Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Để Lị Tam Muội Gia Bất Động Tôn Oai Nộ Vương Sứ Giả Niệm Tụng Pháp

08/11/201420:49(Xem: 6557)
Để Lị Tam Muội Gia Bất Động Tôn Oai Nộ Vương Sứ Giả Niệm Tụng Pháp

Mật Tạng Bộ 4 _ No.1200 (Tr.07 _ Tr.13)

 

ĐỂ LỊ TAM MUỘI GIA BẤT ĐỘNG TÔN OAI NỘ VƯƠNG SỨ GIẢ NIỆM TỤNG PHÁP

_MỘT QUYỂN_

 

Hán dịch: Chùa Đại Hưng Thiện_ Tam Tạng Sa Môn Đại Quảng Trí BẤT KHÔNG phụng chiếu dịch.
Việt dịch: Sa Môn THÍCH QUẢNG TRÍ
Phục hồi Phạn Chú: HUYỀN THANH

 

Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Kim Cang Thủ Bồ Tát rằng: “Ta nay vì ông nói Vô Lượng Lực Thần Thông Vô Động Sứ Giả khéo hay thành tựu hết thảy sự nghiệp. Trước cần sửa Tâm, mới có thể phòng trừ các loạn tưởng, chế tâm một chỗ. Trước đảnh lễ hết thảy chư Phật Bồ Tát, sám hối…. khiến ba nghiệp thanh tịnh, sau đó làm hết thảy sự nghiệp. Nếu có vọng niệm, làm Pháp thiếu sót. Sư tức phạm Tam Muội Gia (Samaya) nên mỗi ngày ba thời trì tụng Minh này liền diệt các tội chướng đã phạm ở trên. Minh rằng:

Nẵng mồ tát đế lị gia địa vĩ ca nẫm, tát phạ đát đà nghiệt đa nẫm. Úm, vĩ ra nẫm, ma ha chước yết ra, phạ nhật lị, tát đa tát đa, sa ra đế, sa ra sa ra đế, đát ra dị dị, vĩ đà ma nễ, tam bạn đà nễ, đa ra ma để, tất đà nghiệt lê dã, đát lãm diễm, sa phạ ha.

巧伕 榑伏盎乙觡 屹楠凹卡丫出觡 湡 合先元 合先元 亙扣弋咒 向忽 屹凹 屹凹 屹先包 屹先包 氛件 氛件 合叻亙凸 戌乓介市 氛亙凸 帆盎  狣奄份 鈮 送扣

NAMO   STRIYA-DHVIKĀNĀṂ  SARVA-TATHĀGATĀNĀṂ  

OṂ_  VIRAJI  VIRAJI, MAHĀ-CAKRA-VAJRI, SATA  SATA, SARATE  SARATE, TRAYI  TRAYI, VIDHAMATI, SAṂBHAṂJANI    TRAMATI  SIDDHI AGRYE  TRĀṂ   SVĀHĀ

 

Lại muốn tiểu tiện, nên tụng Chú sau bảy biến, dùng Chùy Ấn hộ thân năm chỗ: trán, hai vai, tim , cổ họng rồi xả Ấn trên Đảnh. Minh rằng:

Úm, a giả la ca nẵng, chiến nõa, sa đà gia, hồng phấn tra

湡 唒旄匡 乙仕 旄汔 州叻傂 猲 傋誆

OṂ_  ACALA-KĀṆA  CAṆḌA-SĀDHAYA  HŪṂ  PHAṬ 

 

Làm xong nên tẩy tịnh. Khi ra rửa tay, xúc miệng, đi đến Tịnh Xá như trước lễ Phật sám hối xong, chắp tay thanh tịnh tâm, đem hai ngón cái để trên trán, định ý, tụng Tam Muội Gia Minh rằng:

Nẵng mồ tát phạ mẫu địa tát đát phạ nẫm. Nẵng mồ tô tất để sa đạt nễ, a nghiệt lê, ca rô ni, rô la nhĩ đa dị, a bá duệ, a để mãng lê, nẵng mãng tố đổ, bà mãng tất để đà gia kế tị dụ, mãng hạ khất lị bế tệ, sa phạ ha

 

Lại dùng An Ẩn Minh Ấn hộ thân. Hai ngón út xoa nhau bên trong, lòi ra nơi hổ khẩu của ngón cái, kèm dựng  hai ngón giữa, hai ngón vô danh để ở lưng hai ngón giữa, hai ngón trỏ đều nắm hai ngón vô danh, dựng hai ngón cái vịn hai ngón giữa tức thành. Minh rằng:

Nẵng mồ tam mãn đà một đà nẫm. Úm, Hạ ra hạ ra mãng hạ di nễ đa, hồng phấn tra

矧伕  屹亙阢 蒤湑觡 湡 扣捖扣捖 亙扣伙竘出 猲 傋誆

NAMO  SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ OṂ  HĀRA  HĀRA  MAHĀ-MENITĀ  HŪṂ  PHAṬ

 

Hành Giả nên tịnh nghiệp chướng, tẩy trừ cấu uế vô thỉ của thân tâm khiến được thanh tịnh. Tẩy (tắm) có hai loại: một là bên trong, hai là bên ngoài. Bên trong (nội) là đối với các hữu tình trên khởi quán nhóm bốn tâm vô lượng Từ Bi Hỷ Xả, thanh tịnh vô ngã… Bên ngoài (ngoại) là dùng nước mà tẩy rửa khiến được thanh tịnh. Tức kết Tam Muội Gia Ấn tụng Tam Muội Minh  sau dùng Chùy Ấn Minh trừ cấu uế. Tay phải: ngón cái vịn trên móng ngón trỏ, mở đứng ba ngón kia như chày Kim Cang. Minh rằng:

Úm, a giả la ca nẵng, chiến trà, sa đà dã, hồng phấn tra.

湡 唒旄匡 乙仕 旄汔 州叻傂 猲 傋誆

OṂ_  ACALA-KĀṆA  CAṆḌA-SĀDHAYA  HŪṂ  PHAṬ

 

Lại nói gia trì nước, đất khiến thanh tịnh. Trước tẩy rửa eo lưng xong xuống dục y (áo tắm) cùng rửa tay, xúc miệng. Ấn ấy là: trước chắp tay, co hai ngón cái vào trong lòng bàn tay, vốc nước xoay qua phải. Tức Đất… cũng như vậy. Minh rằng:

Nẵng xú tam mãn đa phạ nhật ra nõa. Đát ra tra, a mẫu già chiến nõa, mãng hạ lỗ sa nõa, sa phả tra dã, hồng hồng, đát ra sa dã, đát ra sa dã, hồng đát ra tra, hàm,  mam.

矧休 屹亙阢 惵忠鉔  泣誆 唒伕千 弋汔 亙扣 刎好仕 剉誆傂 猲 泣亙傂 泣亙傂 猲 泣誆 詶 赩

*) NAMAḤ  SAMANTA-VAJRĀṆĀṂ_ TRĀṬ_ AMOGHA-CAṆḌA  MAHĀ-  ROṢAṆA  SPHAṬYA  HŪṂ  TRĀMAYA  TRĀMAYA  HŪṂ  TRĀṬ  HĀṂ  MĀṂ

 

Tẩy rửa thân tâm trong ngoài được thanh tịnh. Hành Giả lại nên kết Giới, dùng tay phải: ngón giữa trở xuống, ba ngón nắm ngón cái làm quyền, dựng thẳng ngón trỏ. Đem Ấn xoay bên phải tức thành Kết Giới, xoay bên trái thành Giải Giới cũng thành Tịch Trừ khiến thành mười phương giới. Minh là:

Úm, hồng, mãng hạ tứ mạn, bạn đà nễ, mãng đà mãng đà, phạ nhật ra, úm phạ nhật lợi ni, hồng phấn tra.

湡 猲 亙扣并交 栱呅郜 栱呅栱呅 惵忝 惵忽仗 猲 傋誆

OṂ_  HŪṂ  MAHĀ-SĪMĀ  BADHANI, BANDHA  BANDHA  VAJRA  VAJRIṆI  HŪṂ  PHAṬ

  

Lại kết Bị Giáp Ấn: Trước tiên chắp tay, mỗi mỗi co ngón trỏ, ngón vô danh vào trong lòng bàn tay, mở thẳng ngón cái, ngón út, ngón giữa đứng như chày Kim Cang ba chia. Đây gọi là Vô Năng Thắng Kim Cang Giáp Ấn. Minh rằng:

Úm, hồng phạ nhật ra, ca phạ chế, hốc, phạ nhật ra, hồng phấn tra

湡 猲 惵忝 哠惵中 惵忝湡 猲傋誆

OṂ_  HŪṂ  VAJRA-KAVACE  VAJRA  HŪṂ  PHAṬ

Dùng Ấn ấn năm chỗ thành Bị Giáp (mặc áo giáp) xong, sau đó tùy ý tắm gội.

 

Lại làm Quán Đảnh. Hai tay, ngón vô danh, ngón út xoa nhau trong lòng bàn tay, nắm lại thành quyền, dựng thẳng hai ngón giữa dính đầu ngón, hai ngón trỏ đè móng hai ngón giữa, hai ngón cái vịn hai ngón vô danh tức thành Quán Đảnh Ấn. Minh rằng:

Nẵng mồ tất đế lị dã địa phệ nghiệt đa nẫm, tát phạ đát tha nghiệt đa nẫm. Hột lị, thiết đà nẵng tỵ dã, ra thấp mi, tỷ sái kế, tỵ tiên dã đát mẫu nỗ để ba, phạ la phạ để, mạt la giả lệ, sa phạ ha

 

Lại dùng Giáp Ấn hộ thân tắm gội. Khi mặc áo thì tụng Minh này:

Úm, hồng sa tra dã, sa hê, hồng, lạc khất xoa, mam, phấn tra

湡 猲 喨幻娭 屹旨 猲 捖朽赩 傋誆

OṂ_ HŪṂ  ŚAṬĀYA-SAHE  HŪṂ  RAKṢA  MĀṂ  PHAṬ

 

Gia trì chỗ ở khiến thành đất Kim Cang không thể hoại. Nơi đất này, tưởng có tòa Kim Cang. Ấn ấy là: Duỗi bằng hai tay, ngửa lòng bàn tay hướng lên trên, tay phải đè tay trái, tụng Minh này:

Úm, hồng phạ nhật ra, sa nễ noan, hồng phấn tra

輆 詶 猲 砉忝 宬屹矧砉梜 猲 傋誆

OṂ_  HĀṂ  HŪṂ, VAJRA- ĀSANAVAT   HŪṂ  PHAṬ

 

Lại dùng Như Lai Sở Sanh Ấn. Nơi tòa Kim Cang này lần lượt an bố chư Phật Thánh Chúng, dùng An gia trì. Ngửa các ngón tay, phải trái xoa nhau bên trong, nắm lại làm quyền, mở thẳng hai ngón út. Tụng Minh này:

Nẵng mồ tát phạ một đà mẫu địa tát phạ nẫm. A mãng la, vĩ ca la đa đế nhĩ nễ, a la thệ, sa phạ ha

矧伕  屹浻 蒤湀 烗囚屹雿觡 唒亙匑 合玸捖 出掙司 唒黑 渢扣

NAMO  SARVA  BUDDHA  BODHISATVĀNĀṂ_ AMALA  VIKARA  TĀT  MIDI  ĀRTHE  SVĀHĀ

Bố trí Thánh Chúng xong, dùng Như Lai Sở Sanh Ấn, tưởng Át Già phụng hiến chư Phật Bồ Tát và Phật Đảnh…. Nếu hay thường làm Pháp này cúng dường, niệm tụng sẽ mau được thành tựu.

 

Lại quán Bất Động Tôn (Acala-nātha) trụ ở Bổn Vị. Dùng Quán Đảnh Ấn Chú trước dâng hiến. Liền tụng Bổn Minh 21 biến xong, đảnh lễ các Thánh Chúng. Dùng Kết Giới An xoay bên trái giải Giới. Lại kết Tam Muội Gia Ấn xong định ý đứng dậy đi đến Tịnh Xá , như thường lễ sám. Đến Đạo Tràng rồi, lấy chày ấn năm chỗ trên thân để trừ cấu, như trước kết Giới gia trì Bổn Tôn, sau đó ngồi yên dùng Như Lai Sở Sanh Ấn dâng Át Già, tụng Bổn Tôn Minh 21 biến như Pháp Quán Đảnh trước cúng dường Bổn Tôn.

 

Ngồi xuống định thân tâm, sau kết Tường (bức vách) các Ấn tức kết Tường Ấn. Hai tay: thẳng hai ngón út dựa bên, co hai ngón vô danh ngón giữa vào trong lòng bàn tay, cong hai ngón trỏ để bên hai ngón giữa như móc câu, co hai ngón cái đè lóng dưới của ngón trỏ, để Ấn trên đảnh, xoay bên phải ba vòng liền thành bức tường Kim Cang chẳng hoại. Minh rằng:

Úm, hồng phạ nhật ra, mạn đồ lê, mãn đà mãn đà, hồng phấn tra

湡 猲 惵忝亙汔同 栱呅栱呅 惵忝 猲 傋誆

OṂ_  HŪṂ  VAJRA-MAṆḌALE  BANDHA  BANDHA  HŪṂ  PHAṬ

 

Lại kết Kim Cang Hỏa Giới Hỏa Diễm Minh này, dùng Ấn gia trì oai đức. Ở bên ngoài bức tường Kim Cang, bốn mặt trên dưới thành đám lửa lớn sáng rực, hết thảy các Chướng không dám đến. Ấn ấy là: Hai tay dựa lưng nhau, mười ngón xoa nhau như đám lửa. Minh rằng:

Úm, hồng phạ nhật ra, nặc phạ lệ, hồng phấn tra

湡 猲 惵忝 捂同 猲 傋誆

OṂ_  HŪṂ  VAJRA-JVALE   HŪṂ  PHAṬ

 

Kết Giới xong rồi; gia trì đồ ăn uống, đèn sáng, hương, hoa…. cúng dường. Ấn ấy là: Chắp tay, mười ngón hơi co khiến móng ngón chạm nhau, sau dùng Ấn Chú ấn tim rồi ngồi Định. Tưởng trong Thế Giới, dưới nước trên bờ sanh ra các thứ hoa và hoa quả, cây ngon tốt. Trong các núi và biển lớn có trân bảo, Ma Ni, hương lạ…. Như mây gom lại cúng dường. Liền tụng Diệu Già Đà gia trì, trong Định cúng dường. Già Đà (Gāthā:bài Kệ) rằng:

Dùng sức Phước Đức của Ta

Sức gia trì của chư Phật

Nguyện đem mây hương hoa này

Tràn đầy khắp các cõi Phật

Cúng dường hết thảy chư  Phật

Với các chúng Đại Bồ Tát

 

Lại cần nên phải suy tư

Bày đủ năm món cúng dường

Khiến cho phước đức tăng thêm

Đầy đủ các nguyện Tất Địa

Hay thành Phật Bồ Đề Đạo

 

Trước nói Đồ Hương Minh Chú

Cúng dường Phật được công đức

Hay trừ trong thân Hành Giả

Các Nhiệt Phiền Não ác độc

Được Nghiệp tịnh, chứng Bồ Đề

Minh rằng:

Nẵng mồ tất đế lị dã na phạ nghiệt đa nẫm, tát phạ đát tha nghiệt đa nẫm. A tam mãng ngạn độ đát mê, tô ngạn độ đát mê,  tô ngạn độ đà phạ để, sa phả ra tứ, nga nga nam, mãng hô nẵng duệ nê ni, tát phạ thấp sa đà di, sa phạ ha

 

Lại nói Hoa Cúng Dường

Phước ban cho Hành Giả

Ba đời các cấu uế

Đều tịnh không còn dư

Quả Phật liền chứng được

Đều do phước nghiệp này

Minh rằng:

Nẵng ma tất để lị dã na phạ nghiệt đa nẫm, tát phạ đát tha nghiệt đa nẫm. Hạ phạ lộ chỉ đa, mãng ha bố sắc bà, phạ ma, sa phạ ha

巧休 榑伏益丫出觡 屹楠凹卡丫出觡 唒惵吐丁眊 亙扣旦廘 惵亙 渢扣

NAMAḤ    STRIYA-DVAGATĀNĀṂ  SARVA TATHĀGATĀNĀṂ _  AVALOKITA  MAHĀ-PUṢPA  VAMA   SVĀHĀ

 

Lại nói phước Thiêu Hương

Hay khiến gia trì này

Nghiệp chướng phiền não hết

Hành Giả tu phước nghiệp

Xa nghe các phương tiện

Thảy đều lại gia trì

Pháp Thân , mây mùi thơm (Hương Khí Vân)

Cúng dường Phật Bồ Tát

Minh rằng:

Nẵng ma tất để lị dã na phạ nghiệt đa nẫm, tát phạ đát tha nghiệt đa nẫm. Úm, a  nghiệt lị, thỉ khí thỉ khí, độ mãng thỉ khí, độ mãng thỉ khí, sa phạ ha

巧休 榑伏益丫出觡 屹楠凹卡丫出觡 湡 唒奄 圬刁圬刁 摍正圬刁 摍正圬刁 渢扣

NAMAḤ    STRIYA-DVAGATĀNĀṂ  SARVA TATHĀGATĀNĀṂ _  OṂ  AGRI  ŚIKHI  ŚIKHI, DUPAṂ-ŚIKHI  DUPAṂ-ŚIKHI   SVĀHĀ

 

Lại nói Ẩm Thực Minh

Cúng Dường Phật công đức

Hay khiến cho Hành Giả

Mau chứng Giải Thoát Môn

Lìa ba khổ cột buộc

Thường nghĩ đến Huệ Mạng

Chứng đầy đủ ba Thân

Minh rằng:

Nẵng ma tất để lị dã na phạ nghiệt đa nẫm, tát phạ đát tha nghiệt đa nẫm. Úm, phạ lân, nẵng đà tứ, mãng ha phạ lệ, sa phạ ha

巧休 榑伏益丫出觡 屹楠凹卡丫出觡 湡 惵雽 叼只 亙扣惵豤 渢扣

NAMAḤ   STRIYA-DVAGATĀNĀṂ     SARVA TATHĀGATĀNĀṂ _  OṂ  BALIṂ  DĀDE  MAHĀ-BALIḤ   SVĀHĀ

  

Lại nói Đèn cúng dường

Sức công đức trang nghiêm

Hay khiến cho Hành Giả

Niệm tụng mau thành tựu

Quả Như Ý Bồ Đề

Quang minh chiếu Pháp Giới

Hay phá trong ba cõi

Hết thảy các chúng sanh

Nghiệp vô minh phiền não

Minh rằng:

Nẵng ma tất để lị dã na phạ nghiệt đa nẫm, tát phạ đát tha nghiệt đa nẫm. A nghiệt đế nhật ra lam đế nễ tỷ dã nhu để thỉ khí, sa phạ ha

 

Trên nói năm Cúng Dường

Đồ, Hoa, Thiêu, Thực, Đăng

Các Chú, tụng tám biến

Hay khiến vật cúng dường

Như may tràn Pháp Giới

Khiến cúng dường đầy đủ

Do oai lực của Minh

Hay thành như vật thật

Cúng dường các Thánh Chúng

Ban phát cho hữu tình

Được thọ dụng như thật

Tụng Minh này tám biến

Do sức lực gia trì

Đủ Đàn Ba La Mật (Dāna-pāramitā: Bố Thí Ba La Mật)

Minh rằng:

Nẵng mồ tát phạ một đà mạo địa tát đát phạ nẫm. Tát phạ tha , khiếm, ô na nga đế, sa phả ra, hứ mam, nga nga nẵng kiếm, sa phạ ha

矧伕 屹浻 蒤湀 悷囚屹班觡 屹湱卡 丈 栥怐包 剉捖 托伐 丫丫矧入 渢扣

NAMO  SARVA  BUDDHA  BODHISATVĀNĀṂ _ SARVATHĀ  KHAṂ  UDGATE  SPHARA  HĪMAṂ   GAGANAKAṂ   SVĀHĀ

 

Sau đó lại suy tư

Phát lời Nguyện chân thật

Tức nói lời như vầy

Do phước Ta tu hành

Khiến các diệu cúng dường

Tràn khắp mười phương giới

Trước hết thảy Thánh Chúng

Nguyện thọ vi diệu cúng

Tụng Minh mà gia trì

Khiến thành Phước chân thật

Minh rằng:

Na ma tát phạ một đà mạo địa tát đát ra nẫm. Tát phạ đát ra tăng câu tát di đa, tỷ nhạ ra thỉ phệ , nẵng ma túy đô đế, sa phạ ha

Lại nên kết Bất Động Tôn Căn Bản Ấn tụng Bổn Minh ba biến, hay làm cho Thánh Giả hoan hỷ gia trì, mau được đầy đủ các Nguyện.

 

Bấy giờ Hành Giả lại nên dùng tâm chận thật suy nghĩ: “Xả bỏ Ngoại Tài chỉ là việc nhẹ nhỏ nhặt. Nay nên xả bỏ Nội Tài tức là thân mạng; cúng dường chư Phật, Bồ Tát, Thánh Chúng” Nên phát Nguyện, nói lời như vầy:”Cúi xin các Thánh Chúng vì con làm Đại Hộ gia trì luôn nhiếp thọ”.

Như vậy thỉnh ba lần thì Thánh Chúng chẳng làm trái lời Nguyện.

Liền sám hối các tội.

Mười nghiệp ác vô thỉ

Thảy nguyện đều tiêu diệt

 

Sau đó lại Hồi Hướng

Chỗ tu Thiện của con

Các công đức niệm tụng

Đều cùng các hữu tình

Hồi hướng quả Bồ Đề

Tụng Minh này gia trì

Khiến Nguyện được thành tựu

Tụng Minh này ba biến

Nẵng ma tát phạ một đà mạo địa tát phạ nẫm. Nẵng mô túy đô đế, mãng ha phạ nhật ra, hê tát phạ, hê đăng ca ra, để sắt xá, tát lật mê la ma đát la, tát lật mê, sát đạt ma noa mãng, địa sắt xá dã, sa phạ ha

 

Lại nên kết Quán Đảnh Ấn trước, tụng Minh tự quán đảnh xong. Lại kết Hư Không Nhãn Ấn hộ tự thân và hộ Bổn Tôn. Ấn ấy là: Chắp tay trống giữa, co hai đầu ngón trỏ sao cho đầu ngón đến lóng thứ nhất của ngón giữa, kèm dựng hai ngón cái liền thành. Tụng Minh này rằng:

Nẵng ma tất để lị dã na phạ nõa nghiệt đế tỵ, tát phạ đát đà nghiệt đa tỵ. Úm, nga nga nẵng, giả nễ, nga nga tam ma , tát phạ đổ lỗ nga đa để, sa ra , tam bà phệ, nhập phạ ra, nẵng mô a già nam, sa phạ ha

巧休 榑伏塶鉺丫包湋 屹湱 凹卡丫包湋

湡 丫丫矧 惵捖 匡朽仞 丫丫矧 屹亙份 屹湱出 栥怐出石州捖 屹帎秪 捂匡 矧伕 唒伕叉觡 渢扣

NAMAḤ  STRIYA-DHVAN-GATEBHYAḤ   SARVA  TATHĀGATEBHYAḤ

OṂ_ GAGANA  VARA  LAKṢANE _ GAGANA  SAMAYE _ SARVATĀ  UDGATA  ABHISĀRA  SAṂBHAVE  JVALA_ NAMO  AMOGHĀNĀṂ _ SVĀHĀ

 

Tụng Minh kết Ấn hộ thân xong. Tức ngửa mở Ấn này hướng lên trên như dạng nâng đỡ liền thành Phụng Niệm Châu Ấn, tức tụng Minh này dùng gia trì, niệm tụng mau thành tựu. Minh rằng:

Nẵng mồ phạ nhật la mục khế, tát phạ đát tha nghiệt đế tỳ dữu, bà nga noan đặc phạ tỳ dược .

Đát nễ dã tha: kiểu lợi ngạn đà lợi, chiến trà lý, ma đăng kỳ, tân nga lý, đát tha nghiệt đa vi duệ sử đa trà để, hồng, nhập-phạ lý đa, đế thệ , y năng ca ra diễm, câu lỗ, sa phạ ha

 

Lại kết Pháp Giới Sanh Ấn tự gia trì khiến các chướng không sanh. Ấn ấy là: Dùng hai ngón trỏ, hai ngón vô danh co vào trong lòng bàn tay, mặt ngón móc nhau, thẳng hai ngón cái, hai ngón giữa, đầu dựa nhau mở. Đem Ấn an ở vai trái, tiếp bên phải rồi đưa lên đảnh xả, mỗi chỗ để Ấn tụng một biến Minh rằng:

Nẵng mồ tát phạ một đà mạo địa tát đát phạ nẫm. A, tát phạ tha, tát phạ đát ra lộ kế, sa phạ ha

矧伕 屹浻 蒤湀 悷囚屹班觡 嫙 屹湱卡 屹湱氛吐了 渢扣

NAMO  SARVA  BUDDHA  BODHISATVĀNĀṂ _ AḤ   SARVATHĀ   SARVA  TRALOKE  SVĀHĀ

 

Lại kết Hư Không Nhãn Ấn trước, tụng Minh bảy biến (còn gọi là Bộ Tâm). Tụng xong, chân thật quán chư Phật Bồ Tát tràn đầy cả hư không, Bổn Tôn Thánh Chúng ở trước mặt, an Tâm định Ý, hai tay cầm xâu chuỗi để ở tim niệm tụng, biến số tùy ý cho đến khi mỏi mệt. Mỗi ngày ba thời niệm tụng không được gián đoạn, biến số không được dưới 108 biến. Niệm tụng đủ số xong, liền tụng Hư Không Nhãn Minh gia trì, kết hộ Niệm Châu (xâu chuỗi) rồi để lại chỗ cũ.

Lại kết Ấn tụng Bách Tự Minh gia trì tự thân khiến mau thành tựu. Minh rằng:

Úm, a tam ma tam ma, tam mạn đà đổ na đa đát phạ tất để, xã tát nễ, hạ ra hạ ra ma nõa, sa ma nõa, vi nga đa, một đà, đạt ma đế, sa ra sa ra, tam ma phạ ra, hà ra hà ra, đát ra dã, đát ra dã, ca na ca na, ma hạ mạt la, lộ khất xoa nễ, nhập phạ ra nhập phạ ra, na sa già lệ, sa phạ ha

Tụng Bách Tự gia trì xong, lại tưởng chỗ quán Bổn Tôn lúc trước, chư Phật Thánh Chúng đều yên lặng ở trước mặt nhiếp thọ cho Ta. Liền nên như trước, bày biện cúng dường đầy đủ các món, trong hư không hiện hết thảy các món cúng dường Thánh Chúng xong. Sau đó nên chí Tâm hồi hướng, phát Nguyện. Nói lời như vầy:

Nguyện nơi con tu hành

Hết thảy các nghiệp Thiện

Sức niệm tụng gia trì

Ban cho các hữu tình

Ra khỏi khổ ba cõi

Mau được chứng Bồ Đề

 

Hồi hướng, phát nguyện xong. Lại kết các Giới Ấn trên, xoay bên trái ba vòng liền giải Giới.Lại kết Quán Đảnh Ấn lúc trước, thẳng hai ngón cái dựa đầu nhau, liền tụng Đăng Diễm Như Lai Minh, đem Ấn xoay bên trái thì hết thảy các Thánh Chúng đều trở về Tịnh Độ của mình. Minh rằng:

Nẵng mồ tất đế lị dã na phạ nỗ nga đa nẫm. Úm, hột lị

巧伕 榑伏塶鉺丫出觡 湡 猭

NAMO   STRIYA-DHVAN-GATĀNĀṂ  _  OṂ  HRĪḤ

 

Lại kết Tam Muội Gia lúc trước, đảnh lễ chư Phật Thánh Chúng rồi đứng dậy ra khỏi Đạo Tràng, đọc tụng Đại Thừa Hoa Nghiêm, các Kinh Điển….. tùy ý đi kinh hành.

 

Hành Giả nếu tự ăn cơm và các thứ thuốc, nên dùng Minh này gia trì đồ ăn tám biến, sau đó lấy ăn thì các loài gây chướng không thể gây hại. Minh rằng:

Nẵng ma tát phạ một đà mạo địa tát đát phạ nẫm. Úm, phạ lam na ni đế nhu mãng lợi nễ, sa phạ ha

矧休 屹浻 蒤湀 悷囚屹班觡 湡 惵銃 叼只 包冗 交印郜 渢扣

NAMAṂ   SARVA  BUDDHA  BODHISATVĀNĀṂ _OṂ  VALIṂ  DĀDE   TEJO  MĀLINI   SVĀHĀ

 

Hành Giả nếu tu hành, thường hay cúng dường, mỗi ngày khi ăn uống đều lấy ra một ít để trong một cái bát riêng, kết Thánh Giả Bổn Kiếm Ấn gia trì đồ ăn trên bảy lần rồi đem để ở chỗ sạch sẽ, chí tâm cúng dường. Ấn ấy là: Tay phải nắm Kim Cang Quyền, dựng thẳng  ngón giữa ngón trỏ;  ngón cái ở bên cạnh ngón vô danh gia trì đồ ăn bên trên. Minh rằng:

Nẵng mồ tam mãn đa phạ nhật ra nõa. Đát ra tra, a mục già chiến nõa, ma ha rô sát nõa, sa phả tra dã, hồng, đát ra ma dã, đát ra ma dã,  hồng, đát ra tra, hàm mam.

矧休 屹亙阢 惵忠鉔  泣誆 唒伕千 弋汔 亙扣 刎好仕 剉誆傂 猲 泣亙傂 泣亙傂 猲 泣誆 詶 赩

*) NAMAḤ  SAMANTA-VAJRĀṆĀṂ_ TRĀṬ_ AMOGHA-CAṆḌA  MAHĀ-  ROṢAṆA  SPHAṬYA  HŪṂ  TRĀMAYA  TRĀMAYA  HŪṂ  TRĀṬ  HĀṂ  MĀṂ

 

Đã dùng đồ ăn cúng dường Thánh Giả thời Tôn này có Đại Nguyện: “Đại Bi, xả thân phụng trì hết thảy người trì tụng, cũng như là đầy tớ ” Hiện tướng nheo một mắt, khi ăn, Tâm không quên “Ta thường ngày đêm theo bên cạnh để ủng hộ, lại tùy ý mau được thành tựu”.

 

Hành Giả nếu ban đêm khi ngủ nghỉ. Trước tiên kết Tịnh Thất Trang Nghiêm Ấn, xoay lưng tay trái đè ở trái tim, sau xoay tay phải để ở đảnh, lại chia hai tay ra chà lần xuống dưới, tụng Minh rằng:

Na ma tất đế lị dã na phạ nỗ nga đa nẫm, tát phạ đát tha ngiệt đa nẫm. Ma hạ tam ma dã, nghiệt đế, tam ma, nghiệt ra ma ma tha nghiệt ra ma, đát ra lộ kế kế đạt ma đà phạ điếm đa tăng già đế, sa phạ ha

 

Tịnh gia trì xong. Liền chắp hai tay lại, duỗi hai cánh tay ra để ở đảnh, hướng phương Đông, mặt chạm đất, lại duỗi hai chân, chí thành sám hối (quỳ thẳng lưng). Khi lễ thời quán tưởng hết thảy chư Phật Bồ Tát đều ở tại Bổn Thổ, nói lời như vầy: “Nay con bỏ thân này, làm tôi tớ cúng dường phụng trì hết thảy Phật, Cúi xin thương xót, nhiếp thọ cho con được thành tối thượng”. Như vậy bạch ba lần, sau đó tùy ý ngủ nghỉ, thường niệm Minh tương tác, mau khởi ý.

 

Lại Bất Động Tôn Pháp Phẩm ghi rằng: “Đức Phật nói: Bất Động Sứ Giả hay lợi ích thành tựu tất cả sự nghiệp”

 

 Hành Giả nếu muốn tu hành làm các Pháp. Trước phải tụng đủ mười vạn biến xong, tức vào ngày tám (8) hoặc ngày 15, một ngày một đêm làm cúng dường lớn. Ở trước Tượng dùng cây Khổ Luyện 1008 cái trộn bơ mà thiêu đốt, một biến thiêu đốt một cây, đủ 1008 biến xong, sau đó làm các Pháp đều thành tựu. Hành Giả có nói ra lời nào thì mọi người đều kính trọng không dám trái lệnh. Nếu muốn cột trói, hỏi các việc, sai khiến làm hư hoại thì tùy theo ý đều được.

Lại vào ngày Nguyệt Thực, lấy phân bò chưa rớt xuống đất, tô đắp Mạn Đà La, tùy ý lớn nhỏ. Trên Đàn rải các thứ hoa, trong Đàn để  tráp Kinh Đại Bát Nhã, lấy váng sữa của con bò, mẹ con đồng màu, đựng trong cái chén đồng, lấy cây Khư Đà La như cây tăm xỉa răng dài khoảng 12 ngón tay, ở trước Đạo Tràng gia trì , niệm tụng không hạn biến số khiến ba tướng hiện ra, khi hết Nguyệt Thực liền ngưng.

Lại ở trên đỉnh núi, xoa tô Đàn, nhịn ăn niệm tụng đủ mười vạn biến tức thấy tất cả Phục Tàng trong lòng đất.

Lại có Pháp. Lấy sữa, liên tục ném vào trong lửa, Hộ Ma niệm tụng một ngàn biến thì hay trừ tật bệnh.

Lại lấy Cu Lậu Thảo trộn bơ, lạc, Mật…Hộ Ma mãn một vạn biến thì hay trừ đại tật bệnh.

Lại lấy hoa sen trộn tô, mật, lạc… bỏ vào trong lửa, tụng mãn một vạn biến sẽ được Liên Hoa Cát Tường Thiên Nữ ban cho các nguyện

Lại đến sông biển, lội xuống nước sâu đến rốn , tụng ba mươi vạn biến thì được Vĩ Sa Gia (Viṣaya: cảnh giới)

Lại có Pháp. Lấy các thứ hoa ném vào trong lửa thiêu đốt, tùy theo màu của hoa, được quần áo y như màu hoa.

Lại thiêu đốt Ngũ Cốc sẽ được lúa gạo, tùy ý thọ dụng

Lại lấy cây Vĩ La Phạ ném vào trong lửa thiêu đốt, tụng mãn mười vạn biến liền được  vua chúa  kính yêu.

Lại lấy cây Tất Lị Thương Ngung ném vào trong lửa thiêu đốt sẽ khiến mọi người kính yêu.

Thiêu đốt Xỉ Mộc liền được vô lượng tôi tớ (bộc tòng)

Thiêu đốt Đại Mạch liền làm Trưởng Giả.

Các Pháp trên đều niệm tụng đủ mười vạn biến.

 

Lại nói Pháp vẽ tượng Bất Động Tôn. Dùng lụa sạch đẹp không có lông tóc, vẽ Bất Động Tôn mặc quần màu đất đỏ, xõa lọn tóc xuống bên trái, mắt ngó nghiêng, tay trái cầm Kiếm, tay phải cầm sợi dây (quyến sách), ngồi trên hoa sen báu, chau mày nhăn mặt giận dữ, làm tướng Hàng Tam Thế (Trailokya-vijaya).

Như vậy vẽ xong, đem Tượng đến bên bờ sông biển, như Pháp xoa tô Đàn, an Tượng. Hành Giả cũng mặc áo màu đỏ, tâm không tham đắm, lặng lẽ an tâm, xin ăn mà sống. Ở trước Tượng tụng đủ 50 vạn biến liền ở trong ban đêm, lấy Chiêm Mạt một vạn đoạn, mỗi đoạn mỗi biến ném vào trong lửa mà thiêu đốt hết thì Bất Động Tôn liền hiện thân làm cho Hành Giả đầy đủ mọi điều mong cầu, tự thân Hành Giả là Như Lai Sứ Giả, chứng Tam Ma Địa, đồng địa vị của Bồ Tát.

 

Lại muốn hàng phục hết thảy người ác. Lấy vải trong rừng Thi Đà, vẽ Bất Động Tôn. Dùng máu của mình mà tô Tượng. Để Tượng hướng Tây, Hành Giả ngồi hướng Đông niệm tụng. Mỗi ngày ba thời tắm gội, mặc quần áo ướt, trước Tượng niệm tụng mãn mười vạn biến xong, tức mọi việc làm đều tùy ý thành tựu, mỗi ngày đều ban cho Quỷ Thần đồ ăn uống.

Lại có Pháp. Vào ngày tám (8) của kỳ Hắc Nguyệt, ở Hàn Lâm (rừng Thi Đà) lấy Mẫu Gia Ma Nỗ Sa, ngồi trên đó niệm tụng mãn mười vạn biến thì Ma Nỗ Sa (thây chết) liền cử động, không được sợ hãi, Ma Nỗ Sa há miệng nhả ra hoa sen, liền cắt lấy sẽ hay làm cho tự thân như Đồng Tử mười sáu tuổi, tóc như hoa sen, bay lên  hư không đến cõi trời Phạm Thiên, làm Đại Minh Vương Chủ.

Lại ở trước Tượng, mỗi ngày ba thời niệm tụng, tùy sức cúng dường, đốt Trầm Thủy Hương như vậy cúng dường mãn sáu tháng không ngừng liền được Vĩ Sa Gia Chủ.

Lại có Pháp. Muốn phá quân trận, gia trì tự quân tinh (lá cờ) một vạn biến rồi cầm đi, đến trước trận thì quân trận liền bị phá tan bỏ chạy

Lại muốn cột trói quân lính bên kia. Ở lá cờ vẽ Bất Động Tôn có bốn mặt bốn tay, thân màu vàng, trên dưới đều ló răng nanh, tướng giận dữ đáng sợ, quanh thân rực lửa, hình trang như Trời. Hành Giả cầm cây cờ đến chỗ quân giặc, lại tưởng Sứ Giả dùng dây cột trói quân chúng ắt quân giặc đứng yên không động.

Lại có Pháp. Muốn khiến quân giặc tự đánh nhau rồi rút lui, lấy lông chim Quạ  già, Cú, Cáp… tụng Minh gia trì rồi ném vào trong lửa., thiêu đốt mãn một ngàn biến thì quân giặc tự đánh lẫn nhau.

Lại có Pháp. Muốn Xã Đổ Rô (Śatrū: Oan Gia) chết, lấy lúa nếp tụng Chú gia trì rồi ném vào trong lửa, lại tưởng Xã Đổ Rô ấy bị Sứ Giả dùng dây cột trói đem về phương Nam,  buồn khổ thổ huyết mà chết. Tộc loại của nhóm ấy đều chẳng được khỏi bệnh, không có người nào tồn tại.

Lại có Pháp. Muốn khiến chủ soái của quân địch bị chết; lấy đất, muối, sáp, lá Khổ Luyện… giã nhỏ trộn lại làm bùn đất, đắp tượng kẻ ấy, để trên đất, tụng Chú gia trì rồi chặt đứt ắt kẻ kia liền chết.

Lại có Pháp. Muốn khiến quân giặc hết lương thực bị đói khổ; lấy bông lúa gia trì thì quân ấy liền hết lương thực.

Lại có Pháp. Muốn quân giặc đều hàng phục, kết Bất Động Tôn Nhãn Ấn, đọc chữ Hồng (HŪṂ) một cách giận dữ, tưởng Thánh Giả sai khiến Quỷ Thần cột trói dẫn quân kia đến, ắt quân giặc ấy liền hàng phục.

Lại có Pháp. Muốn được Đại Ái Lạc, lấy bảy thứ muối làm hình kẻ kia, chặt từng đoạn, niệm tụng bảy biến thì người kia liền vui vẻ yêu kính.

Lại lấy hoa Câu Tô Ma (Kusuma) thiêu đốt, tụng Chú mười vạn biến sẽ được nữ Dạ Xoa tìm đến, trong ba việc mong cầu đều được.

Lại lấy hoa Mạn Đà La (Māndara), xưng tên kẻ kia, gia trì tức khiến hoang loạn (điên cuồng).

Lại lấy muối gia trì rồi thiêu đốt thì Thiên Nữ liền đến, tùy ý sai bảo.

Lại gia trì An Tức Hương rồi thiêu đốt, liền được vua quan nhớ nghĩ đến.

Lại nói Pháp vẽ tượng: Ở giữa vẽ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, bên trái vẽ Mạn Thù Đồng Tử, bên phải vẽ Chấp Kim Cang Bồ Tát với mặt hơi cười, tay cầm chày Kim Cang. Ở dưới Chấp Kim Cang vẽ Bất Động Tôn với các thứ trang nghiêm. Ở trước Tượng tụng 50 vạn biến, sau đó làm hết thảy sự nghiệp đều được tùy ý.

Lại có Pháp. Lấy tro thiêu của xác chết, tụng bảy biến gia trì rồi đem cho kẻ kia, lền được yêu thích.

Lại có Pháp. Lấy Ngưu Hoàng gia trì bảy biến rồi chấm lên trán sẽ hay khiến mọi người nhìn thấy đều kính trọng, Tỳ Na Dạ Ca (Vināyaka) không thể gây tổn hại, thành tựu rực rỡ.

Lại ở thân của mình, an bố chữ Phạn thì chúng La Sát, loài gây chướng kia trong khoảng một trăm Do Tuần thảy đều bỏ chạy .

Lại có Pháp. Nếu có người bị rắn cắn, trải qua sáu tháng chưa hết bệnh. Tụng Chú gia trì , ở trên cánh tay của người ấy vẽ Kiếm Khế, liền khỏi bệnh.

Lại có Pháp. Vẽ Luật Ca Đại Xà quấn trên cây kiếm, quanh kiếm có lửa cháy, tụng Đại Minh gia trì mãn một ngàn biến, dùng chỉ vào người bệnh tức tự nói ra. Nếu tụng gia trì vào người bệnh 108 biến tức thường được Thánh Giả ủng hộ. Nếu mỗi ngày gia trì đồ ăn dư rồi đem để ở chỗ sạch cúng dường Sứ Giả sẽ thường được như nguyện.

Lại có Pháp. Vẽ Bất Động Tôn mặc áo màu đất đỏ, xõa lọn tóc bên trái, mắt ngó nghiêng, hình Đồng Tử, tay phải cầm chày Kim Cang để ở trái tim, tay trái cầm cây gậy báu, mắt hơi đỏ, ngồi trên hoa sen, tướng giận dữ, khắp thân rực lửa. Ở trước Tượng, kết Ấn mình ưa thích, niệm tụng thì hết thảy đều được thành tựu. Y theo trước niệm tụng sẽ bay lên hư không, ẩn hình, tất cả việc mong ước đều được tùy ý thành tựu. Nếu không có Tượng thì ở một mình nơi yên lặng, hoặc trong chùa, hoặc trong động, núi… xa lìa nơi ồn ào , cầu hết thảy mọi việc đều được thành tựu.

Lại có Pháp. Gia trì vào loài gây bệnh sốt rét khiến chúng bị cột trói, tự nói ra.

Lại gia trì vào cái kiếng, ắt Thánh Giả hiện trong kiếng, hỏi việc gì đều nói

Lại dùng Đồng Nam, Đồng Nữ khiến tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo mới rồi đi vào trong Đàn, triệu thỉnh Thánh Giả vào Đạo Tràng gia trì. Hỏi Đồng Tử kia ắt hết thảy mọi việc đều được.

Lại có Pháp. Muốn thành tựu Pháp của Hệ Ca La, vào giữa trưa ngày một của kỳ Bạch Nguyệt, ở trước Tượng cúng dường các thứ hương hoa không ngừng, tụng Đại Minh 108 biến, tưởng niệm trong Đàn chư Phật Bồ Tát nhiếp thọ. Mỗi ngày đều như vậy niệm tụng, mãn một tháng. Lại lấy Khổ Luyện, Mộc Hương, lại lấy Át Ca Mộc bôi bơ lên đó rồi hòa với hạt cải trắng gia trì, ném vào trong lửa thiêu đốt. Từ giờ Tuất đến giờ Tý cho đến giờ Dần thì Hệ Ca La liền đến nói với Hành Giả rằng: “Cầu Ta làm việc gì?”, nhiếp thọ Hành Giả sau đó luôn theo bên cạnh Hành Giả tùy theo Hành Giả mà làm, tùy thuận cung cấp điều cần dùng; muốn lấy tăm xỉa răng, lấy nước xúc miệng… thường luôn ở hai bên cho đến bảo lên cung Trời lấy Thiên Nữ thì cũng đem đến.

Lại nói Căn Bản Ấn Minh. Căn Bản Ấn ấy là: hai tay, ngón giữa xoa nhau bên trong làm móc câu, hai ngón trỏ dựa cạnh nhau, hai ngón cái đều vịn trên móng ngón vô danh.

 

Minh rằng:

Na ma tam mạn đà phạ nhật ra nõa. Hồng, vĩ cát lị đa, vĩ ca la, ma hạ tất-lệ đa, dĩ sắt xá, khế nộ thỉ sắt xá, hạ ra áng đát la, ma ra đà ra giả, đốt la mục khư, nhập phạ la, tỷ lộ la đọa kế xả, hồng, phạ nhật la, nghiệt la, hồng phấn tra.

矧休 屹亙阢 惵忠鉔 猲 合邟出 合乙捖 亙扣祁眊 合炖 卜手琬蚚 玅扣捖 尃誂 交匠四捖傂 旄加戢几 捂匡 哠扑吐檄 了喨 猲 惵忠奇 猲 傋誆

NAMAḤ  SAMANTA-VAJRĀṆĀṂ _ HŪṂ  VIKṚTĀ VIKĀRA  MAHĀ-  PRETA  VIṢṬHA  KHEṬOCCHIṢṬA   ĀHĀRA  INDRA-MĀLĀ-DHĀRAYA   CATUR-MUKHA  JVALA  KAPILORDHVA-KEŚA  HŪṂ  VAJRA-AGRA  HŪṂ  PHAṬ

    

Lại nói Tâm Ấn. Hai ngón út, hai ngón vô danh xoa nhau bên trong, dựng thẳng hai ngón giữa dựa đầu nhau, hai ngón trỏ để sau lưng ngón giữa như móc câu, hai ngón cái vịn lóng giữa của ngón giữa. Minh rằng:

Nẵng ma tam mạn đa phộc nhật la nõa. Đát ra tra, a mẫu già chiến nõa, ma ha rô sát nõa, sa phả tra dã, hồng , đát ra ma dã, đát ra ma dã, hồng, đát ra tra, hàm mam.

矧休 屹亙阢 惵忠鉔 泣誆 唒伕千 弋汔 亙扣 刎好仕 剉誆傂 猲 泣亙傂 泣亙傂 猲 泣誆 詶 赩

*) NAMAḤ  SAMANTA-VAJRĀṆĀṂ_ TRĀṬ_ AMOGHA-CAṆḌA  MAHĀ-  ROṢAṆA  SPHAṬYA  HŪṂ  TRĀMAYA  TRĀMAYA  HŪṂ  TRĀṬ  HĀṂ  MĀṂ

 

Lại nói Kiếm Ấn. Tay trái: ngón cái vịn móng ngón vô danh, ngón út; thẳng ngón trỏ, ngón giữa. Tay phải: đưa ngón trỏ, ngón giữa vào lòng bàn tay trái rồi nắm lại thành quyền, ngón cái vịn trên móng ngón vô danh và ngón út. Lại nói: co ngón trỏ trái vịn ngón cái như cái vòng.

 

Minh rằng:

Úm, na giả la gia nõa, một đà, chế tra ca, hồng hồng, khư  hê khư hê, y năng ngư lý hê mam, hạ lị vĩ sa tát bát đa, ác , hột lý, hạ , phấn tra, a lị dã giả la, a nghiệt xa, khẩn chỉ la dạ tư , y năng  ca lị dã, câu rô , nẵng ma, sa phạ ha

湡 唒旄匡 乙仕 蒤湀中垺哠 猲猲 几扛几扛 崷句 鉎托仟 扣捖 合好 厘垺 哸 岝 猲 傋誆 玅搜弋匡 玅丫猌 寣才全傂帆 崷句 乙新 乃冰 矧休 渢扣

OṂ_  ACALA-KĀṆA  BUDDHA-CEṬAKA  HŪṂ  HŪṂ  KHAHI  KHAHI  IDAṂ  GṚHĪTAṂ  HĀRA  VIṢA  SPHOṬA  AḤ  HṚ  HŪṂ  PHAṬ_  ĀRYA-ACALA  ĀGACCHA  KIṂCIRĀYASI    IDAṂ  KĀRYAṂ  KURU  NAMAḤ  SVĀHĀ

   

Lại nói Kim Cang Chùy Ấn. Tay phải: ngón cái vịn móng ngón trỏ như cái vòng, mở rộng ba ngón kia, cũng gọi là Thành Tựu Nhất Thiết Sự Nghiệp Ấn.

 

Minh rằng:

Nẵng mồ tam mạn đa phộc nhật ra nõa. Úm, a giả ra ca nõa giả lỗ, sa đà dã, hồng phấn tra

矧休 屹亙阢 惵忠鉔 湡 唒旄匡 乙仕 乃冰 州叻傂 渢扣

NAMAḤ  SAMANTA-VAJRĀṆĀṂ_ OṂ  ACALA-KĀṆA  KURU  SĀDHAYA   SVĀHĀ

   

Lại nói Bảo Sơn Ấn. Hai tay, mười ngón xoa nhau bên trong, nắm lại thành quyền

 

Lại nói Đầu Ấn.  Tay trái: bốn ngón nắm ngón cái làm quyền, để trên đầu

Lại nói Thùy Biện Phát Phát Ấn. Hai ngón vô danh xoa nhau bên trong, thẳng hai ngón giữa dựa đầu nhau, hai ngón trỏ đều vịn móng ngón giữa, đưa hai ngón cái vào khoảng giữa  ngón vô danh và ngón út sao cho hợp móng dựa lưng nhau, hai ngón cái hợp thẳng. Đem Ấn  để trên góc của cái đầu liền thành. Lại dùng Ấn này quay đầu hướng vào bên trong duỗi xuống để trên trán liền thành Thánh Giả Ấn

Lại nói Khẩu Ấn. Hai ngón út xoa nhau bên trong, dựng hai ngón vô danh đè trên hai ngón giữa dựa cạnh nhau, hai ngón trỏ vịn móng ngón giữa, hai ngón cái hướng ra ngoài đứng thẳng để trên miệng.

 

 

Lại nói Giáp Ấn. Chắp tay lại, hai ngón trỏ, hai ngón vô danh dựa lưng nhau; mở thẳng hai ngón cái, hai ngón giữa, hai ngón út

Lại nói Sư Tử Phấn Tấn Ấn. Chắp tay lại, co hai ngón vô danh vào trong lòng bàn tay dựa lưng nhau, co hai ngón trỏ sau hai ngón giữa như móc câu, hướng hai ngón cái, hai ngón út thẳng ra ngoài. Tức làm như thân bước tới, thân không nóng nảy, nhiễu Đàn tụng Chú.

Lại nói Hỏa Diệm Ấn. Tay trái: co ngón cái đè ngón giữa, duỗi thẳng ba ngón kia sao cho đầu ngón trụ trong tâm lòng bàn tay phải.  Tay phải mở rộng năm ngón

Lại nói Chế Hỏa Diệm Ấn. Hai tay đều nắm quyền, đưa hai ngón cái lòi ra giữa hai ngón trỏ, cùng hợp quyền.

 

 

Lại nói Thương Khư Ấn. Đem hai ngón út xoa nhau bên trong, hai ngón giữa, hai ngón vô danh dựa đầu nhau, duỗi thẳng ngón trỏ trái để ở lưng ngón giữa, co ngón trỏ phải vịn lóng trên của ngón giữa, hai ngón cái đều vịn ngón vô danh. Các An từ Bảo Sơn trở xuống lấy trong Bổn Bộ, các Chú tùy ý thích mà gia trì đều hiệu nghiệm thành tựu

Lại nói Sách Ấn. Hai nay đều nắm Kim Cang Quyền đều dựng thẳng ngón trỏ, đưa ngón trỏ phải vào trong lòng bàn tay trái nắm lại.

 

 

Dựng Ấn ở trái tim, tụng Chú gia trì.

Nẵng ma tam mãn đa phạ nhật ra nõa. A ba xá bạn đồ nẵng, hồng phấn tra

矧休 屹亙阢 惵忠鉔 唒 扒喨 乓堲矧 猲 傋誆

NAMAḤ  SAMANTA-VAJRĀṆĀṂ_ A  PĀŚA  BHAṂJANA  HŪṂ  PHAṬ    

 

ĐỂ LỊ TAM MUỘI GIA BẤT ĐỘNG TÔN OAI NỘ VƯƠNG SỨ GIẢ

NIỆM TỤNG PHÁP

_MỘT QUYỂN (Hết)_

 

Hiệu chỉnh xong vào ngày 10/07/2012

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567