Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

25. Kinh Lõa Hình Phạm Chí

12/03/201211:11(Xem: 5774)
25. Kinh Lõa Hình Phạm Chí

KINH TRƯỜNG A HÀM

Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm
Việt dịch: Thích Tuệ Sỹ

PHẦNIII

25.KINH LÕA HÌNH PHẠM CHÍ

Tôinghe như vầy:

Mộtthời, Phật ở tại nước Ủy-nhã, trong rừng Kim bàn Lộcdã, cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươingười.

Bấygiờ, có một Phạm chí lõa hình họ là Ca-diệp đi đến chỗThế Tôn, sau khi chào hỏi xong, ngồi xuống một bên. Phạmchí lõa hình Ca-diệp bạch Phật rằng:

“Sa-mônCù-đàm chê bai tất cả các pháp tế tự; mắng những ngườikhổ hạnh là dơ dáy. Cù-đàm, nếu có người nói rằng: Sa-mônCù-đàm chê bai tất cả các pháp tế tự; mắng những ngườikhổ hạnh là dơ dáy. Đó có phải là pháp ngữ, pháp phápthành tựu, không phỉ báng Sa-môn Cù-đàm chăng?”

Phậtnói:

“Ca-diệp,người kia nói: Sa-môn Cù-đàm chê bai tất cả các pháp tếtự; mắng những người khổ hạnh là dơ dáy. Đó không phảilà lời nói đúng pháp, không phải pháp thành tựu, là phỉbáng Ta, không phải là lời nói thành thật. Vì sao? Này Ca-diệp,Ta thấy, trong những người khổ hạnh kia, có người khi thânhoại mạng chung đọa vào địa ngục; lại thấy có ngườikhổ hạnh khi thân hoại mạng chung được sanh thiên, sanh chỗthiện. Hoặc thấy người khổ hạnh ưa làm việc khổ hạnh,khi thân hoại mạng chung, sanh vào địa ngục. Hoặc thấy ngườikhổ hạnh ưa làm việc khổ hạnh, khi thân hoại mạng chung,sanh thiên, sanh chỗ thiện. Ta đối với trường hợp thọbáo với hai thú hướng ấy, thấy hết biết hết, làm saocó thể Ta chỉ trích người tu khổ hạnh cho là dơ dáy? ĐiềuTa rõ ràng nói là phải, người kia nói là không phải. ĐiềuTa rõ ràng nói không phải, người kia nói là phải.

“NàyCa-diệp, có pháp đồng với Sa-môn, Bà-la-môn. Có pháp khôngđồng với Sa-môn, Bà-la-môn. Ca-diệp, pháp nào không đồng,Ta bỏ qua, vì pháp ấy không đồng Sa-môn, Bà-la-môn vậy.

“NàyCa-diệp, những người có trí kia quán sát như vầy: đốivới pháp bất thiện, nặng nề ô trược, tối tăm, khôngphải là pháp Hiền thánh, giữa Sa-môn Cù-đàm và các tôngsư dị học kia, ai là người có khả năng diệt trừ phápnày? Ca-diệp, người có trí kia khi quán sát như vậy, liềnthấy biết như vầy: duy chỉ Sa-môn Cù-đàm có khả năng diệttrừ pháp ấy. Ca-diệp, người có trí kia khi quán sát nhưvậy, suy cầu như vậy, luận thuyết như vậy, Ta ở trong đócó tiếng tăm.

“Lạinữa, Ca-diệp, vị có trí kia quán sát như vầy: đệ tử củaSa-môn Cù-đàm, đối với pháp bất thiện, nặng nề ô trược,tối tăm, không phải pháp Hiền thánh; hay đệ tử các tôngsư dị học kia đối với pháp bất thiện, nặng nề, ô trược,tối tăm, không phải pháp Hiền thánh; ai có khả năng diệttrừ pháp này? Ca-diệp, vị có trí kia quán sát như vậy, liềnthấy, biết như vầy: duy chỉ đệ tử của Sa-môn Cù-đàmcó khả năng diệt trừ pháp ấy. Ca-diệp, vị có trí kia khiquán sát như vậy, suy cầu như vậy, luận như vậy, đệ tửTa có tiếng tăm.

“Lạinữa, Ca-diệp, vị có trí kia quán sát như vầy: Sa-môn Cù-đàm,đối với pháp thiện, thanh bạch, vi diệu và là pháp Hiềnthánh; hay các tông sư dị học kia, đối với pháp thiện,thanh bạch, vi diệu và là pháp Hiền thánh; ai là người cókhả năng làm lớn rộng để tu hành? Ca-diệp, vị có tríkia quán sát như vậy, liền thấy biết như vầy: duy chỉ cóSa-môn Cù-đàm có khả năng làm lớn rộng, tu hành pháp ấy.Ca-diệp, người có trí kia khi quán sát như vậy, suy cầu nhưvậy, luận thuyết như vậy, Ta ở trong đó có tiếng tăm.

“Lạinữa, Ca-diệp, vị có trí kia quán sát như vầy: đệ tử củaSa-môn Cù-đàm, đối với pháp thiện, thanh bạch, vi diệuvà là pháp Hiền thánh; hay đệ tử của các tông sư dị họckia, đối với pháp thiện, thanh bạch, vi diệu và là phápHiền thánh; ai là người có khả năng làm lớn rộng, tu hành?Ca-diệp, vị có trí kia quán sát như vậy, liền thấy biếtnhư vầy: duy chỉ có đệ tử của Sa-môn Cù-đàm có khảnăng làm lớn rộng, tu hành pháp ấy. Ca-diệp, người có tríkia khi quán sát như vậy, suy cầu như vậy, luận thuyết nhưvậy, đệ tử Ta ở trong đó có tiếng tăm.

“Ca-diệp,có đạo, có tích, để Tỳ-kheo ở trong đó tu hành mà tựmình thấy, tự mình biết: Sa-môn Cù-đàm nói đúng thời,nói sự thật, nói có nghĩa, nói đúng pháp, nói đúng luật.

“Ca-diệp,thế nào là đạo, thế nào là tích, để Tỳ-kheo ở trongđó tu hành mà tự mình thấy, tự mình biết: Sa-môn Cù-đàmnói đúng thời, nói sự thật, nói có nghĩa, nói đúng pháp,nói đúng luật? Này Ca-diệp, ở đây Tỳ-kheo tu niệm giácý, y tịch diệt, y vô dục, y xuất ly. Tu pháp, tinh tấn, hỷkhinh an, định, xả giác ý, y tịch diệt, y vô dục, y xuấtyếu. Ca-diệp, đó là đạo, đó là tích, để Tỳ-kheo ởtrong đó tu hành mà tự mình thấy, tự mình biết: Sa-môn Cù-đàmnói đúng thời, nói sự thật, nói có nghĩa, nói đúng pháp,nói đúng luật.”

Ca-diệpnói:

“Cù-đàm,duy chỉ đạo ấy, tích ấy, Tỳ-kheo ở trong đó tu hành màtự mình thấy, tự mình biết: Sa-môn Cù-đàm nói đúng thời,nói sự thật, nói có nghĩa, nói đúng pháp, nói đúng luật.Nhưng với khổ hạnh ô uế, có trường hợp được gọi làBà-la-môn, có trường hợp được gọi là Sa-môn.

“Nhữngkhổ hạnh ô uế nào, mà có trường hợp được gọi là Bà-la-môn,có trường hợp được gọi là Sa-môn?

“ThưaCù-đàm, đó là: khỏa thân, cởi bỏ y phục, rồi lấy tayche; không nhận đồ ăn từ nồi chảo; không nhận đồ ăntừ chậu nước; không nhận đồ ăn giữa hai vách tường;không nhận đồ ăn giữa hai người, không nhận đồ ăn giữahai cái chày; không nhận đồ ăn từ gia đình đang ăn; khôngnhận đồ ăn từ nhà có thai; không ăn đồ ăn có chó đứngtrước cửa; không nhận đồ ăn nơi nhà có ruồi; không nhậnmời ăn; không nhận của người nói đã biết trước; khôngăn cá; không ăn thịt; không uống rượu, không ăn bằng haibát; một bữa ăn một lần nuốt, cho đến bảy bữa thì thôi; nhận thức ăn thêm của người, không nhận quá bảy lầnthêm; hoặc một ngày ăn một bữa; hoặc hai ngày, ba ngày,bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày ăn một bữa; hoặcchỉ ăn quả; hoặc chỉ ăn cỏ vực; hoặc chỉ uống nướccơm; hoặc ăn mè; hoặc chỉ ăn lúa liêm; hoặc ăn phân bò;hoặc ăn phân nai; hoặc ăn rễ, cành, lá, hoa, hạt của cây;hoặc ăn trái cây tự rụng; hoặc mặc áo; hoặc mặc áosa thảo; hoặc mặc áo vỏ cây; hoặc lấy cỏ đắp lên mình; hoặc khoác áo da hươu; hoặc bện tóc; hoặc áo bện bằnglông; hoặc áo lượm từ bãi tha ma; hoặc thường đưa taylên; hoặc không ngồi giường chiếu; hoặc thường ngồi chồmhỗm; hoặc có người cạo tóc nhưng để râu; hoặc có ngườinằm trên gai; hoặc có người nằm trên bầu trái; hoặc cóngười khỏa thân nằm trên phân bò; hoặc một ngày ba lầntắm; hoặc một đêm ba lần tắm. Bằng vô số sự khổ màlàm khổ thân này. Cù-đàm, đó gọi là khổ hạnh ô uế,có trường hợp được gọi là Sa-môn pháp, có trường hợpđược gọi là Bà-la-môn pháp.”

Phậtnói:

“Nhữngngười khỏa thân cởi bỏ y phục, bằng vô số phương tiệnlàm khổ thân này; những người ấy không đầy đủ giới,không đầy đủ kiến, không thể siêng tu, cũng không pháttriển rộng lớn.”

Ca-diệpbạch Phật:

“Thếnào là giới đầy đủ, kiến đầy đủ, vượt xa các khổhạnh, vi diệu bậc nhất?”

Phậtbảo Ca-diệp:

“Hãylắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ, Ta sẽ nói cho ông nghe.”

Ca-diệpnói:

“Thưavâng. Vui lòng xin được nghe.”

Phậtnói với Ca-diệp:

“NếuNhư Lai xuất hiện ở đời, cho đến, Tứ thiền, ở ngay tronghiện tại mà được an lạc. Vì sao vậy? Ấy do tinh cần,chuyên niệm nhất tâm, ưa ở chỗ nhàn tĩnh, không buông lungvậy. Ca-diệp, đó là giới đầy đủ, kiến đầy đủ, thùthắng hơn các thứ khổ hạnh.”

Ca-diệpnói:

“Cù-đàm,tuy nói rằng giới đầy đủ, kiến đầy đủ, vượt hơncác thứ khổ hạnh, vi diệu bậc nhất; nhưng pháp Sa-môn thậtlà khó; pháp Bà-la-môn thật là khó.”

Phậtnói:

“Ca-diệp,đó là pháp bất cộng của thế gian, nghĩa là, Sa-môn pháp,Bà-la-môn pháp là khó. Ca-diệp, cho đến Ưu-bà-di cũng biếtđược pháp đó, là khỏa thân cởi bỏ y phục, cho đến,bằng vô số phương tiện làm khổ mình. Nhưng không biếtrằng tâm ấy là tâm có nhuế, hay tâm không có nhuế; tâmcó hận hay tâm không có hận; tâm có hại hay tâm không cóhại. Nếu biết tâm ấy, thì không nói rằng pháp Sa-môn, Bà-la-mônlà khó. Vì không biết, cho nên nói pháp Sa-môn, Bà-la-môn khó.”

Bấygiờ, Ca-diệp bạch Phật rằng:

“Thếnào là Sa-môn, thế nào là Bà-la-môn có giới cụ túc, kiếncụ túc, là tối thượng, là tối thắng, vi diệu bậc nhất?”

Phậtnói:

“Hãylắng nghe, hãy suy ngẫm kỹ, Ta sẽ nói cho ông nghe.”

“Thưavâng, Cù-đàm. Vui lòng xin được nghe.”

Phậtnói:

“Ca-diệp,Tỳ-kheo kia, bằng tam-muội tâm, cho đến, chứng đắc ba minh,diệt trừ các si mê tối tăm, sanh ánh sáng trí tuệ, gọilà lậu tận trí. Vì sao? Ầy là do tinh cần, chuyên niệm khôngquên, ưa chỗ nhàn tĩnh, không buông lung vậy. Ca-diệp, đógọi là Sa-môn, Bà-la-môn có giới cụ túc, kiến cụ túc,là tối thượng, là tối thắng, vi diệu bậc nhất.”

Ca-diệpnói:

“Cù-đàm,tuy nói đó gọi là Sa-môn, Bà-la-môn có giới cụ túc, kiếncụ túc, là tối thượng, là tối thắng, vi diệu bậc nhất,nhưng pháp Sa-môn, Bà-la-môn thật quá khó, quá khó! Sa-môncũng khó biết, Bà-la-môn cũng khó biết.”

Phậtnói:

“Ưu-bà-tắccũng có thể tu hành được pháp ấy, nói rằng: Tôi, kể từhôm nay, có thể khỏa thân cởi bỏ y phục, cho đến, bằngvô số phương tiện gieo khổ cho thân này. Không thể do hànhvi này mà được gọi là Sa-môn, Bà-la-môn. Nếu chỉ do hạnhnày mà có thể được gọi là Sa-môn, Bà-la-môn; thì khôngthể nói pháp Sa-môn là quá khó, pháp Bà-la-môn là quá khó.Nhưng không vì hạnh ấy mà được gọi là Sa-môn, Bà-la-môn,cho nên nói rằng Sa-môn rất khó, Bà-la-môn rất khó.”

Phậtlại nói với Ca-diệp:

“Xưa,một thời, Ta ở tại Duyệt-kỳ, trong hang Thất diệp trênCao sơn, đã từng giảng về khổ hạnh thanh tịnh cho Phạmchí Ni-câu-đà. Khi ấy Phạm chí sanh tâm hoan hỷ, được tíntâm thanh tịnh; cúng dường Ta, xưng tán Ta, cúng dường, tánthán Ta một cách tối thượng.”

Ca-diệpnói:

“ThưaCù-đàm, ai đối với Cù-đàm mà không phát sanh hoan hỷ, tịnhtín, cúng dường, xưng tán một cách tối thượng? Tôi nayđối Cù-đàm cũng phát sanh hoan hỷ, tịnh tín, cúng dường,xưng tán một cách tối thượng. Tôi quy y Cù-đàm.”

Phậtnói với Ca-diệp:

“Nhữnggì là giới trong thế gian, không có giới nào sánh bằng tăngthượng giới này, huống hồ muốn nói hơn. Những gì là tam-muội,trí tuệ, giải thoát kiến, giải thoát tuệ, không có cáigì sánh ngang với tăng thượng tam-muội, trí tuệ, giải thoátkiến, giải thoát tuệ; huống hồ muốn nói là hơn.

“NàyCa-diệp, được nói là sư tử, là chỉ cho Như Lai, Chí Chân,Đẳng Chánh Giác. Như Lai, khi ở giữa đại chúng tuyên bốChánh pháp một cách rộng rãi, tự tại, vô úy. Do đó đượcgọi là sư tử. Thế nào, Ca-diệp, Như Lai khi rống tiếngsư tử, lúc ấy không dũng mãnh sao? Chớ nghĩ như vậy. NhưLai ở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử một cáchdũng mãnh. Ca-diệp, ngươi bảo rằng Như Lai ở giữa đạichúng cất tiếng rống sư tử một cách dũng mãnh, nhưng khôngthể thuyết pháp chăng? Chớ nghĩ như vậy. Vì sao? Như Laiở giữa đại chúng cất tiếng rống sư tử một cách dũngmãnh và thuyết pháp một cách thiện xảo.

“Thếnào, Ca-diệp, ngươi bảo rằng Như Lai ở giữa đại chúngdũng cảm, vô úy mà cất tiếng rống sư tử, thuyết phápmột cách thiện xảo, nhưng thính giả trong chúng hội khôngnhất tâm chăng? Chớ nghĩ vậy. Vì sao? Như Lai ở giữa đạichúng dũng cảm, vô úy mà cất tiếng rống sư tử, thuyếtpháp một cách thiện xảo, những người đến hội đều nhấttâm lắng nghe. Thế nào, Ca-diệp, ngươi bảo rằng Như Laiở giữa đại chúng dũng cảm, vô úy mà cất tiếng rốngsư tử, thuyết pháp một cách thiện xảo, những người đếnhội đều nhất tâm lắng nghe, nhưng không hoan hỷ tín thọphụng hành chăng? Chớ nghĩ như vậy. Vì sao? Như Lai ở giữađại chúng dũng cảm, vô úy mà cất tiếng rống sư tử, thuyếtpháp một cách thiện xảo, những người đến hội thảy nhấttâm lắng nghe và hoan hỷ tín thọ. Ca-diệp, ngươi bảo rằngNhư Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vô úy mà cất tiếngrống sư tử, thuyết pháp một cách thiện xảo, những ngườiđến hội đều nhất tâm lắng nghe và hoan hỷ tín thọ, nhưngkhông cúng dường chăng? Chớ nghĩ như vậy. Vì sao? Như Laiở giữa đại chúng dũng cảm, vô úy mà cất tiếng rốngsư tử, thuyết pháp một cách thiện xảo, những người đếnhội đều nhất tâm lắng nghe, hoan hỷ tín thọ và thi thiếtcúng dường.

“Ca-diệp,ngươi bảo rằng, Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vôúy mà cất tiếng rống sư tử, cho đến, tín kính cúng dường,nhưng không cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạochăng? Chớ nghĩ như vậy. Vì sao? Như Lai ở giữa đại chúngdũng cảm, vô úy mà cất tiếng rống sư tử, cho đến, tínkính cúng dường, rồi cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuấtgia tu đạo.

“Ca-diệp,ngươi bảo rằng Như Lai ở giữa đại chúng dũng cảm, vôúy mà cất tiếng rống sư tử, cho đến, tín kính cúng dường,rồi cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, nhưngkhông cứu cánh phạm hạnh, đến chỗ an ổn, vô dư Niết-bànchăng? Chớ nghĩ như vậy. Vì sao? Như Lai ở giữa đại chúngdũng cảm, vô úy mà cất tiếng rống sư tử, cho đến, tínkính cúng dường, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất giatu đạo, rồi cứu cánh phạm hạnh, đến chỗ an ổn, vô dưNiết-bàn.”

Bấygiờ, Ca-diệp bạch Phật rằng:

“Thếnào, thưa Cù-đàm, tôi có thể xuất gia thọ Cụ giới trongpháp này được chăng?”

Phậtbảo Ca-diệp:

“Nếudị học muốn đến xuất gia tu đạo trong giáo pháp của Ta,phải lưu bốn tháng quán sát, làm hài lòng chúng Tăng, sauđó mới có thể xuất gia thọ giới. Ca-diệp, tuy có phápnhư vậy, nhưng cũng xét theo người.”

Ca-diệpnói:

“Nếudị học muốn đến xuất gia tu đạo trong Phật pháp, phảilưu bốn tháng quán sát, làm hài lòng chúng Tăng, sau đó mớicó thể xuất gia thọ giới. Con nay có thể ở trong Phật phápbốn năm quán sát, làm hài lòng chúng Tăng, sau đó mới xuấtgia thọ giới.”

Phậtbảo Ca-diệp:

“Tađã có nói, cũng còn xét theo người.”

Bấygiờ, Ca-diệp liền ở trong Phật pháp xuất gia thọ Cụ túcgiới. Rồi thì, Ca-diệp xuất gia thọ giới chưa bao lâu, bằngtín tâm, tu phạm hạnh vô thượng, ở ngay trong đời này màtự thân chứng ngộ: sanh tử đã dứt, phạm hạnh đã đứngvững, điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa;tức thời thành A-la-hán.

Bấygiờ, Ca-diệp nghe những điều Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567