LĂNGGIÀA BẠT ĐA LA BỬU KINH
PhápSư Tam Tạng Ấn Độ Cầu Na Bạt Đà La dịch từ Phạn sangHán đời nhà Tống.
ViệtDịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
Khi ấy,Đại Huệ Bồ Tát dùng kệ nói rằng:Cácbậc Bồ Tát kia,
Lậpchí cầu Phật Đạo.
Rượuthịt và ngũ tân,
Ănuống như thế nào?
Cúixin Phật thương xót,
Vìđại chúng giải thích.
Dophàm phu tham dục,
Hamăn đồ hôi thúi.
Sởthích như cọp sói,
Đồgì mới nên ăn?
Ănthứ nào có lỗi?
Cúixin vì con nói.
Ngườiăn hoặc không ăn,
Cónhững tội phước gì?ĐạiHuệ Bồ Tát thuyết kệ xong, lại bạch Phật rằng :
-Cúi xin Thế Tôn vì chúng con nói công đức và tội lỗi củangười ăn thịt và không ăn thịt. Con và các Bồ Tát nơihiện tại vị lai sẽ vì những chúng sanh ham thích ăn thịtphân biệt thuyết pháp, khiến họ hướng về từ tâm. ĐắcTừ Tâm rồi, đối với các Trụ Địa phiền não, thanh tịnhthấu hiểu, chóng đắc Cứu Cánh Vô Thượng Bồ Đề. ThanhVăn, Duyên Giác nơi Địa tự chứng ngưng nghĩ đã rồi, cũngđược tiến lên mau thành Vô Thượng Bồ Đề. Bọn ngoạiđạo tác ác lập luận, chấp kiến đoạn thường, điên đảoso đo, còn có Pháp Giá (như Giá Giới của Phật) không choăn thịt, huống là Như Lai thành tựu chánh pháp, cứu hộthế gian mà ăn thịt ư?
Phậtbảo Đại Huệ:
- Lànhthay, lành thay! Hãy chú ý nghe và khéo ghi nhớ, Ta sẽ vì ngươimà thuyết.
ĐạiHuệ Bồ Tát bạch Phật rằng :
- Cúixin thọ giáo.
Phậtbảo Đại Huệ :
- Cóvô lượng nhân duyên chẳng nên ăn thịt, nay Ta sẽ vì ngươisơ lược giải thích. Tất cả chúng sanh từ xưa đến nay,lần lượt theo nhân duyên làm lục thân quyến thuộc vớinhau, suy nghĩ thịt này là người thân kiếp trước của mình,do đó không nên ăn thịt.
- Thịtlừa, la, lạc đà, chồn, chó, trâu, ngựa, người, thú v.v...vì nhiều hàng thịt bán lẫn lộn, do đó không nên ăn thịt.
- Nhưthợ săn, đồ tể, cầm thú ngửi mùi họ liền sanh kinh sợ,chó thấy oán ghét sủa vang, do đó không nên ăn thịt.
- Vìkhiến người tu hành chẳng sanh khởi từ tâm, do đó khôngnên ăn thịt. Phàm phu ham thích hôi thúi bất tịnh, có tiếngtăm xấu xa, do đó không nên ăn thịt. Vì khiến người trìchú chẳng thành tựu, do đó không nên ăn thịt.
- Vìngười sát sanh thấy hình súc sinh khởi thức phân biệt, hamđắm mùi vị, do đó không nên ăn thịt. Kẻ ăn thịt bịchư Thiên chê bỏ, do đó không nên ăn thịt. Vì khiến miệnghôi hám, do đó không nên ăn thịt. Vì khiến người có nhiềuác mộng, do đó không nên ăn thịt.
- Vìđến chỗ rừng hoang vắng lặng, cọp sói ngửi được mùihương gây sự nguy hiểm, do đó không nên ăn thịt. Vì làmcho ăn uống thất thường, do đó không nên ăn thịt. Vì khiếnngười tu hành chẳng sanh chán lìa, do đó không nên ăn thịt.Ta thường nói rằng: Khi muốn ăn uống, nên nghĩ đây làthịt của con mình hoặc nghĩ là thuốc độc, do đó khôngnên ăn thịt. Cho Phật tử ăn thịt là không có chỗ đúng.
- Lạinữa, Đại Huệ! Xưa kia có vua tên Sư Tử Đô Đà Ta, ăn đủthứ thịt, dần dần cho đến ăn thịt người, dân chúng chịukhông nổi, tụ tập mưu phản, vua liền bị lật đổ, ngườiăn thịt có lỗi như thế, do đó không nên ăn thịt.
- Lạinữa, Đại Huệ! Những người sát sanh vì ham tài lợi màsát sanh buôn bán cá thịt, bọn ngu si ăn thịt chúng sanh, dùngtiền làm lưới mà bắt lấy các thứ thịt. Người sát sanhăn thịt, hoặc dùng tài vật, hoặc dùng câu lưới bắt lấynhững chúng sanh bay trên trời, lội dưới nước và đi trênbờ, đủ thứ giết hại, mua bán cầu lợi, gieo nhân chịuquả, sẽ thọ ác báo. Đại Huệ! Ta dạy Phật tử nên dùngPháp thực, không dạy ăn thịt, cho đến không mong cầu, khôngnghĩ tưởng đến những cá thịt, do nghĩa này không nên ănthịt.
- ĐạiHuệ! Ta có khi phương tiện nói Giá Pháp, cho ăn năm thứ tịnhnhục (1) hoặc là mười thứ, nay ở Kinh này xóa bỏ tấtcả phương tiện, bất cứ lúc nào, chủng loại nào, phàmthuộc loài thịt chúng sanh, thảy đều đoạn đứt. ĐạiHuệ! Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác còn chẳng ăn phi thờivà tạp thực, huống là ăn cá thịt ư? Tự không ăn cũngchẳng bảo người khác ăn. Dùng tâm Đại bi dẫn đầu, xemtất cả chúng sanh như con một của mình, do đó chẳng ănthịt con.
(1)5 THỨ TỊNH NHỤC: Tự chết, chẳng nghe, chẳng thấy, chẳngvì mình giết, cầm thú ăn dư.
Khiấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà thuyết kệ rằng:
Tấtcả thịt chúng sanh,Xưakia là quyến thuộc.
Hoặchôi thúi hỗn tạp,
Sanhtrưởng nơi bất tịnh.
Hoặcngửi mùi kinh sợ,
Uốngrượu với giết hại,
Vàngũ tân vân vân,
Tuhành nên xa lìa.
Rượuthịt sanh buông lung,
Buônglung sanh mê đắm.
Mêđắm sanh tham dục,
Dođó không nên ăn.
Doăn sanh tham dục,
Thamdục khiến tâm mê.
Saymê nuôi ái dục,
Sanhtử chẳng giải thoát.
Vìlợi giết chúng sanh,
Dùngtài bắt cá thịt.
Haithứ gây ác nghiệp,
Chếtđọa ngục Kêu La.
Tathường dạy Phật tử,
Nêndùng những pháp thực.
Chẳngdạy ăn chúng sanh,
Chẳngvô nhân tự có.
Ănthịt gây thù oán,
Dođó không nên ăn.
Giếthại, ăn chúng sanh,
Ngườitu nên xa lìa.
Mườiphương chư Như Lai,
Đềuquở trách việc này.
Nếungười tin nhân quả,
Chớăn nuốt lẫn nhau.
Chếtđọa loài cọp sói,
Thọsanh thường ngu si.
Đồtể và thợ săn,
Khiếncầm thú kinh sợ.
Ắtphải chịu ác quả,
Cótánh ham ăn thịt,
Phảiđọa loài súc sinh,
Cũngnhư mèo chồn kia.
Trongcác Kinh Đại Thừa,
NhưPhược Tượng, Đại Vân.
Chođến Kinh Niết Bàn,
VàKinh Lăng Già nàî
Tađều khuyến người tu,
Nênđoạn dứt ăn thịt.
BồTát và Thanh Văn,
ChưPhật đều quở trách.
Ngườigiết hại ăn thịt,
Ănthịt chẳng hổ thẹn.
Đờiđời thường ngu dốt,
Trướcnói kiến văn nghi.
Đãdứt tất cả thịt,
Ngườivọng tưởng chẳng biết.
Thọsanh loài ăn thịt,
Dolỗi họ tham dục.
Chướngngại sự giải thoát.
Rượuthịt và ngũ tân,
Thảyđều chướng Thánh đạo.
Chúngsanh đời vị lai,
Ngusi mới ăn thịt.
Hoặccó người chấp trước,
Ăntịnh nhục vô tội,
VìPhật đã cho ăn.
Họlại quên lời Phật,
Ghitrong nhiều kinh điển.
Cólời nói như thế:
Ănthịt như ăn con.
Cũngnhư uống thuốc độc.
Khiếnngười tu chán lìa.
Thườngtheo hạnh khất thực,
Antrụ nơi từ tâm.
Nhữngác thú cọp sói,
Cóthể cùng dạo chơi.
Nếuăn loài máu thịt,
Chúngsanh đều kinh sợ.
Chonên người tu hành,
Từtâm chẳng ăn thịt.
Ănthịt mất trí huệ,
Tráihẳn chánh giải thoát.
Nghịchtướng mạo bậc Thánh,
Dođó không nên ăn.
"Đượcsanh dòng Phạm Chí,
Vàcác chỗ tu hành,
Nhàgiàu sang trí huệ,
Đềudo chẳng ăn thịt".
Làlời ta thường thuyết.