhiều. Còn chuyện cúng thí thực hãy để dành tới các tự-viện, các đạo tràng... Nơi đó luôn luôn có chúng thường-trụ người ta cúng. Ở các đạo tràng luôn luôn có kinh, có pháp, giúp cho người ta “Văn kinh thính pháp” thì hay hơn là ban hộ niệm làm chuyện này.

Mình nên nhớ là pháp tu niệm Phật càng đơn giản chừng nào thì càng hay chừng đó!... Càng đơn giản chừng nào mới chứng tỏ rằng câu A-Di-Đà Phật vi diệu bất khả tư nghì!...

Ví dụ như có một người nói rằng, đi hộ niệm cần tụng kinh Địa-Tạng, cần tụng Tam-Thời Hệ-Niệm, cần tụng Bát-Nhã Tâm-Kinh, v.v... Thì Hòa Thượng Tịnh-Không có nói rõ ràng, không cần thiết! Chỉ cần làm sao niệm được một câu A-Di-Đà Phật rõ ràng, rành mạch, cho người bệnh nhiếp tâm niệm theo là được rồi. Trừ những trường hợp mà người bệnh đó yêu cầu mình… Ví dụ như trong đời của họ thường tụng kinh Địa-Tạng quen rồi, hoặc là người ta có cảm ứng gì đó tới kinh Địa-Tạng, bây giờ họ yêu cầu mình tụng. Để cho người bệnh được thỏa mãn, vui vẻ, thì mình có thể tụng kinh Địa-Tạng, tụng Tâm-Kinh hay là tụng kinh mà họ yêu cầu cũng được, không sao hết. Nhưng mà Hòa Thượng có nói là nên tụng trong lúc người ta còn tỉnh táo, còn vui vẻ, còn rõ ràng và tụng một biến, hai biến là đủ rồi, không nên tụng thêm nữa. Trong những giờ phút trước hay sau khi lâm chung, hoặc là khi bệnh đã quá nặng thì không nên tụng những kinh đó nữa, để cho người bệnh nhiếp tâm vào câu A-Di-Đà Phật.

Nói như vậy có nghĩa là những bộ kinh khác, những kinh khác không cần thiết trong pháp hộ niệm. Ngay như chú vãng sanh, tức là “Nam Mô A-Di-Đa Bà-Dạ...”, cũng không phải là cần thiết để ứng dụng khi hộ niệm. Chúng ta có thể dùng, ví dụ như sau khi hộ niệm xong rồi, thì trước khi ra về chúng ta có thể tụng cho họ một số biến chú vãng sanh cũng được nếu mình muốn, tại lúc đó người ta đã ra đi rồi, Còn hầu hết không cần tới chuyện này.

Ví dụ khác, như khi mình đắp mền Quang Minh, có nhiều người nói khi cầm cái mền Quang Minh thì đọc: “Nam Mô A-Di-Đa Bà-Dạ Đa-Tha Dà-Đa-Dạ Đa-Địa Dạ Tha…” rồi từ từ đắp lên. Làm vậy cũng được, không sao! Nhưng nếu đã nhất hướng chuyên niệm, thì chúng ta cầm cái mền Quang Minh nhẹ nhàng đưa lên đắp lên tới cổ, trong lúc đó cứ niệm “A-Di-Đà Phật, A-Di-Đà Phật...” cũng hết sức là viên mãn.

Lời Tổ đã dạy vậy, chúng ta nên cố gắng “Y giáo phụng hành” thì mới là điều hay.

Chứ nếu chúng ta tự ý thêm vào một chút, rồi người khác cũng thêm vào một chút... đến một lúc nào đó thì cái pháp hộ niệm sẽ rườm rà, không còn chính xác nữa! Mà rườm rà thì thường thường cái tâm bị chia ra, phân ra, làm cho sau cùng cái xác suất hộ niệm được vãng sanh bị giảm xuống.

Ví dụ như cách đây cũng bảy-tám năm rồi, cuốn sách “Quy tắc trợ niệm và khai thị lúc lâm chung” ở bên Úc Châu Tịnh-Tông in ra, chính tôi cầm cuốn sách đó đem về phổ biến ở Việt Nam. Rồi một năm sau khi trở lại, thì tình cờ tôi cầm cuốn sách lên, với tựa đề là quy tắc trợ niệm và khai thị lúc vãng sanh gì đó… ở dưới đề là Tịnh-Tông Học-Hội, nhưng mà tôi thấy quyển dày lắm dày gấp ba lần, thì coi bên trong, phần trước là nguyên bản của cuốn sách đó, còn hai phần sau thì chú Đại-Bi thấy cũng để vào, rồi chú Vãng Sanh cũng có để vào, Bát-Nhã Tâm-Kinh cũng có để vào, rồi Từ-Bi Thủy-Sám cũng để vào, rất nhiều... làm cho cái quy tắc trợ niệm nó dày lên gấp ba lần.

Thì đây là tại vì hồi giờ họ tu tập nhiều thứ quá quen rồi, nên khi tu chuyên nhất lại thì thấy hình như uổng, tiếc!... Nghĩ rằng, kinh này mình tụng, còn kinh kia mình bỏ đi sao? Chú này phá nghiệp hay quá mà mình bỏ đâu có được!... Cho nên họ đưa hết vào.

Thấy vậy, tôi có nói với chư vị đó rằng, khi mình muốn đưa nhiều thứ vào như vậy cũng được, quý vị có thể ấn tống, nhưng không được để danh hiệu là Tịnh-Tông Học-Hội ấn tống nữa. Hãy để là một ngôi Tự-Viện của mình, hoặc là một ban hộ niệm nào đó của chính mình ấn tống ra thì tốt hơn. Chứ còn bên Tịnh-Tông Học-Hội người ta không có in cái phần sau này. Nguyên thủy quyển đó dày khoảng chừng mười mấy trang, bây giờ thành ra tới năm-sáu chục trang. Nghĩa là nó bị xen tạp rồi, không tốt!

Để củng cố thêm niềm tin, Diệu Âm có đem đến đây lời khai thị của ngài Tịnh-Không, xin đọc ra để mình cùng nghe Ngài nói về pháp tu niệm Phật như thế nào?... Ngài nói như thế này:

- Khóa tụng càng đơn giản càng tốt.

Ngài nói về khóa tu nhưng cũng có nói liên quan về cái vấn đề của chúng ta...

- Càng đơn giản càng tốt! Càng đơn giản mới là pháp môn chân thật, pháp môn vi diệu! Kinh điển chỉ một bộ là đủ, chỉ một bộ là có thể thành Phật. Càng nhiều bộ chỉ e gây chướng ngại cho việc vãng sanh...

Mình thấy rõ rệt chưa?... Ngay cái vấn đề tu hành của mình cũng vậy, có rất nhiều người nghĩ rằng, kinh của Phật thì phải tụng cho hết. Người ta muốn tụng cho đầy đủ thành ra tâm của họ phải trải dài qua từ đạo lý này sang đạo lý nọ. Nhưng đáng tiếc! Trong đó có một đạo lý mà họ đã quên, đó là:

- Mỗi một bộ kinh Phật nói cho một hạng chúng sanh.

- Mỗi một bộ kinh Ngài nói cho một trường hợp.

- Mỗi một bộ kinh Ngài đối trị với một lớp người có duyên nào đó.

Trong nhiều giảng ký, Hòa Thượng Tịnh-Không thường hay nói, Phật không có định thuyết để giảng, Ngài chỉ tùy bịnh cho thuốc, tùy cơ ứng thuyết mà thôi. Khi đối ứng với hàng phàm phu tội chướng sâu nặng như chúng ta, thì Ngài cũng vì để cứu độ hàng tội chướng sâu nặng này mà thuyết những bộ kinh khác. Những bộ kinh này dành cho người tội chướng sâu nặng chúng ta thành đạo.

Đi hộ niệm là chúng ta ứng dụng ngay những pháp của đức Thế-Tôn nói cho hàng phàm phu tu hành, trì niệm, để một đời này sau khi xả bỏ báo thân đừng có lăn lộn lại trong cõi Ta-bà này nữa, đừng có lăn lộn trong sáu đường sanh tử này nữa!... Cái pháp này chính là niệm câu A-Di-Đà Phật với Tín-Hạnh-Nguyện đầy đủ chứ không có gì khác hơn nữa.

Chính vì vậy, mà ta đem cái Tín-Hạnh-Nguyện niệm Phật để vãng sanh này mà ứng dụng cho người bệnh, là người phàm phu tục tử tội chướng sâu nặng, để cho họ trước giờ phút xả bỏ báo thân làm cho được ba điểm này. Chỉ vậy là họ có thể vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc…

Chắc chắn trong những ngày qua chúng ta đã có nhiều chứng minh rõ ràng rồi. Phía trước kia chúng ta cũng có trưng ra một số người đã vãng sanh rồi. Mà xin thưa thật, ở Việt Nam người ta vẫn tiếp tục thông báo người ra đi thoại tướng bất khả tư nghì. Những hiện tượng vãng sanh này được thành tựu đều do lòng tin tưởng. Vậy thì phải:

- Hướng dẫn cho người ta, khuyến tấn người ta tin cho vững…

- Rồi khuyến tấn người ta, hướng dẫn người ta niệm A-Di-Đà Phật cho chân thành…

- Và khuyến tấn người ta mong cầu đi về Tây-Phương càng sớm càng tốt…

Ba điểm này mà vững vàng thì nhất định họ vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Ngoài ra không có gì phải thêm vào nữa mà làm cho cuộc hộ niệm trở nên rắc rối! Không tốt!…

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 45

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Ngày hôm qua chúng ta nói về cúng thí thực không phải là điều cần thiết phải áp dụng trong lúc đi hộ niệm. Nếu các ban hộ niệm áp dụng phương thức này thì nhiều khi làm thành cái lệ cho những người khác, rồi cứ tưởng rằng hộ niệm bắt buộc phải cúng thí thực cho các vị chúng sanh trong pháp giới. Vô tình làm cho phương pháp hộ niệm thêm phần rắc rối! Chớ thật ra thì pháp hộ niệm rất là đơn giản, không phải rắc rối như vậy đâu!...

Có nhiều người nói:

- Tôi đã lỡ làm như vậy rồi, thì bây giờ làm sao?...

Thật ra cũng không có gì khó khăn cho lắm. Hồi trước mình phát tâm mỗi lần đi hộ niệm thì cúng thí thực. Bây giờ thấy rõ điều này không đúng lắm thì hãy phát tâm lại, mình khấn nguyện lại:

- Mong chư vị trong pháp giới hữu duyên không nên tham luyến cái thế giới này làm chi nữa, mong cho chư vị hãy phát tâm niệm Phật. Ở tại các Tự-Viện, các Chùa,(Mình cho họ biết địa chỉ), chư vị có thể tới đó để thính pháp văn kinh. Ở tại đó hằng ngày người ta luôn luôn có cúng thí thực. Chư vị đến đó hằng ngày có thể thọ thực, đồng thời nghe kinh, nghe pháp, niệm Phật tu hành, cùng nhau vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.

Khi mình khuyên như vậy thì những vị có duyên sẽ tự tìm cách giải quyết, chớ cũng không có gì trở ngại lắm đâu!...

Cũng giống như khi qua bên Âu Châu, Diệu Âm có gặp một Phật tử kia phát cái tâm cứu độ những chúng đẳng vong linh, những vong hồn chưa siêu thoát, những người bị đọa dưới địa ngục... Cô phát tâm mạnh quá, đưa đến hậu quả là mỗi đêm cô ngủ đều gặp những vong linh cứ ứng hiện về, làm cho cô sợ quá, đến nỗi cô tưởng rằng chắc mình phải tiêu tùng cuộc đời rồi!...

Khi biết vậy Diệu Âm mới khuyên cô ta rằng, hồi trước mình không biết, tâm mình thì từ bi, nhưng năng lực thì mình không có! Hồi đó mình tưởng rằng mình có thể cứu độ được họ, nên mới phát tâm như vậy! Bây giờ biết rõ rồi, thì hãy phát lại:

- Chư vị ơi! Hồi trước tôi thương chư vị, tôi muốn cứu chư vị. Nhưng bây giờ tôi mới biết là thật ra tôi cứu không được. Vì nghe lời nguyện của tôi, nên chư vị hiện về để cho tôi cứu nhưng tôi cứu không được, mà còn làm cho tôi sợ quá! Thôi xin chư vị đừng theo tôi nữa. Bây giờ chư vị hãy niệm Phật đi, hãy tự tu hành đi, hãy đến các Chùa để lo tu hành đi, đừng làm cho tôi sợ nữa!... Tôi sẽ đem tất cả công đức của tôi hồi hướng cho chư vị, để cầu cho chư vị niệm Phật sớm vãng sanh...

Cô ta nghe theo và thực hiện như vậy thì hết, chớ không có gì khó khăn!... Trong pháp giới chúng sanh người ta cũng dễ thương lắm, chớ không có đến nỗi gì khó khăn lắm đâu!...

Hôm nay thì mình nói thêm một vấn đề về chuyện hộ niệm nữa mà các ban hộ niệm có thể thường bị vấp phải, đó là chuyện thăm thân thể người ra đi sau tám tiếng, sau mười hai tiếng, sau mười mấy tiếng đồng hồ. Đồng ý là vấn đề thăm nghiệm này cũng cần thiết, để cho mình an lòng biết được người ra đi đó có được viên mãn không?... Hay có bị trở ngại gì không?...

Trước tiên quý vị nên nhớ là chỉ được thăm ít ra là sau tám tiếng đồng hồ, mà thường thường chờ đến mười hai tiếng mới thăm thì an toàn hơn. Có những vị cẩn thận, họ để tới mười sáu tiếng đồng hồ sau mới thăm, rất tốt. Thường khi thăm như vậy cần nên khai thị trước. Đây chẳng khác với hình thức báo cáo trước cho người đó biết. Mình chắp tay cung kính nói:

- Nam Mô A-Di-Đà Phật, bác Trần Văn X ơi! Bây giờ đây Bác đã xả bỏ báo thân mười hai tiếng đồng hồ rồi..., mười sáu tiếng đồng hồ rồi… Khoảng thời gian qua chúng con đã niệm Phật trợ duyên, Bác quyết lòng thì chắc đã được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc rồi. Nếu giờ này mà còn ở đây thì mau mau hãy niệm A-Di-Đà Phật cầu Phật tiếp độ đi về Tây-Phương liền. Bây giờ xin để chúng con sắp sửa thân thể của Bác cho được trang nghiêm. Nếu có trở ngại gì thì chúng con sẽ tiếp tục hộ niệm để cầu hóa gỡ ách nạn cho Bác.

Khai thị xong rồi, mới bắt đầu xếp cái mền quang minh lại, xếp từ trên xuống. Xếp làm hai, xếp làm tư, xếp làm tám, xếp nhỏ nhỏ lại rồi để một bên đàng hoàng. Khi mở mền ra rồi, chưa nên thăm vội, mà nên chờ một chút nữa. Tất cả mọi động tác phải làm nhẹ nhàng, không nên làm quá gấp, quá nhanh mà nhiều khi bị sơ suất...

Mình khai thị, báo trước và làm với động tác chậm để ngừa trường hợp người đó chưa được vãng sanh, hoặc bị vướng cái gì đó... mà thần thức của họ còn lảng vảng đâu đó. Nếu mình làm nhanh quá nhiều khi người ta trở tay không kịp, chuẩn bị không kịp... Vì vậy, thăm thân mà sơ ý đụng chạm tới thân thể mạnh quá, cũng có thể gây ra trở ngại...

Khi thăm, luôn luôn phải nhớ là một người đại diện làm là đủ rồi, hoặc là nhiều lắm thêm một người đại diện trong gia đình hay một người nào đó nữa là đủ rồi. Cần thăm nhẹ nhàng. Thăm từ dưới thăm lên.

Thăm thân để ngừa biết thử có trở ngại gì hay không?... Nếu cái thân xác còn ấm nhiều chỗ là còn trở ngại! Nếu cái thân xác bị cứng tức là có trở ngại... Chính nhờ sự thăm nghiệm này mà mình biết đường vãng sanh của vị này còn trở ngại gì không mà kịp thời trợ niệm thêm…

Còn thường thường một người nếu đã quyết lòng niệm Phật vãng sanh, trước khi ra đi mình đã giảng giải, khai thị, hướng dẫn, nhắc nhở đầy đủ, người đi đã vững vàng rồi, thì hầu hết, xin thưa thật là hầu hết sau tám tiếng đồng hồ thân thể người đi đều được mềm mại, mà tình thật là năm-sáu tiếng cũng mềm rồi. Nghĩa là, thân xác của họ được mềm luôn như vậy, không có một giai đoạn nào bị cứng. Điều này chứng tỏ người đó ra đi an lành. Còn khi thăm mà thân bị cứng, thì bị gặp điều khó khăn! Phát hiện được điều chướng ngại, thì trong giai đoạn này chúng ta vẫn còn có thể khai thị, hướng dẫn, điều giải oan gia, niệm Phật trợ niệm giúp họ thoát nạn.

Khi thăm nên nhớ hết sức cẩn thận, trang nghiêm. Nếu thấy toàn thân lạnh toát là thần thức không bị vướng lại trong thân thể nữa. Nếu thấy thân thể mềm mại, thì đây là điều mừng vui đầu tiên, phải nói là mừng hết lớn rồi đó!... Khi được thân thể mềm mại, toàn thân lạnh toát, dù có tệ gì đi nữa thì vị này cũng vượt qua được ba đường ác hiểm rồi. Mừng lắm rồi đó! Trong thế gian hàng ngàn người ra đi, chưa chắc tìm ra một người mà có được thân thể mềm đâu!

Khi thăm lên đến đỉnh đầu, nếu tại đỉnh đầu còn giữ được hơi ấm hơn những chỗ khác, thì thật sự đây là một thoại tướng tốt vô cùng, có thể tin tưởng rằng, bà cụ này, ông cụ này có rất nhiều hy vọng vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc rồi đó. Bên cạnh đó nếu mình kiểm lại trong quá trình hộ niệm, người bệnh qua cơn đau đớn, lâm chung, rồi vãng sanh... nếu người này giữ đúng ba điểm Tín-Hạnh-Nguyệnvững vàng, con cái hỗ trợ tích cực và tiếng niệm Phật luôn luôn vang vang bên tai, cộng với sự hộ niệm, khai thị cẩn thận... thì xin thưa, mình có thể tin tưởng là người này thật sự đã được A-Di-Đà Phật tiếp độ vãng sanh rồi, chớ không phải thường đâu.

Một điểm sơ suất thường xảy ra trong những lúc hộ niệm, là khi thấy được thân xác người ra đi mềm mại, tươi hồng, thì hàng chục người nhào vào thăm thử. Người này thăm, người kia thăm... Người thăm đầu trên, người thăm đầu dưới... bắt đầu chen nhau lộn xộn lên hết!...

Điều này Thật ra thì cũng không trách được những người đó, tại vì người ta quá vui mừng, nhất là những vị trong gia đình vì mừng quá nên họ vỗ tay, chạy lăng xăng, không kềm được bình tĩnh!...

Người trong gia đình làm vậy, mình không trách được. Nhưng người hộ niệm thì nên cố gắng tự kềm chế. Người hộ niệm thường xuyên thấy được những chuyện này, thì đúng ra trước khi thăm phải dặn dò gia đình đàng hoàng: “Chư vị ơi!... Chúng ta thăm là để ngừa có gì trở ngại thì chúng ta kịp thời khai thị, điều giải hầu tiếp tục hộ niệm cho bà Cụ. Nếu bà Cụ ra đi viên mãn, thì thật là điều mừng vui. Càng mừng vui, xin chư vị càng thành khẩn chắp tay lại niệm Phật, hoặc quỳ xuống lạy Phật, cảm ơn A-Di-Đà Phật, cảm ơn chư vị Thánh Chúng đại từ đại bi đã cứu người thân chúng ta vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Phải trang nghiêm như vậy mới tốt".

Trong khi thăm có quyền quay phim. Nên quay phim để lại, không sao hết.

Nếu chúng ta không nói trước thì thường thường người trong gia đình lúc đó mừng quá, họ không kềm được những động thái mạnh quá. Điều này không tốt lắm!

Có một điểm khá đáng trách về người hộ niệm, là đã nhiều lần biết qua chuyện này, mà vẫn thường cầm cái thân của người chết tập thể dục!... Có người còn cầm tay cầm chân người chết giở lên, giở xuống, liệng lên, liệng xuống... để chứng tỏ cho người ta biết sự mềm mại... Đây là một điều hoàn toàn sai trái! Nếu chư vị trong các ban hộ niệm mà từng bị người ta chỉ trích về chuyện này, thì mình phải nhận lỗi và xin sám hối đi cho rồi, không chối cãi được đâu!.. Hì hì!…

Chư vị nên biết, nếu thật sự vị đó đã vãng sanh rồi, thì đây là nhục thân của một vị Bồ-Tát, chớ không phải thường. Mình nghĩ thử, làm sao với nhục thân của một vị Bồ-Tát mà mình dám đùa giỡn vật lên vật xuống, lắc qua lắc lại như vậy?… Làm như vậy hoàn toàn không tốt!...

Đó là nói người ta vãng sanh rồi, thôi cũng có phần tha thứ đi. Nhưng giả sử như người ta chưa vãng sanh thì làm sao đây?... Tức là mới được cảm ứng tốt thôi, chứ chưa kịp vãng sanh. Tức là từ lúc ra đi, được mình điều giải oan gia trái chủ, mình cầu nguyện Phật gia trì, nhưng mà người ta vẫn còn luyến lưu gì đó, chưa hẳn đã vãng sanh. Chúng ta vẫn phải cẩn thận... Nghĩa là, dù cho quang minh của Phật đã phổ chiếu tới, họ đã được gia trì, được an lạc, không có khủng bố, không có gì sợ hãi, nên họ an lành nên thân thể được mềm mại.

Trong kinh Phật nói: “Người nào được chiếu xúc quang minh của A-Di-Đà Phật thì thân, ý nhu nhuyễn”. “Thân” là chỉ cho thân xác này, “Nhu nhuyễn” là mềm mại. “Ý nhu nhuyễn” là tâm ý của họ không còn sợ hãi, ý không bị khủng bố. Hai điều thân và ý nhu nhuyễn kết hợp lại làm cho khuôn mặt người đó vui lên, má người ta ửng hồng lên, môi người ta giống như có thoa son vậy, có khi lỗ tai tự dài ra... Mà nhiều khi còn cảm ứng đến chim tụ lại, hoa nở, hương thơm bay ra... Đó là sự thật! Cảm ứng này không phải là chuyện dễ!...

Nếu có hương thơm bay ra, thì một là Thánh Chúng ở tại đó, hai là chư Thiên ở tại đó... đúng ra chúng ta nên cùng nhau quỳ xuống phục lạy các Ngài vì các Ngài đang hiện hữu tại đó. Chúng ta nên lễ bái các Ngài, cảm ơn các Ngài, nguyện cầu các Ngài đại từ đại bi tiếp tục cứu độ chúng sanh. Làm được vậy thì hay vô cùng.

Có nhiều người mừng quá mà không kềm chế được hành vi bất cẩn của mình. Chư vị nên nhớ, những trường hợp sơ suất này nhất định phải ngừng đi!... Đừng nên làm như vậy nữa.

Cho nên những ca vãng sanh mà có Diệu Âm, thì Diệu Âm cũng phải tới, cũng giả đò thăm... Nhưng thật ra là để cản bớt cái thăm của người ta đi. Diệu Âm thường nói: “Thôi được rồi chư vị ơi! ...”, và Diệu Âm liền cầm cái mền quang minh lên, từ từ mở ra rồi đắp cái thân lại... để cản bớt sự vô ý của những người hiếu kỳ tiếp tục thăm dò!...

Mong cho chư vị trong ban hộ niệm ở các nơi nghe được những lời này, hãy cố gắng điều chỉnh lại để cho nhân-duyên hộ niệm này càng ngày càng viên mãn, cứu được nhiều người vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc.

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 46

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Kính bạch Sư Cô cùng đại chúng!

Tọa đàm về Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyêncòn vài hôm nữa thì chấm dứt. Trong thời gian ngắn ngủi còn lại này Diệu Âm cố gắng trả lời vài câu hỏi, cũng như đúc kết lại nội dung của cuộc tọa đàm này.

Đầu tiên xin thưa rằng: Pháp hộ niệm rất là đơn giản, rất là dễ dàng. Nhưng vì có nhiều người thấy quá dễ dàng nên sơ ý không nghiên cứu kỹ, thành ra khi đối diện với sự thật thì thường hay quên, lúng túng, hoặc ứng dụng sai...

Có nhiều người đến hôm nay vẫn còn lầm lẫn: Hộ niệm là chuyện hậu sự, cầu siêu, vấn an, hộ táng... Có nhiều người áp dụng lại thêm những nguyên tắc này, nguyên tắc nọ... làm cho những cuộc hộ niệm thêm phần rắc rối!

Chính vì vậy, mình nói chung là hộ niệm, chứ thật ra có nhiều cách đã áp dụng lệch đi. Chính vì muốn cho cái duyên hộ niệm được lâu dài hơn, nên chúng ta hãy cố gắng học tập cẩn thận, đến khi nắm vững được phương pháp hộ niệm rồi thì chư vị nên loan truyền ra, hướng dẫn lại những người khác hộ niệm cho được chính xác. Có như vậy thì hy vọng sẽ có nhiều người được vãng sanh hơn.

Cách đây cỡ chừng mấy tuần, ở đây có nhận được một cuộc điện thoại của một vị từ bên Canada gọi qua. Sau khi nghe được đĩa MP3 “Hộ Niệm là một Pháp Tu”, cô ta rất mừng, nhưng bên cạnh nỗi mừng đó, cô nói mà rơi nước mắt!... Từ lâu nay cô cũng đi hộ niệm cho người ta, nhưng khi nghe được đĩa MP3 tọa đàm này thì cô mới trực thấy ra là mình đã sai! Và điều đáng tiếc hơn nữa, cô nói, nếu mà nghe được trước hai tháng thì cô có thể cứu được một người thân của cô rồi...

Chính vì thế, khi đi ra ngoài gặp một người hộ niệm mà lỡ người ta có làm sai một điều gì đó, chúng ta cũng nên thông cảm rồi tìm cách hướng dẫn họ, vì họ là những người tốt, có nhiệt tâm. Chớ đừng thấy vậy mà công kích, hoặc đánh giá họ quá khắt khe. Xin chú trọng về dụng “Tâm”, nhẹ phần về dụng “Sự”!...

Thật sự đến bây giờ ban hộ niệm có ở khắp nơi, nhiều lắm. Có nhiều ban hộ niệm mình hoàn toàn chưa được gặp một lần nào, ở đó người ta nghe thoang thoáng qua vấn đề hộ niệm hay quá, nên phát tâm hộ niệm, áp dụng đủ cách hết!... Tâm hạnh thì tốt, nhưng thật ra ứng dụng hộ niệm không phải là lúc nào cũng chính xác! Khi gặp trường hợp như vậy, chúng ta nên khuyến tấn, cố gắng tìm tài liệu giúp cho họ nghiên cứu, và nếu có duyên chúng ta nên trực tiếp hướng dẫn họ làm cho đúng, hầu tiếp tay cứu người vãng sanh. Đây mới là điều tốt...

Có nhiều người vì chưa hiểu qua về pháp hộ niệm, rồi gặp phải những người hộ niệm không được chính xác, họ căn cứ vào đó mà mạnh dạn bài bác, cho rằng phương pháp hộ niệm là sai! Sự phán đoán này thật là bất cẩn, quá chấp trước! Thật ra thì đây chẳng qua là những trường hợp sơ suất có tính cá nhân, chứ pháp hộ niệm của chư Tổ trong Tịnh-Độ Tông lưu lại, hoàn toàn đúng theo kinh pháp, không sai đâu.

Xin thưa rằng, thực tế cũng có người hộ niệm, nhưng vì chưa vững nên áp dụng có điều sơ suất!... Đây cũng là việc thường tình của người thế gian! Ví dụ cụ thể, như ngay chính ở tại đây chớ không cần đi đâu xa hết. Có một lần hộ niệm, Diệu Âm vì bệnh nên không có tham dự được, mới nhờ mấy vị đồng tu tới hộ niệm tạm một lần. Trước nay những vị đó cũng từng tham dự hộ niệm qua, nhưng không chịu để ý, đến khi tự mình lãnh ca hộ niệm thì bị lúng túng liền! Một người thì đọc Chú, một người thì tụng kinh, người khác thì muốn thêm những bài kệ này bài kệ nọ vào... làm cho cuộc hộ niệm bị trở ngại!...

Mình thấy đó, chính mình đã có chút ít kinh nghiệm rồi, nhưng khi nhận lấy trách nhiệm, vừa đối diện tới sự việc thì cũng chịu lúng túng! Vậy thì mình phải chấp nhận rằng, người khác đôi khi cũng có lúc phải lúng túng!...

Hôm nay Diệu Âm xin nói qua một chút về vấn đề “Khai Thị”. Mới vừa đây có một vài đĩa hộ niệm gởi tới, xem đến mới phát hiện ra có chỗ sơ suất liên quan đến khai thị. Vấn đề này quan trọng lắm.

Khai thị, hướng dẫn người bệnh, điều cần thiết nhất là lòng chân thành, tha thiết, từ bi, yêu thương... Mình tha thiết muốn làm sao cho người đó gỡ được những gút mắc, hóa giải khó khăn để họ phát tâm tin tưởng niệm Phật mà được vãng sanh. Mình phải đem cái lòng thành thật, lòng thương yêu tha thiết nhất của mình ra giúp đỡ cho họ, giống như giúp đỡ người thân yêu nhất của mình mới đúng pháp!

Nhiều người khi hộ niệm, khai thị hướng dẫn cho người bệnh mà nói nhanh quá! Hình như là họ nói thuộc lòng, nói rất nhanh, nói rất dài!... Hôm trước có một lần Diệu Âm thấy được một đĩa hộ niệm từ Việt Nam gởi qua. Lúc đó người bệnh đã chết rồi. Một vị đó đứng khai thị mà lâu đến mười tám-mười chín phút mới xong một lần nói!...

Nói quá dài không tốt! Chính mình khi nghe khai thị mà lâu như vậy cũng phải chán, đừng nói chi đến vị nằm chết đó! Nhiều khi thân trung ấm nghe mình giảng giải dài quá, họ cũng chán mà bỏ đi luôn!…

Khai Thị cần nói chậm rãi, cần đến lòng thành tâm. Hãy đem những điểm thật chính, thật thẳng, thật gọn nói với người bịnh, hãy chú tâm vào Tín-Nguyện-Hạnh để họ vãng sanh. Ví dụ:

- Nam Mô A-Di-Đà Phật. Bác Trần Văn X ơi! Bác đã xả bỏ báo thân đến giờ này là bốn giờ rồi. Nếu Bác còn ở đây thì đã sơ ý rồi! Mau mau nhiếp tâm lại Bác ơi! Niệm câu A-Di-Đà Phật, không thể nào nương dựa vào cái thân này nữa rồi. Bây giờ chỉ còn có câu A-Di-Đà Phật quyết lòng niệm, nguyện vãng sanh. Hãy chờ Ngài đến tiếp dẫn. Đi theo A-Di-Đà Phật đừng đi theo người nào khác. Bây giờ đây nhiếp tâm lại, đừng chần chờ nữa. Hãy mau mau niệm Phật với chúng con để theo quang minh A-Di-Đà Phật về Tây-Phương…

Nói vậy là đủ rồi!

Có nhiều người cứ đưa lý đạo này, lý đạo nọ ra mà nói!... Có những người ưa thích lý luận, cứ tìm cho hết những lý đạo gì mà mình đã học được từ trước tới giờ đem ra mà giảng giải trong lúc hộ niệm. Thật sự là điều sai lầm! Nhất định không hay!

Lúc khai thị cho người bệnh còn sống, thì mình có thể vui vẻ bắt tay, vỗ vai... để tạo không khí thân thiện, vui tươi giúp cho người bịnh xem nhẹ bệnh khổ, tâm ý vững vàng, không sợ chết.

Khi mà người bệnh đã tắt hơi rồi, mình khai thị phải trang nghiêm, thành khẩn, đem cả tấm lòng từ bi của mình ra mà nhắc nhở, mỗi lần một chút. Những vấn đề có thể nghĩ tới như: Sợ rằng người đó lưu luyến cái thân, sợ rằng người đó lưu luyến gia đình, sợ rằng người đó tự nhiên phân vân, gặp những cảnh giới này, cảnh giới nọ... làm chao đảo tinh thần! Những vấn đề này cần nên nhắc nhở cho họ giựt mình, tỉnh ngộ.

Ví dụ như ngày hôm nay tôi gặp được đĩa vãng sanh của chị Đặng Hồng Khanh mà tôi chưa coi. Quý vị chắc còn nhớ, tôi có kể lại là sau tám tiếng đồng hồ, chị này bị trở ngại! Vì quyết liệt muốn giúp chị ấy giựt mình tỉnh ngộ, nên Diệu Âm đã nói rất là ngắn gọn, nhưng rất là mạnh, nhắm vào điểm kẹt của chị, mạnh hơn tất cả những lần nói khác. Tại vì lúc đó mình nói qua điện thoại, nếu nói không mạnh nữa, thì trong vòng một vài phút này làm sao cho người ấy giựt mình được?...

Cho nên tất cả những phương tiện tâm lý thiện xảo này mình nên đem ra ứng dụng để xúi giục họ đừng có chần chờ nữa. Cố gắng làm cho họ tỉnh ngộ mà ngay trong giờ phút này phải niệm Phật cho được. Khi người ta giựt mình tỉnh ngộ, kịp thời hồi đầu, thì tự nhiên được cảm ứng, họ liền đi theo quang minh của Phật. Nhờ vậy ta cứu được một thần thức, một cái huệ mạng, thay vì chịu đời đời kiếp kiếp khổ đau, trở về Tây-Phương hưởng đời an lạc, một đời thành tựu. Công đức này đâu phải là tầm thường. Cho nên xin chư vị hãy cố gắng học hỏi thêm.

Về vấn đề điều giải oan gia trái chủ, xin chư vị nhớ cho, khi điều giải phải chắp tay lại, phải thành khẩn. Lúc điều giải, giá trị của lòng thành khẩn chiếm tới chín mươi phần trăm. Đừng nên dùng lý lẽ nhiều quá. Tất cả mọi người hộ niệm lúc đó cũng phải thành khẩn, phải chân thành, phải trang nghiêm chắp tay, không được gây ồn ào trong lúc đang điều giải oan gia trái chủ. Không được kéo ghế, không được tằng hắng. Giả sử người trưởng ban hộ niệm đang điều giải, lỡ có sơ suất chút ít cũng không sao. Ví dụ như lời người điều giải có thể lắp bắp, không gọn, nhưng người ta có tâm thành là được rồi. Bên cạnh đó nhờ cái tâm thành của tất cả chư vị đồng tu mà cũng được cảm ứng.

Quý vị nên nhớ là tâm tâm cảm ứng với nhau. Tâm mà đang thành khẩn tự nhiên từ cái tâm này sẽ phát ra hào quang, hay gọi là từ trường cảm ứng. Nếu điều giải oan gia trái chủ mà sanh tâm cao ngạo… nhất là những vị trưởng ban khởi lên cái tâm cống cao ngã mạn, chư vị để ý coi, sẽ không bao giờ điều giải được!

Khai thị mà quá lo sợ, quá e dè... thường cũng bị trở ngại. Nhất là gặp phải những người ở trong gia đình, con cháu không tin tưởng, phá đám... Trường hợp này thường thường hầu hết bị trở ngại!... Nhiều khi trước mặt thì họ không phá rối, nhưng lại ồn náo trong buồng cũng gây ảnh hưởng khá xấu đến người ra đi.

Mong chư vị nhớ cho những điểm này, “Chân-Thành, Chí-Thành, Chí-Kính”. Người đi hộ niệm rất cần cái tâm chân thành, không cần cái năng lực gì khác. Có nhiều người cứ nghĩ rằng phải tu cho có năng lực nào đó mới được?!... Hoàn toàn không có! Nếu những người cứ nói tôi cần tu cho có năng lực rồi mới đi hộ niệm. Khi người đó thấy mình đã có năng lực rồi, liền đi hộ niệm... Thì hộ niệm trường hợp nào trật trường hợp đó! Hộ niệm ca nào hư ca đó!.. Vì sao vậy? Vì tâm cống cao ngã mạn không bao giờ tương ứng với đại nguyện của đức A-Di-Đà, không bao giờ làm cho người bệnh được thoải mái và oan gia trái chủ cũng không thích nghe những những lời nói của họ đâu!

Nguyện cho chư vị lấy lòng chân thành từ bi ra để hộ niệm sẽ có cơ duyên cứu người rõ rệt!...

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 47

Nam Mô A-Di Đà Phật.

Nếu mà chương trình này suôn sẻ thì cuộc tọa đàm của chúng ta còn đêm nay và đêm mai nữa là viên mãn, nghĩa là chấm dứt một đợt tọa đàm.

Chúng ta đang nói về Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên. Trong kinh Phật nói không thể nào có ít thiện-căn, phước-đức, nhân-duyên mà được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Nhiều người nghe Phật nói như vậy mới tỏ ra bi quan rằng mình không đủ thiện-căn, phước-đức, nhân-duyên. Nhưng trong thời gian qua chúng ta tọa đàm đã mổ sẻ tỉ mỉ, mới thấy rõ ràng, cũng trong kinh Phật nói, hình như tất cả những người đang niệm Phật trong thời này đều có khả năng vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, một đời thành tựu đạo quả.

Ứng trong kinh Phật nói, cũng như chính kinh nghiệm bằng mắt thấy được của những người đi hộ niệm, ta mới vững tin hơn, chắc chắn hơn, là những người nào đã nghe danh hiệu A-Di-Đà Phật mà phát lòng tin tưởng, tha thiết nguyện vãng sanh về Tây-phương, rồi chấp trì danh hiệu chuyên nhất niệm Phật, thì một báo thân này là báo thân cuối cùng trong vòng sanh tử luân hồi, báo thân sau tất cả chư vị là hàng chư Thượng-Thiện-Nhân sống đời vô lượng thọ, an vui cực lạc thần thông diệu dụng, cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh. Đây là sự thật!...

Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyênlà ba cái điểm quan trọng Phật nhắc tới trong kinh A-Di-Đà.

Người nào nghĩ rằng mình thiếu thiện-căn thì xin chư vị hãy phát tâm…

- Tin vào lời Phật dạy đi.

- Tin vào câu A-Di-Đà Phật đi.

- Tin vào pháp môn Niệm Phật để vãng sanh đi… Tin vững vàng thì thiện-căn của chư vị dù có một chút xíu, cũng sẽ trưởng dưỡng đến vô bờ vô bến!…

Có nghĩa là sẽ đủ “Thiện-Căn”.

Nếu người nào nghĩ rằng mình không có phước-đức, tức là thiếu phước-báu và công đức, thì chư vị cứ phát tâm…

- Niệm câu A-Di-Đà Phật Thành-Tâm Chí-Thành Chí-Thiết.

- Niệm từng câu A-Di-Đà Phật rõ ràng. Bám sát vào câu A-Di-Đà Phật từ sáng đến chiều, từ chiều đến sáng, duy nhất mà niệm đi…

- Nếu giả như phước-báu chúng ta thật sự yếu thì nhờ cái lòng chí-thành chí-kính này mà công đức phước-báu của chư vị sẽ trưởng dưỡng lên vô bờ vô bến…

Trưởng dưỡng vô bờ vô bến!... Có nghĩa là ta đủ “Phước-Đức” để đi về Tây-Phương.

Nếu chư vị nào nghĩ rằng cơ duyên chưa đủ, thì xin chư vị…

- Tha thiết chí thiết thèm muốn tối đa vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc đi…

- Ngày ngày đều cầu nguyện vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc đi… Lấy cái nguyện này là chính nguyện, đừng để những cái tạp nguyện, trợ nguyện lấn qua cái nguyện này. Xả bỏ báo thân ngày nào ta về Tây-Phương ngày đó.

- Nhất định hạ công phu đi, thề với Phật đi, thề với chính tự tâm ta đi. Nhất định phải đi về Tây-Phương Cực-Lạc trong đời này. Ai nói gì nói, nhất định ta không lay chuyển ý định này.

Thì xin thưa thẳng với chư vị rằng, đây là “Nhân-Duyên” cho chư vị đi về Tây-Phương Cực-Lạc đó.

Nếu mà trong giai đoạn này đã gặp được cơ hội để đi về Tây-Phương, mà còn chần chừ dụ dự, còn phân vân, còn lao chao... trong kinh Phật gọi là “Tâm viên ý mã”, không chịu định lại vào cõi Tây-Phương Cực-Lạc, không chịu định lại vào danh hiệu A-Di-Đà Phật, không chịu đi thẳng băng về Tây-Phương Cực-Lạc... thì cơ duyên đã đến tay mà bị vuột qua rồi!... Xin thưa thật với chư vị thời cơ không đến lần thứ hai đâu!...

Nếu mà mình hiểu được như vậy, thì xin chư vị hãy mạnh mẽ tự xác nhận rằng mình đã đầy đủ nhân-duyên, đã đầy đủ thiện-căn, đã đầy đủ phước-báu rồi đó. Nhất định ta về được Tây-Phương Cực-Lạc.

Hồi trưa này trong bữa cơm chư vị nói một câu rất là hay. Có nhiều người hồi giờ chưa chắc gì tu cao hơn mình, chưa chắc gì tu giỏi hơn mình, chưa chắc gì tu nhiều hơn mình... Ấy thế mà khi cuối đời gặp câu A-Di-Đà Phật, họ giật mình tỉnh ngộ, một lòng niệm câu A-Di-Đà Phật, niệm sống niệm chết không cần một thắc mắc nào!... Không cần một câu hỏi nào!... Quyết lòng mà đi... mình dám đoán chín mươi phần trăm, chín mươi lăm phần trăm vãng sanh.

Còn những người công phu hành trì tốt quá!... Kiến thức hay quá!... Luận giải quá hay!... Nhưng không tin vào câu A-Di-Đà Phật, không nghĩ tới Tây-Phương Cực-Lạc. Không tin vào lời Phật dạy trong kinh A-Di-Đà. Không tin lời Phật dạy trong kinh Vô-Lượng-Thọ, trong nhiều kinh điển Phật cũng có nhắc đến cõi Tây-Phương Cực-Lạc của A-Di-Đà Phật. Ấy thế mà họ không tin… Không tin thì dù họ tu có giỏi cho mấy, mình cũng không dám đoán họ có được một phần trăm cơ hội đi về Tây-Phương, đừng nói chi tới chín mươi phần trăm!

Đó là tại vì…

- Một là thiện-căn không có!…

- Hai là phước-báu quá tệ!…

- Ba là bỏ lỡ quá nhiều cơ duyên thành đạo!

Họ cứ lo chạy theo con đường khổ nạn triền miên trong vô lượng kiếp!... Biết làm sao mà gỡ ra!…

Những buổi tọa đàm này là để kết đúc lại nội dung của những gì chúng ta đã nói qua trong thời gian gần đây. Đó là, đi về được Tây-Phương đều do chính ta quyết định, chứ không phải A-Di-Đà Phật quyết định!

- Ta tin tưởng!... Tin đi…

- Ta phát nguyện!... Phát nguyện đi…

- Ta niệm Phật!... Hãy niệm Phật đi…

Ba điểm này Phật đã bảo đảm cho chúng ta về Tây-Phương Cực-Lạc rồi!...

Còn như:

- Ta không tin tưởng.

- Ta không phát nguyện vãng sanh.

- Ta chê câu A-Di-Đà Phật.

Thì Phật cũng bảo đảm cho chúng ta rằng, đời-đời kiếp-kiếp sẽ tiếp tục lăn lộn trong cảnh sanh tử luân hồi!... Ba đường ác đạo còn dự phần nhiều hơn nữa…

Cho nên đi về Tây-Phương là do chính ta quyết định chứ không phải Phật quyết định. Phật đưa ra công thức, Phật đưa ra đường lối tu hành, chư Phật gia trì, chư đại Bồ-Tát gia trì, chư Thượng-Thiện-Nhân gia trì trên con đường đó. Hỏi rằng, ta đi trên con đường mà chư đại Bồ-tát yểm trợ không hay hơn là đi trên con đường oan gia trái chủ cài bẫy hay sao?... Mong chư vị vững lòng tin, quyết lòng đi.

Khi mà nói đến pháp môn Niệm Phật chúng ta đã gom tựu pháp môn niệm Phật trong phương pháp hộ niệm, vì thật ra phương pháp hộ niệm là sự ứng dụng cụ thể, chính xác, vững vàng từng điểm từng điểm của pháp niệm Phật. Phương pháp hộ niệm không có mập mờ, mà:

- Hợp với hàng căn cơ hạ liệt như chúng ta.

- Hợp với tội chướng sâu nặng như chúng ta.

- Hợp với trí huệ chưa khai mở như chúng ta.

Với cái dạng người này nhất định…

- Không bao giờ tự liễu ngộ được đạo pháp!...

- Không bao giờ liễu ngộ ra chân lý!...

Nhưng mà nhờ phương pháp cụ thể này đã dẫn-dắt chúng ta vững vàng như một với một là hai, hai với hai là bốn vậy. Người nào cứ bước đi như vậy thì:

- Những gì mình không có… cũng sẽ có.

- Những gì mình không được… cũng sẽ được.

- Những gì mà chướng nạn thì chư vị Bồ-Tát gia trì, chư vị Thiên-Long Hộ-Pháp giúp đỡ…

Ta có người dọn dẹp đường đi, nước bước để về gặp A-Di-Đà Phật!... Gặp A-Di-Đà Phật nhất định ta thành đạo!...

Chính vì thế mà những người trong ban hộ niệm, khi họ hộ niệm một thời gian, họ thấy lợi lạc quá. Lợi thứ nhất là chính họ cứu được ông bà cha mẹ, anh em của họ vãng sanh. Vãng sanh ngon lắm!... Bây giờ cứ thử về Việt Nam mà coi. Những người hộ niệm người ta hộ niệm những người bà con của họ hầu hết được vãng sanh. Rồi sau đó chính những người đi hộ niệm đó, nếu mà thọ mạng đã hết, họ cũng đi vãng sanh ngon lành lắm!... Thật sự!... Có những người giới thiệu, đây là thành viên trong ban hộ niệm gì đó, và rồi ra đi ngon lành.

Ấy thế mà xin chư vị cũng cần cẩn thận. Tại vì Diệu Âm cũng phát hiện ra có người đi hộ niệm cho người ta không phải là ít, nhưng sau đó lại mất vãng sanh. Có!... Có phát hiện ra một người. Không biết có người thứ hai nào không?

Tại sao như vậy?... Tại vì đi hộ niệm được một số người ra đi với thoại tướng rồi, lại nổi lên cái tâm cống cao ngã mạn! Diệu Âm đã thấy trước rồi, la rầy dữ lắm nhưng không chịu nghe. Đi hộ niệm xong, thường nói những lời trịnh thượng, cứ tưởng rằng mình có năng lực này năng lực nọ!… Năng lực gì vậy? Năng lực đi xuống tam ác đạo!...

Đi hộ niệm cho người ta vãng sanh là có cái nhân đi về Tây-Phương. Mình tưởng có cái nhân đó là mình được đi về sao?... Không phải!...

Mình phải tạo cái duyên thật thuận lợi mới đi về Tây-Phương. “Nhân” mình có, mà “Duyên” mình nghịch! Cống cao ngã mạn là duyên nghịch!... Tự cao khinh thị thiên hạ là cái duyên không phải để đi về Tây-Phương, mà là cái duyên đi vào tam ác đạo…

Chính vì chỗ này mà đã có người mất phần vãng sanh. Cho nên xin thưa với chư vị, hiểu được chỗ này rồi ta phải quyết lòng buông xả vạn duyên ra:

- Cạnh tranh, ganh tỵ phải buông xả…

- Nói xấu người này nói xấu người kia phải buông xả…

- Ghét người này, ghét người nọ phải buông xả…

- Người nào làm sai với ta, sẵn sàng tha thứ đi…

- Phải buông cho hết!... Buông cho hết!...

Tâm bao thái hư, thì về trên Tây-Phương quý vị mới thấy công đức của chư vị châu biến pháp giới!… Châu biến pháp giới!...

Mong chư vị hiểu được chỗ này, quyết lòng đi về Tây-Phương bằng sự: Chân Thành, Thanh Tịnh, Vui Vẻ, An Hòa, Buông Xả…Những gì của thế gian quyết định buông, buông, buông, buông... coi như không có gì hết!... Có trở ngại gì trong đời thì cứ cho đó là những thử thách làm cho cái tâm mình kiên trì, vững vàng... Rồi niệm câu A-Di-Đà Phật thành tâm cầu về Tây-Phương.

Nhất định chư vị từng người từng người đi về Tây-Phương thành đạo chính trong đời này, chứ không phải đời thứ hai đâu!...

A-Di-Đà Phật.

THIỆN-CĂN, PHƯỚC-ĐỨC, NHÂN-DUYÊN

Tọa Đàm 48

Nam Mô A-Di-Đà Phật.

Kính bạch nhị vị Sư Cô!

Cùng chư vị đồng tu!

Cuộc tọa đàm về “Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên” đến đêm hôm nay là cuối cùng. Trong cái cơ duyên học Phật, người gặp được phương pháp Hộ Niệm vãng sanh về Tây-Phương có thể nói rằng là thù thắng nhất.

Thiện-Đạo Đại Sư Nói rằng: Tất cả đều do ở chữ “Duyên”.Trong cái “Duyên” này nếu chúng ta quyết lòng đi về Tây-Phương Cực-Lạc, thì cơ hội chúng ta sẽ gặp A-Di-Đà Phật, đời sau chúng ta ở cảnh Tây-Phương chứ không còn ở cảnh Ta-bà nữa.

Cũng trong cơ duyên này nếu chúng ta lơ là pháp hộ niệm, thì đời-đời kiếp-kiếp sau chúng ta không biết cõi Tây-Phương là như thế nào đâu!

Một đời người, ba năm, năm năm, mười năm trôi qua như bóng câu qua cửa sổ!… Một thời gian ngắn ngủi nếu ta quyết lòng tin tưởng, ta tha thiết phát nguyện vãng sanh. Hãy cầu vãng sanh tha thiết không được thay đổi. Rồi trì giữ câu A-Di-Đà Phật thì cơ duyên này thật sự là thù thắng!... Thù thắng hơn những người chưa biết pháp môn “Niệm Phật”…

Ngày hôm qua chúng ta nói trong cái cơ duyên đi về Tây-Phương, thì hộ niệm là cái “Nhân” rất là vững để cho sau cùng chúng ta cũng được người hộ niệm đi về Tây-Phương. Nhưng mà xin thưa với tất cả chư vị, cái “Nhân” mình có nhưng chưa đủ đâu, phải lo thêm cái “Duyên”. Đừng tạo ra “Nghịch duyên”.

Có người đi hộ niệm cho người ta vãng sanh, nhưng mà sau cùng chính cá nhân mình không được vãng sanh. Nói chung là hầu hết những người trong ban hộ niệm đều được vãng sanh, và còn cứu gia đình, anh em, cha mẹ vãng sanh rất là thù thắng, nhưng mà thật ra có người, rất ít chứ không nhiều, sau cùng bị mất phần vãng sanh…

Sở dĩ như vậy là vì người hộ niệm cho thiên hạ vãng sanh đã nảy ra tâm ý cao ngạo! Tưởng rằng mình có năng lực gì đó, tâm ý bắt đầu vọng tưởng lên. Vô tình chính họ đã tạo cái “Nghịch duyên”, sau cùng không thể nào lấy cái “Nhân Hộ Niệm” này để thành cái “Quả Vãng Sanh” về Tây-Phương Cực-Lạc được. đó là do chính mình gây ra. Đây là chuyện mà hôm qua mình nhắc nhở tới.

Hôm nay mình nói về “Thiện-Căn”. Thiện-căn liên quan đến niềm tin. Xin chư vị phát tâm tin tưởng vững vàng thì thiện-căn không có cũng sẽ có, sẽ vun bồi cho đến vô lượng vô biên. Muốn tin tưởng cho vững vàng thì điều tốt nhất là chúng ta nên nghe pháp nghe kinh. Nghe pháp, nghe kinh càng nhiều làm cho niềm tin chúng ta càng thêm vững vàng. Những hồ nghi của chúng ta từ từ phai lạt đi, và tốt nhất là bỏ hẳn thì càng tốt!...

Như vậy nghe pháp nghe kinh, để củng cố niềm tin. Đây là đúng. Tuy nhiên cũng phải xin nói rõ để cho chúng ta ngừa. Xem kinh nghe pháp nhằm để củng cố niềm tin… củng cố niềm tin vào câu A-Di-Đà Phật. Câu A-Di-Đà Phật quy tụ về pháp hộ niệm. Như vậy càng tin vào pháp “Niệm Phật” thì phải tin vào pháp “Hộ Niệm”. Tại vì pháp hộ niệm hướng dẫn niệm Phật vãng sanh từng điểm từng điểm cụ thể. Pháp môn niệm Phật dạy niệm Phật thì pháp hộ niệm cũng dạy ta niệm Phật!...

Niệm như thế nào?... Trong pháp hộ niệm chỉ bốn tiếng, sáu tiếng, niệm nhanh, niệm chậm, niệm theo điệu, niệm theo âm điệu của người bệnh... rõ ràng cụ thể. Thật sự pháp hộ niệm từng điều từng điều cụ thể.

Pháp môn niệm Phật cần nguyện vãng sanh, thì trong pháp hộ niệm chỉ dẫn cho người bệnh cách nguyện như thế nào cho gọn, cách nguyện như thế nào cho dễ nhớ, cách nguyện như thế nào cho đầy đủ.Dạy từng chữ từng chữ và người bệnh lập lại đàng hoàng để lời nguyện được chính xác, không còn nguyện sai lệch nữa. Thật sự pháp hộ niệm là một ứng dụng cụ thể của pháp niệm Phật.

Tin tưởng! Ta khuyến tấn người bệnh tin tưởng. Tin tưởng vững vàng rồi thì khi có gặp trở ngại gì trong lúc lâm chung, người hộ niệm liền hóa giải cho họ, củng cố thêm niềm tin làm cho người bệnh không còn khủng bố, không còn hãi hùng nữa. Cho nên nếu chỉ hướng dẫn niệm Phật vãng sanh một cách tổng quát, thì đến lúc đối diện với cái chết, tâm ý đã bắt đầu mê mờ, định căn đã bắt đầu xuống dốc... Lúc đó người bệnh không còn tự chủ được nữa, oan gia trái chủ ứng hiện phá hại làm cho người ta không biết làm sao hóa giải. Ngoài ra còn bệnh khổ hiện hành, con cháu khóc lóc... tất cả những chướng nạn này quay cuồng họ đến điên loạn làm cái tâm của người bệnh rối bời, không cách nào hóa giải được!… Phương pháp “Hộ Niệm” có thể giải được tất cả những ách nạn này.

Chính vì vậy, tin vào pháp môn Niệm Phật thì phải tin vào phương pháp Hộ Niệm. Đây là “Đại Cứu Tinh” cho những người phàm phu tục tử tội chướng sâu nặng như chúng ta!...

Trở lại vấn đề “Nghe kinh thính pháp”, mục đích là để tin tưởng. Khi đã tin tưởng rồi thì một câu A-Di-Đà Phật chuyên niệm mới thực hiện chính xác con đường vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Nếu đã tin tưởng vào pháp Phật rồi mà còn tiếp tục săn tìm pháp lạ, thì xin thưa thật, đến lúc mình nằm xuống rồi nhiều lời pháp nhập vào tâm mình quá nặng, làm cho sức niệm câu A-Di-Đà Phật yếu đi, ta vẫn có thể bị trở ngại như thường!... Trong kinh Kim-Cang, Phật có nói: “Pháp thượng ưng xả” là vì lý do này.

Một khi biết được con đường thành đạo, pháp Phật cũng phải buông xuống để đi thành đạo. Một câu A-Di-Đà Phật nhất định đưa mình qua sông!... Qua sông thì phải liệng bè để đi cho gọn.

Có những người nghe pháp nhằm để củng cố thêm tư tưởng, kiến giải, luận lý... Họ muốn học thêm cho thật nhiều những thuật ngữ trong kinh Phật... thì đây là một điều chướng nạn cho người niệm Phật cầu vãng sanh, chứ không phải là tốt đâu!... Tại vì chư vị nên nhớ, “Sở Tri Chướng” là một điều tối kỵ cho tâm thanh tịnh, làm cho người hành giả niệm Phật không định được trong câu A-Di-Đà Phật…

Cho nên nghe kinh thính pháp để củng cố niềm tin là đúng, là chánh pháp. Nghe kinh thính pháp để củng cố lý luận, củng cố lý đạo huyền diệu gì đó, để nói cho hay... thì coi chừng bị sai lệch rồi đó!... Quý vị nên nhớ Ấn-Quang Đại Sư nói rằng, một người không chịu niệm Phật với Tín-Hạnh-Nguyện đầy đủ để đi về Tây-Phương thì dù cho giảng thông thạo ba tạng kinh điển của Phật cũng không ảnh hưởng gì đến việc thoát ly sanh tử luân hồi!...

Như vậy, văn kinh thính pháp để củng cố niềm tin, là chúng ta học được chánh pháp. Nếu văn kinh thính pháp không phải để củng cố niềm tin, mà lại nhằm để phô diễn cái gì đó, thì vô tình cái tâm đạo đã đi xéo rồi! Đi xéo trong kinh Phật gọi là Tà! Kinh Phật không có Tà, nhưng tâm của ta Tà, vô tình ứng dụng kinh Phật không chánh đạo!...

Cho nên khi chúng ta bắt đầu biết được con đường niệm Phật, thì phải đi thẳng, đi chánh, đi trực,đừng nên sơ ý tạp loạn nhiều quá mà lạc ra khỏi đường vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc, thì dẫu cho chúng ta có niệm Phật suốt cả cuộc đời, nhưng sau cùng cũng không ai dám đoán chắc mình được tới vài phần trăm vãng sanh đâu!…

Vấn đề “Phước-Đức”. Phước-đức chính là làm thiện, tu phước. “Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành”. Đây là lời Phật dạy.

Tuy nhiên người niệm Phật chúng ta cũng phải cần chú ý thật kỹ rằng, tu thiện tích phước để dùng cái thiện phước yểm trợ cho con đường vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc, thì chúng ta tu Tịnh-Nghiệp. Nếu chúng ta sơ ý nhắm thẳng vào việc tu phước, cứ lo tu thiện phước mà quên đi con đường niệm Phật vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, thì thiện phước này nó cản trở con đường thành đạo của chúng ta. Đây thật sự là điểm khá lạ lùng! Rất nhiều người không có hiểu lý đạo này.

Nên nhớ làm thiện tích phước mà không niệm Phật cầu vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc, dẫu cho thiện phước đó dầy như núi Tu-Di, thì ngài Tĩnh-Am có nói một câu như thế này: “Thiện nghiệp càng lớn sanh tử càng nặng!”. Một niệm thiện nổi lên trong lúc lâm chung muôn đời vạn kiếp trôi lăn trong lục đạo để hưởng phước, nhất định không được vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc!...

Vì thế, tu thiện tích phước là Trợ-Hạnh, chứ không phải là Chánh-Hạnhcủa người niệm Phật vãng sanh về Tây-Phương Cực-Lạc. Chánh Trợ song tu, nhất định chúng ta không thể nào không tu thiện tích phước. Nhưng tu thiện mà chấp vào việc thiện, thì nhất định ta mất phần vãng sanh!...

Như vậy bây giờ làm sao?...

- Thiện phước phải làm!...

- Cạnh tranh ganh tỵ phải bỏ!…

- Ghét người này ghét người nọ phải bỏ!…

- Cống cao ngã mạn phải bỏ!... Tất cả những cái đó phải bỏ hết!...

Trong kinh Phật nói rõ rệt!...

- Khéo giữ khẩu nghiệp không nói lỗi ngườiĐó là tu thiện.

- Khéo giữ thân nghiệp không phạm oai nghiVào trong Niệm Phật Đường nhất định phải giữ nghiêm trang để tồn trữ cái phước của mình. Đó là tu thiện.

- Khéo giữ ý nghiệp thanh tịnh không nhiễm… Đừng nghĩ những chuyện sai lầm, đừng nói những chuyện sai lầm để cho tâm chúng ta trụ trong câu A-Di-Đà Phật. Đó gọi là tu thiện.

Đem tất cả những thiện phước này gởi về Tây-Phương để cầu mong thành đạo Vô-Thượng. Như vậy, người niệm Phật đang tu thiện đó gọi là “Vô tướng tam luân”. Tức là người bố thí, vật bố thí, và người nhận bố thí ta đều quên hết, đừng nghĩ tới nữa. Tất cả những thiện phước này ta đem gởi về Tây-Phương, nhất định ta được vãng sanh về Tây-Phương một cách dễ dàng thoải mái…

Nguyện mong cho chư vị nương theo cơ hội này mà thành đạo. Chúng ta thật sự có đầy đủ Thiện-Căn, Phước-Đức, Nhân-Duyên, không cớ gì chúng ta phải lọt lại trong lục đạo luân hồi để tiếp tục chịu sanh tử khổ đau trong những cảnh đọa lạc nhiều đời nhiều kiếp!...

Mong cho tất cả chư vị ai ai cũng ngự lên đài sen đi về Tây-Phương để cứu độ vô lượng vô biên chúng sanh!...

Nam Mô A-Di-Đà Phật

HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

Nguyện đem công đức nầy:

Hồi hướng cho thập phương pháp giới chúng sanh, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ, cầu nguyện thế giới hoà bình tiêu tai giải nạn.

Hồi hướng cho lịch đại kiếp số oán thân trái chủ, tất cả chúng sanh đã bị con não loạn hoặc giết hại vì bất cứ lý do gì. Hôm nay con xin thành tâm sám hối. Nguyện cầu chư vị xoá bỏ hận thù, hộ pháp cho nhau, đồng lòng niệm Phật, đồng nguyện vãng sanh, đồng sanh Cực-Lạc.

Hồi hướng cho tất cả thân bằng quyến thuộc trong vô lượng kiếp, dù đang ở trong bất cứ cảnh giới nào, đều được cảm ứng, phát lòng Tín-Nguyện-Hạnh niệm Phật siêu sanh Tịnh-Độ.

Hồi hướng cho tất cả thân bằng quyến thuộc đang hiện tiền, nghiệp chướng tiêu trừ, phước lành tăng trưởng, phát khởi tín tâm, niệm Phật cầu sanh Tịnh-Độ, và đều được thành tựu.

Hồi hướng cho tất cả chúng sanh có duyên hay không có duyên với con, sau cùng đều được vãng sanh Cực-Lạc Quốc.

Hồi hướng về Tây-Phương trang nghiêm Tịnh-Độ. Nguyện khi con lâm chung, không còn chướng ngại. biết trước ngày giờ, tâm hồn tỉnh táo, thấy A-Di-Đà Phật, Quán-Âm Thế-Chí, Thanh Tịnh Đại Hải chúng, tướng hảo quang minh, hiện thân tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.

Nguyện hoa nở thấy Phật ngộ Vô-Sanh, nguyện chứng đắc Vô-Thựợng Bồ-Đề, nguyện độ vô biên chúng sanh trong mười phương pháp giới vãng sanh Tây-Phương Cực-Lạc, viên thành Phật đạo.

Nam Mô A-Di-Đà Phật

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567