Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 3: Trích Giảng Thiền Sử

30/04/201109:26(Xem: 2267)
Phần 3: Trích Giảng Thiền Sử

NHẶTLÁ BỒ ĐỀ
HT Thích Thanh Từ

Tập 3

Phần 3

Trích Giảng Thiền Sử


1. Ðạo Tại Trước Mắt

Có vị Tăng đến hỏiThiền Sư Duy Khoan:

-- Ðạo tại chỗ nào?

Sư đáp:

-- Chỉ tại trước mắt.

-- Sao tôi chẳng thấy?

-- Do ông có ngã nên không thấy.

-- Tôi có ngã nên chẳng thấy. Hòa Thượng có thấy chăng?

-- Có ông có ta lăng xăng cũng chẳng thấy.

-- Không tôi khôngHòa Thượng lại có thấy chăng?

-- Không ông khôngta ai lại cầu thấy?

Bình:

Ðạo là cái gì mà lại cầu thấy, vừa nghĩ thấy đạo, đạo đã thành cáibị thấy. Vừa thấy kia đây càng xa tít. Thế nên nói: Chỉ buông xả cáithấy hai tức là đạo rồi, nói gì thấy chẳng thấy.

Chẳng rời hiện tạithường lặng lẽ
Còn tìm tức biết anh chưa thấy.

2. Sáu Căn Tức Giải Thoát

Thiền Sư Quảng Trừng, ở Ðại Ðồng Tào Châu. Có vị Tăng đến hỏi:

-- Làm thế nào diệt được sáu căn?

Sư nói:

-- Hươi kiếm chém hư không, đâu thể gây thương tích cho các vật.

Bình:

Sáu căn vốn không có lỗi, lỗi tại phân biệt mà khởi tham sân,phân biệt nếu không, tham sân từ đâu mà có, ngay đó sáu căn tứcgiải thoát, đâu cần diệt chẳng diệt?

3. Chẳng Làm Việc Gì

Thiền Sư Dược Sơn Duy Nghiễm, một hôm đứng hầu Hòa Thượng ThạchÐầu. Hòa Thượng hỏi:

-- Trong ấy ông làm việc gì?

Sư thưa:

-- Một việc cũng chẳng làm.

-- Thế ấy thì ngồikhông chăng?

-- Nếu ngồi không tức là làm.

-- Ông nói chẳng làm, là chẳng làm việc gì?

-- Ngàn Thánh cũngchẳng biết.

Bình:

Vậy ai biết cái chỗ chẳng làm? Nếu có chỗ tức thành cái bịbiết rồi!

Thế nên, ngồi không mà tỉnh sáng tức thiền. Ngồi mà kềm tâmlà chưa thoát khỏi Nhị thừa, ngồi mà tâm chạy đầu này đầu kia là thuộcphàm phu. Nếu còn thấy có chỗ làm tức còn bị trói. Tuy nhiên chớhiểu không làm là ngồi không mặc tình tâm ý chạy Ðông chạy Tây làlầm! Do đó nói: Chỗ này "ngàn Thánh cũng chẳng biết". Ðólà cái chỗ chẳng làm.

4. Ông Nay Biết Ta Chăng?

Thạch Ðầu Hy Thiênđến tham vấn Thiền Sư Hành Tư. Sư hỏi:

-- Ông từ phương nào đến?

Hy Thiên thưa:

-- Con từ Tào Khê đến.

-- Ðem vật gì đến?

-- Khi chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất.

-- Nếu thế ấy sao chẳng dừng đi, đến Tào Khê làm gì?

-- Nếu không đến Tào Khê đâu biết chẳng mất.

Hy Thiên lại hỏi:

-- Ðại Sư ở Tào Khê có biết Hòa Thượng chăng?

-- Ông nay biết tachăng?

-- Biết, lại đâu thể biết đặng.

-- Loài có sừng tuy nhiều, chỉ một con lân là đủ.

Bình:

Hỏi: "Ðem một vật gì đến", đáp: "Khi chưa đến cũngchẳng mất" là cái đó vốn sẳn có. Hỏi: "Nếu thế ấy saochẳng dừng đi, đến Tào Khê làm gì?". Ðáp: "Nếu khôngđến Tào Khê đâu biết chẳng mất" là tuy vốn sẵn có nhưngnếu không nhờ thiện tri thức chỉ cho thì đâu thể biết được.Hỏi: "Ông nay biết ta chăng?", đáp: "Biết lại đâuthể biết được" là cái chỗ đó mắt Phật cũng không thểthấy. Cuối cùng câu "Loài có sừng tuy nhiều nhưng một con lân làđủ", thầm tự biết là đủ.

5. Thấy Hoa Ðào Nở

Thiền Sư Chí Cần ởLinh Vân Phước Châu, người Trường Khê Bổn Châu.Ban đầu ở chỗ Ngài Qui Sơn, nhân thấy hoa đào ngộ đạo. Sư có làmkệ:

Tam thập niên lai tầm kiếm khách
Cơ hồi lạc diệp hựu trừu chi
Tự tùng nhất kiến đào hoa hậu
Trực đáo như kim cánh bất nghi.

Tạm dịch:

Ba chục năm qua tầm kiếm khách
Bao lần lá rụng lại vin cành
Từ khi thấy được hoa đào nở
Mãi đến ngày nay lại chẳng nghi.

Tổ Qui Sơn xem bàikệ và hỏi chỗ sở ngộ của Sư mới biết cóchỗ khế hợp với Ngài. Tổ bảo: "Theo duyên ngộ đến chỗtột, hằng không lui sụt, ông phải tự khéo giữ gìn".

Bình:

Thử hỏi chỗ nào làchỗ Ngài Linh Vân ngộ? Có phải ở hoa đàochăng? Và đâu là chỗ chẳng nghi? Nếu cho cái ngộ ở chỗ hoa đàothì tại sao mỗi năm xuân về chúng ta vẫn thấy hoa đào nở mà khôngngộ?

Chớ thấy hoa đào tầm kiếm khách
Quên rằng ôm ấp đã bao năm!

6. Chẳng Phải Xưa Nay

Thiền Sư Sở Nam ở núi Thiên Khoảnh, Hàng Châu. Ban đầu Sư tham vấnThiền Sư Phù Dung, Phù Dung thấy bảo: "Ta chẳng phải Thầy ông. Thầyông là Hoàng Bá". Sư lễ bái đến Hoàng Bá.

Hoàng Bá hỏi:

-- Hình ảnh (ảnh tượng) ông khi chưa hiện trong tam giới (ba cõi) nhưthế nào?

Sư thưa:

-- Tức hiện nay đâu phải có.

Hoàng Bá nói:

-- Có không gát lại, tức hiện nay như thế nào?

Sư thưa:

-- Chẳng phải xưa nay.

Hoàng Bá nói:

-- Pháp nhãn của ta chính nơi ông.

Bình:

Như vậy ai biết được hình ảnh khi chưa hiện trong ba cõi? Cái nàychẳng thuộc xưa nay, vượt ngoài giới hạn của thời gian:

Tuy có hiện thân trong ba cõi
Hiện tại có gì trói được y!

7. Châu Ma Ni

Thiền Sư Tổ hiệu Vân Tế ở núi Chung Nam. Ban đầu đến thamvấn Ngài Nam Tuyền. Sư hỏi:

-- Mỗi người có hạt châu Ma ni mà người chẳng biết. Hạt châu ấyở trong tàng (kho) Như Lai phải chính mình nhận được. Thế nào là Tàng?

Nam Tuyền đáp:

-- Cùng ông qua lại đó là Tàng.

-- Khi chẳng qua lại thì thế nào?

-- Cũng là Tàng

-- Thế nào là châu?

Ngài Nam Tuyền liền gọi:

-- Sư Tổ.

Sư Tổ liền ứng thinh:

-- Dạ!

Ngài Nam Tuyền nạt:

-- Ði đi! Ông chẳng hội lời ta nói.

Sư Tổ từ đây có chỗ tin vào.

Bình:

Qua tiếng kêu dạ, Sư Tổ đã thấy được hạt châu Ma Ni.

8. Người Không Biết Ðặng Y

Khoảng niên hiệu Trinh Nguyên đời Ðường, ban đầu Sư (Thiền SưLinh Mặc) đến trụ ở đạo tràng Bạch Nhai, sau đến Ngũ Duệ.

Có vị Tăng đến hỏi:

-- Vật gì lớn nhấttrong trời đất?

Sư đáp:

-- Không người biết đặng y.

-- Lại có thể điêukhắc chăng?

-- Ông hạ thủ thử xem?

-- Trong cửa việc này trước sau như thế nào?

-- Ông nói trước mắt, từ thành đến nay bao lâu?

-- Học nhân chẳng hội.

-- Cái hỏi này củata, chẳng phải cái hỏi của ông.

-- Hòa Thượng há không chỗ tiếp người.

-- Ðợi ông cầu tiếp ta liền tiếp.

-- Xin thỉnh Hòa Thượng tiếp.

-- Ông kém thiếu cái gì?

-- Làm sao được vôtâm?

-- Núi nghiêng lấpbiển thường yên tịnh.

Ðất chuyển ngủ khòhá động y.

Bình:

Cái thể bằng trời đất kia, không lệ thuộc không gian, thời gian,cũng chẳng do tạo tác thành. Nếu sống được với cái đó thì tất cảđộng tịnh của thế gian không gì lay chuyển được. Ðó là chỗkhông người biết đặng!

9. Ông Hỏi Cái Gì?

Có vị Tăng đến hỏiHòa Thượng Phước Khê:

-- Thế nào là tự kỷ?

Phước Khê đáp:

-- Ông hỏi cái gì?

-- Hòa Thượng há không phương tiện?

-- Ông đến đây hỏicái gì?

-- Cái gì là điên đảo?

-- Hôm nay ông đáng ăn gậy trong tay của Lão Tăng.

Bình:

Hỏi ở trong đáp.

10. Trồng Hoa Trên Ðá

Hòa Thượng Thạch Ðầu bảo:

-- Nói năng động dụng chớ dính mắc.

Thiền Sư Dược Sơn Duy Nghiễm thưa:

-- Không nói năng động dụng cũng chớ dính mắc.

-- Ta trong ấy mộtmũi kim cũng chẳng lọt.

-- Con trong ấy như hoa trồng trên đá.

Thạch Ðầu chấp nhận và nói kệ khen:

Tùng lai cộng trụ bất tri danh
Nhậm vận tương tưởng chỉ ma hành
Tự cổ thượng hiền giai bất thức
Tạo thứ phàm lưu khởi khả minh.

Tạm dịch:

Từ xưa chung ở chẳng rõ danh
Ngồi đứng theo nhau trong các hành
Chư thánh từ xưa còn chẳng biết
Hà huống phàm phu có thể rành.

Bình:

"Nói năng động dụng chớ dính mắc" là chẳng chấp có. "Chẳngnói năng động dụng cũng chẳng dính mắc" là chẳng chấp không. "Tatrong ấy một mũi kim cũng chẳng lọt, con trong ấy như hoa trồng trênđá" là bặt cả có không, tâm hằng miên mật không một điểm dínhmắc, không một kẻ hở, tức là hằng sống trong ấy. Rõ được chỗ nàyliền rõ cái kẻ "Từ lâu chung ở chẳng biết tên". Vì y khôngtên tuổi vậy.

11. Thượng Ðường

Thiền Sư Dược Sơn Duy Nghiễm dạy chúng:

-- Tổ Sư chỉ dạy phải khéo bảo hộ, khi tham, sân, si cần thiết phảingăn cấm chẳng để nó tăng trưởng. Nếu ông muốn biết cây khô ởThạch Ðầu, cần phải gánh vác chỗ thật (thân cây) không nhánh lá mớiđược. Tuy nhiên như thế, phải nên tự xem, chẳng được dứt bặt nóinăng. Tôi nay vì ông nói năng, để hiển bày cái không nói năng. Cáiấy xưa nay vốn không tai, mắt, tướng mạo v.v...

Có vị Tăng hỏi:

-- Làm thế nào khỏi bị các cảnh làm mê lầm?

Sư đáp:

-- Ngoại cảnh có gì ngại được ông.

-- Con chẳng hội.

-- Cảnh đâu làm ông mê lầm?

Bình:

1. Cái cội nguồn chân thật ấy là cái không ngôn ngữ, còn có ngôn ngữchỉ là cành lá. Cho nên nói: "Cái ấy xưa nay vốn không tai, mắt, tướngmạo v.v...

2. Cảnh vốn không làm lầm người, chỉ tại người tự lầm cảnh. Nghĩa làtự mê mình mà chạy theo cảnh, thành ra bị cảnh chuyển, không thấy đượcsự thật. Nếu ngay nơi cảnh mà tỉnh giác trở lại thì có gì chướng ngại?

12. Sanh Diệt Khứ Lai

Thiền Sư Như Mãn ởPhật Quang, Lạc Kinh đáp những câu hỏi của vuỪường Thuận Tông.

Vua hỏi:

-- Phật đản sanh từ phương nào đến? Khi nhập diệt đến phươngnào? Ðã nói Ngài thường trụ ở đời. Vậy nay Phật ở đâu?

Sư đáp:

-- Phật từ vô vi đến, khi diệt độ trở về với vô vi. Pháp thânđồng hư không, thường trụ chỗ vô tâm, có niệm về vô niệm,có trụ về vô trụ, đến vì chúng sanh đến, đi vì chúng sanh đi,trong sạch chân thật như biển, thể hằng vắng lặng. Người trí khéoxét biết, chớ sanh niệm hồ nghi.

Vua hỏi:

-- Phật đản sanh tại Vương cung khi nhập diệt giữa rừng Song Thọ,thuyết pháp 49 năm, tại sao nói Phật không nói một pháp? Núi sông,biển lớn, trời đất, mặt trời, mặt trăng trải qua thời gian (thời chí)cũng đều hoại diệt, tại sao nói chẳng sanh, chẳng diệt? Nhữngđiều nghi ấy xin bậc trí khéo giản trạch.

Sư đáp:

-- Thể tánh của Phật vốn vô vi, do mê tình (chúng sanh) vọng phânbiệt, pháp thân đồng hư không, chưa từng có sanh diệt, có duyên Phậtra đời, hết duyên Phật nhập diệt. Những nơi giáo hóa chúng sanh cũngnhư bóng trăng hiện trong nước, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn,chẳng phải sanh, chẳng phải diệt, sanh cũng chưa từng sanh, diệt cũngchưa từng diệt. Thấy rõ chỗ vô tâm tự nhiên không có một phápđể nói.

Vua nghe xong rất vui vẻ và càng kính trọng Thiền Tông.

Bình:

Ngài chỉ thẳng Phật Pháp thân không sanh diệt đến đi, có đếnđi là thuộc Hóa thân. Tuy hiện có sanh diệt đến đi mà thểhằng vắng lặng, như bóng trăng trong nước không thể nói có hay không.Nếu thấy được chỗ không tâm thì Phật thường hiện tiền, nhậnđược chỗ không tâm liền thấy "Phật không nói pháp". Phảikhéo nhận kỹ chớ kẹt trên ngôn từ!

13. Từ Trong Ấy Ra

Thiền Sư Hy Thiên ởnúi Nam Nhạc, Thạch Ðầu.

Sư con nhà họ Trần, quê ở Cao Yếu, Ðoan Châu. Ban đầu đến TàoKhê đặng độ. Khi Sư chưa thọ giới Cụ túc lại gặp lúc Lục Tổ thịtịch. Vâng lời di chúc, Sư đến yết kiến Ngài Thanh Nguyên và xin ychỉ. Một hôm, Thanh Nguyên hỏi Sư:

-- Có người nói Lãnh Nam (nơi Lục Tổ ở) có tin tức (đại đạo) phảichăng?

Sư thưa:

-- Có người chẳng nói Lãnh Nam có tin tức.

-- Nếu thế ấy Ðại tạng, Tiểu tạng từ đâu mà ra?

-- Từ trong ấy mà ra.

Ngài Thanh Nguyên gật đầu chấp nhận.

Bình:

Cái gì là trong ấy?

-- Ba đời chư Phậtthường hộ niệm!

14. Ðãi Gạo

Ở Ðộng Sơn, Tuyết Phong đang đãi gạo, Khâm Sơn hỏi:

-- Ðãi cát bỏ gạo hay đãi gạo bỏ cát?

Sư đáp:

-- Gạo cát đồng thời bỏ.

Khâm Sơn hỏi:

-- Ðại chúng lấy gì ăn?

Sư bèn lật úp thauđãi gạo.

Khâm Sơn nói: Cứ theo nhân duyên này huynh hợp ở Ðức Sơn.

Trong đây ai có thể đáp một câu để khỏi bị người kiểmđiểm xem?

Bình:

Gạo là gạo, cát làcát chẳng dính dáng gì đến việc kia!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567