Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Quyển Thứ 406: Hội thứ hai Phẩm Thiện Hiện thứ 6-1

18/04/201316:07(Xem: 17435)
Quyển Thứ 406: Hội thứ hai Phẩm Thiện Hiện thứ 6-1

Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Tập 17

Quyển Thứ 406: Hội thứ hai Phẩm Thiện Hiện thứ 6-1

Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Nguồn: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

Bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện Hiện: Ngươi đem biện tài nên vì chúng Bồ tát Ma ha tát tuyên nói pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa, dạy bảo dạy trao các Bồ tát Ma ha tát, khiến đối Bát nhã Ba la mật đa đều được thành xong.

Khi ấy, chúng các Bồ tát Ma ha tát và đại Thanh văn, các trời người thảy đều khởi nghĩ này: Tôn giả Thiện Hiện là tự biện tài sẽ vì chúng Bồ tát Ma ha tát tuyên nói pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa, dạy bảo dạy trao các Bồ tát Ma ha tát, khiến đối Bát nhã Ba la mật đa đều được thành xong, hay phải nhờ sức Phật oai thần ư?

Tôn giả Thiện Hiện biết điều tâm nghĩ của chúng các Bồ tát Ma ha tát và đại Thanh văn, các trời người thảy, liền bảo Tôn giả Xá Lợi Tử rằng: Phàm các đệ tử Phật có nói ra lời, tất cả đều nhờ sức Phật oai thần. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Như lai vì người tuyên nói pháp yếu cùng các pháp tánh thường chẳng trái nhau. Đệ tử chư Phật y pháp đã thuyết, tinh siêng tu học chứng pháp thật tánh. Do đây vì người có tuyên nói ra, đều cùng pháp tánh năng chẳng trái nhau. Nên lời Phật nói như đèn truyền soi.

Xá Lợi Tử! Tôi sẽ nhờ Phật oai thần gia bị, vì chúng các Bồ tát Ma ha tát tuyên nói pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa, dạy bảo dạy trao các Bồ tát Ma ha tát, khiến đối Bát nhã Ba la mật đa đều được thành xong. Chẳng phải biện tài tôi năng làm được việc này. Vì cớ sao? Xá Lợi Tử! Vì Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu chẳng phải cảnh giới các Thanh văn, Độc giác vậy.

Bấy giờ, Tôn giả Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Như Phật đã nói các Bồ tát Ma ha tát, trong đây pháp nào danh là Bồ tát Ma ha tát? Bạch Thế Tôn! Tôi đều chẳng thấy có một pháp khá danh Bồ tát Ma ha tát. Cũng đều chẳng thấy có một pháp khá danh Bát nhã Ba la mật đa. Hai danh như thế tôi cũng chẳng thấy, làm sao khiến tôi vì chúng các Bồ tát Ma ha tát tuyên nói pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa, dạy bảo dạy trao các Bồ tát Ma ha tát, khiến đối Bát nhã Ba la mật đa đều được thành xong?

Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát chỉ có danh. Bát nhã Ba la mật đa chỉ có danh. Hai danh như thế cũng chỉ có danh. Thiện Hiện! Hai danh đây chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Thiện Hiện phải biết: Như ngã thế gian chỉ có giả danh, giả danh như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi đó là ngã. Như vậy hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la, ý sanh, nho đồng, tác giả, thọ giả, tri giả, kiến giả cũng chỉ có giả danh. Giả danh như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi đó là hữu tình cho đến kiến giả. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh đây chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa, hoặc hai danh đây đều là giả pháp. Giả pháp như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Như nội các sắc chỉ là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi đó là sắc. Như vậy thọ tưởng hành thức cũng chỉ là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi là thọ tưởng hành thức. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh, các giả danh đây chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa, hoặc hai danh đây đều là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như nhãn xứ chỉ là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi là nhãn xứ. Như nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng chỉ là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi là nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh đây chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa, hoặc hai danh đây đều là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như sắc xứ chỉ là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi là sắc xứ. Như vậy thanh hương vị xúc pháp xứ cũng chỉ là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi là thanh hương vị xúc pháp xứ. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh đây chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa, hoặc hai danh đây đều là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới chỉ là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi là nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới. Như vậy nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới; tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thân giới, xúc giới, thân thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới cũng chỉ là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi là nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh đây chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc Bồ tát Ma ha tát hoặc Bát nhã Ba la mật đa, hoặc hai danh đây đều là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như nội thân sở hữu đầu, cổ, vai, bắp tay, cánh tay, bụng, vai sau, ngực, sườn, lưng, xương sống, đùi, đầu gối, bắp chân, ống cẳng, chân thảy, da thịt, xương, tủy chỉ có giả danh; danh giả như thế chẳng sanh chẳng diệt chỉ giả thi thiết gọi là nội thân đầu cổ các vật. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh, các giả danh đây chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa, hoặc hai danh đây đều là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như ngoại sự, sở hữu cỏ cây gốc cọng, nhánh lá và hoa quả thảy chỉ có giả danh; danh giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi là ngoại sự cỏ cây gốc thảy. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh, các giả danh đây chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa, hoặc hai danh đây đều là giả danh. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như chư Phật quá khứ vị lai chỉ có giả danh, danh giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi là chư Phật quá khứ vị lai. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh. Các giả danh đây chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa, hoặc hai danh đây đều là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện! Ví như cảnh mộng, vang hang, bóng sáng, việc huyễn, ánh nắng, trăng nước, biến hóa chỉ có giả danh, danh giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết gọi là cảnh mộng cho đến biến hóa. Như vậy, tất cả chỉ có giả danh, các giả danh đây chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Thiện Hiện! Hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa, hoặc hai danh đây đều là giả pháp. Pháp giả như thế chẳng sanh chẳng diệt, chỉ giả thi thiết, chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa hai, vì chẳng khá được vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đối tất cả pháp danh giả, pháp giả và phương tiện giả, nên chính tu học. Sở dĩ vì sao?

Thiện Hiện! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên quán danh sắc hoặc thường hoặc vô thường, chẳng nên quán danh thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường. Chẳng nên quán danh sắc hoặc vui hoặc khổ, chẳng nên quán danh thọ tưởng hành thức hoặc vui hoặc khổ. Chẳng nên quán danh sắc hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng nên quán danh thọ tưởng hành thức hoặc ngã hoặc vô ngã. Chẳng nên quán danh sắc hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng nên quán danh thọ tưởng hành thức hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán danh sắc hoặc không hoặc bất không, chẳng nên quán danh thọ tưởng hành thức hoặc không hoặc bất không. Chẳng nên quán danh sắc hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, chẳng nên quán danh thọ tưởng hành thức hoặc hữu tướng hoặc vô tướng. Chẳng nên quán danh sắc hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, chẳng nên quán danh thọ tưởng hành thức hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Chẳng nên quán danh sắc hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng nên quán danh thọ tưởng hành thức hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng. Chẳng nên quán danh sắc hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng nên quán danh thọ tưởng hành thức hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên quán danh sắc hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, chẳng nên quán danh thọ tưởng hành thức hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh. Chẳng nên quán danh sắc hoặc sanh hoặc diệt, chẳng nên quán danh thọ tưởng hành thức hoặc sanh hoặc diệt.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên quán danh nhãn xứ hoặc thường hoặc vô thường, chẳng nên quán danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc thường hoặc vô thường. Chẳng nên quán danh nhãn xứ hoặc vui hoặc khổ, chẳng nên quán danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc vui hoặc khổ. Chẳng nên quán danh nhãn xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng nên quán danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Chẳng nên quán tâm nhãn xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng nên quán danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán danh nhãn xứ hoặc không hoặc bất không, chẳng nên quán danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc không hoặc bất không. Chẳng nên quán danh nhãn xứ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, chẳng nên quán danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng. Chẳng nên quán danh nhãn xứ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, chẳng nên quán danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Chẳng nên quán danh nhãn xứ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng nên quán danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng. Chẳng nên quán danh nhãn xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng nên quán danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên quán danh nhãn xứ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, chẳng nên quán danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh. Chẳng nên quán danh nhãn xứ hoặc sanh hoặc diệt, chẳng nên quán danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ hoặc sanh hoặc diệt.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa, các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên quán danh sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường, chẳng nên quán danh thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường. Chẳng nên quán danh sắc xứ hoặc vui hoặc khổ, chẳng nên quán danh thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc vui hoặc khổ. Chẳng nên quán danh sắc xứ hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng nên quán danh thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc ngã hoặc vô ngã. Chẳng nên quán danh sắc xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng nên quán danh thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán danh sắc xứ hoặc không hoặc bất không, chẳng nên quán danh thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc không hoặc bất không. Chẳng nên quán danh sắc xứ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, chẳng nên quán danh thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng. Chẳng nên quán danh sắc xứ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, chẳng nên quán danh thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Chẳng nên quán danh sắc xứ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng nên quán danh thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng. Chẳng nên quán danh sắc xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng nên quán danh thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên quán danh sắc xứ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, chẳng nên quán danh thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh. Chẳng nên quán danh sắc xứ hoặc sanh hoặc diệt, chẳng nên quán danh thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc sanh hoặc diệt.

Lại nữa, Thiện Hiện! Tu hành Bát nhã Ba la mật đa các Bồ tát Ma ha tát chẳng nên quán danh nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường. Chẳng nên quán danh sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Chẳng nên quán danh nhãn giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng nên quán danh sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Chẳng nên quán danh nhãn giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng nên quán danh sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Chẳng nên quán danh nhãn giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng nên quán danh sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán danh nhãn giới hoặc không hoặc bất không, chẳng nên quán danh sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc không hoặc bất không. Chẳng nên quán danh nhãn giới hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, chẳng nên quán danh sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng. Chẳng nên quán danh nhãn giới hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, chẳng nên quán danh sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Chẳng nên quán danh nhãn giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng nên quán danh sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng. Chẳng nên quán danh nhãn giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng nên quán danh sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên quán danh nhãn giới hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, chẳng nên quán danh sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh. Chẳng nên quán danh nhãn giới hoặc sanh hoặc diệt, chẳng nên quán danh sắc giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc sanh hoặc diệt.

Chẳng nên quán danh nhĩ giới hoặc thường hoặc vô thường. Chẳng nên quán danh thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Chẳng nên quán danh nhĩ giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng nên quán danh thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Chẳng nên quán danh nhĩ giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng nên quán danh thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Chẳng nên quán danh nhĩ giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng nên quán danh thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán danh nhĩ giới hoặc không hoặc bất không, chẳng nên quán danh thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc không hoặc bất không. Chẳng nên quán danh nhĩ giới hoặc tướng hoặc vô tướng, chẳng nên quán danh thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tướng hoặc vô tướng. Chẳng nên quán danh nhĩ giới hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, chẳng nên quán danh thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Chẳng nên quán danh nhĩ giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng nên quán danh thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng. Chẳng nên quán danh nhĩ giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng nên quán danh thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên quán danh nhĩ giới hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, chẳng nên quán danh thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh. Chẳng nên quán danh nhĩ giới hoặc sanh hoặc diệt, chẳng nên quán danh thanh giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc sanh hoặc diệt.

Chẳng nên quán danh tỷ giới hoặc thường hoặc vô thường, chẳng nên quán danh hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Chẳng nên quán danh tỷ giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng nên quán danh hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Chẳng nên quán danh tỷ giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng nên quán danh hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Chẳng nên quán danh tỷ giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng nên quán danh hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán danh tỷ giới hoặc không hoặc bất không, chẳng nên quán danh hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc không hoặc bất không. Chẳng nên quán danh tỷ giới hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, chẳng nên quán danh hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng. Chẳng nên quán danh tỷ giới hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, chẳng nên quán danh hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Chẳng nên quán danh tỷ giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng nên quán danh hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng. Chẳng nên quán danh tỷ giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng nên quán danh hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên quán danh tỷ giới hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, chẳng nên quán danh hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh. Chẳng nên quán danh tỷ giới hoặc sanh hoặc diệt, chẳng nên quán danh hương giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc sanh hoặc diệt.

Chẳng nên quán danh thiệt giới hoặc thường hoặc vô thường, chẳng nên quán danh vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Chẳng nên quán danh thiệt giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng nên quán danh vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Chẳng nên quán danh thiệt giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng nên quán danh vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Chẳng nên quán danh thiệt giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng nên quán danh vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán danh thiệt giới hoặc không hoặc bất không, chẳng nên quán danh vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc không hoặc bất không. Chẳng nên quán danh thiệt giới hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, chẳng nên quán danh vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng. Chẳng nên quán danh thiệt giới hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, chẳng nên quán danh vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Chẳng nên quán danh thiệt giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng nên quán danh vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng. Chẳng nên quán danh thiệt giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng nên quán danh vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên quán danh thiệt giới hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, chẳng nên quán danh vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh. Chẳng nên quán danh thiệt giới hoặc sanh hoặc diệt, chẳng nên quán danh vị giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc sanh hoặc diệt.

Chẳng nên quán danh thân giới hoặc thường hoặc vô thường, chẳng nên quán danh xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Chẳng nên quán danh thân giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng nên quán danh xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Chẳng nên quán danh thân giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng nên quán danh xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Chẳng nên quán danh thân giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng nên quán danh xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán danh thân giới hoặc không hoặc bất không, chẳng nên quán danh xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc không hoặc bất không. Chẳng nên quán danh thân giới hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, chẳng nên quán danh xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng. Chẳng nên quán danh thân giới hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, chẳng nên quán danh xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Chẳng nên quán danh thân giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng nên quán danh xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng. Chẳng nên quán danh thân giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng nên quán danh xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên quán danh thân giới hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, chẳng nên quán danh xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh. Chẳng nên quán danh thân giới hoặc sanh hoặc diệt, chẳng nên quán danh xúc giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc sanh hoặc diệt.

Chẳng nên quán danh ý giới hoặc thường hoặc vô thường, chẳng nên quán danh pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường. Chẳng nên quán danh ý giới hoặc vui hoặc khổ, chẳng nên quán danh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vui hoặc khổ. Chẳng nên quán danh ý giới hoặc ngã hoặc vô ngã, chẳng nên quán danh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc ngã hoặc vô ngã. Chẳng nên quán danh ý giới hoặc tịnh hoặc bất tịnh, chẳng nên quán danh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tịnh hoặc bất tịnh. Chẳng nên quán danh ý giới hoặc không hoặc bất không, chẳng nên quán danh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc không hoặc bất không. Chẳng nên quán danh ý giới hoặc hữu tướng hoặc vô tướng, chẳng nên quán danh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc hữu tướng hoặc vô tướng. Chẳng nên quán danh ý giới hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện, chẳng nên quán danh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc hữu nguyện hoặc vô nguyện. Chẳng nên quán danh ý giới hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, chẳng nên quán danh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng. Chẳng nên quán danh ý giới hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa, chẳng nên quán danh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Chẳng nên quán danh ý giới hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh, chẳng nên quán danh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh. Chẳng nên quán danh ý giới hoặc sanh hoặc diệt, chẳng nên quán danh pháp giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc sanh hoặc diệt.

Sở dĩ vì sao? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa, hoặc Bồ tát Ma ha tát, hoặc danh Bồ tát Ma ha tát, hoặc Bát nhã Ba la mật đa, hoặc danh Bát nhã Ba la mật đa, đều chẳng thấy ở trong giới hữu vi, cũng chẳng thấy ở trong giới vô vi. Vì cớ sao?

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa đối tất cả pháp chẳng tác phân biệt, không khác phân biệt. Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa trụ trong tất cả pháp vô phân biệt nên chẳng thấy Bồ tát Ma ha tát, chẳng thấy danh Bồ tát Ma ha tát, chẳng thấy Bát nhã Ba la mật đa, chẳng thấy danh Bát nhã Ba la mật đa.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa năng tu bố thí Ba la mật đa; cũng năng tu tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa.

Năng trụ nội không; cũng năng trụ ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.

Năng trụ chơn như; cũng năng trụ pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới.

Năng tu bốn niệm trụ; cũng năng tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Năng trụ khổ thánh đế; cũng năng trụ tập diệt đạo thánh đế.

Năng tu bốn tĩnh lự; cũng năng tu bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Năng tu tám giải thoát; cũng năng tu tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Năng tu không giải thoát môn; cũng năng tu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn.

Năng tu tất cả đà la ni môn, cũng năng tu tất cả tam ma địa môn. Năng tu năm nhãn, cũng năng tu sáu thần thông. Năng tu Phật mười lực; cũng năng tu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng.

Khi Bồ tát Ma ha tát này với như thế, chẳng thấy Bồ tát Ma ha tát, chẳng thấy danh Bồ tát Ma ha tát, chẳng thấy Bát nhã Ba la mật đa, chẳng thấy danh Bát nhã Ba la mật đa. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa đối tất cả pháp khéo đạt thật tướng. Khéo đạt trong ấy không pháp tạp nhiễm, pháp thanh tịnh vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa giác tất cả pháp, danh giả thi thiết, pháp giả thi thiết.

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này đối danh pháp giả như thật giác rồi, chẳng chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ tưởng hành thức. Chẳng chấp trước nhãn xứ, chẳng chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Chẳng chấp trước sắc xứ, chẳng chấp trước thanh hương vị xúc pháp xứ. Chẳng chấp trước nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ. Cho đến chẳng chấp trước ý giới, pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.

Chẳng chấp trước giới hữu vi, chẳng chấp trước giới vô vi. Chẳng chấp trước bố thí Ba la mật đa; chẳng chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Chẳng chấp trước các tướng hảo, chẳng chấp trước thân Bồ tát. Chẳng chấp trước nhục nhãn cho đến Phật nhãn. Chẳng chấp trước trí Ba la mật đa và thần thông Ba la mật đa. Chẳng chấp trước nội không cho đến vô tánh tự tánh không. Chẳng chấp trước thành thục hữu tình, chẳng chấp trước nghiêm tịnh cõi Phật, chẳng chấp trước phương tiện khéo léo. Vì cớ sao? Thiện Hiện! Vì tất cả pháp đều vô sở hữu, năng trước, sở trước, trước xứ, trước thời bất khả đắc vậy.

Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát đối tất cả pháp vô sở chấp trước. Khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa tăng ích bố thí Ba la mật đa; tăng ích tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Tới vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh, tới vào bậc Bồ tát Bất thối chuyển, viên mãn Bồ tát thần thông thù thắng. Bồ tát thần thông thù thắng như thế đã được viên mãn, mới từ một nước Phật tới một nước Phật, vì muốn thành thục hữu tình vậy, vì muốn nghiêm tịnh cõi Phật mình vậy, vì muốn thấy Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác và vì thấy rồi, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, khiến các căn lành đều được sanh trưởng, tùy sở ưa nghe Chánh pháp chư Phật đều được nghe thọ. Đã nghe thọ xong cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề đặng chẳng quên mất. Khắp đối tất cả đà la ni môn, tam ma địa môn đều được tự tại.

Như vậy, Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát tu hành Bát nhã Ba la mật đa như thật giác biết danh giả pháp giả không chỗ chấp trước.

Lại nữa, Thiện Hiện! Nói là Bồ tát Ma ha tát ấy, nơi ý hiểu sao? Tức sắc là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức thọ tưởng hành thức là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa sắc có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa thọ tưởng hành thức có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức nhãn xứ là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa nhãn xứ có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức sắc xứ là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức thanh hương vị xúc pháp xứ là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa sắc xứ có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa thanh hương vị xúc pháp xứ có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức nhãn giới là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa nhãn giới có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức nhĩ giới là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa nhĩ giới có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức tỷ giới là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa tỷ giới có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức thiệt giới là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa thiệt giới có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức thân giới là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa thân giới có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức ý giới là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa ý giới có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức địa giới là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức thủy hỏa phong không thức giới là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa địa giới có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa thủy hỏa phong không thức giới có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức vô minh là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa vô minh có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa hành cho đến lão tử có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện Hiện: Ngươi quán nghĩa nào tác lời như vầy: Tức sắc thảy pháp chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, lìa sắc thảy pháp không Bồ tát Ma ha tát ư?

Khi ấy, Tôn giả Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Hoặc Bồ đề, hoặc Tát đỏa, hoặc sắc thảy pháp hãy rốt ráo chẳng khá được vì tánh chẳng phải có, huống có Bồ tát Ma ha tát. Đây đã chẳng có, làm sao nói được tức sắc thảy pháp là Bồ tát Ma ha tát, lìa sắc thảy pháp có Bồ tát Ma ha tát?

Phật bảo: Thiện Hiện! Hay thay, hay thay. Như vậy, như vậy. Như ngươi đã nói. Thiện Hiện! Hoặc Bồ đề, hoặc Tát đỏa, hoặc sắc thảy pháp, vì chẳng khá được, nên các Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng khá được. Vì các Bồ tát Ma ha tát chẳng khá được, nên sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa nên học như thế.

Lại nữa, Thiện Hiện! Đã nói Bồ tát Ma ha tát ấy. Nơi ý hiểu sao? Tức sắc chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức thọ tưởng hành thức chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa sắc chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa thọ tưởng hành thức chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức nhãn xứ chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa nhãn xứ chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức sắc xứ chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức thanh hương vị xúc pháp xứ chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa sắc xứ chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa thanh hương vị xúc pháp xứ chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức nhãn giới chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa nhãn giới chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức nhĩ giới chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa nhĩ giới chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức tỷ giới chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa tỷ giới chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa hương giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức thiệt giới chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa thiệt giới chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa vị giới, thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức thân giới chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa thân giới chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa xúc giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức ý giới chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức pháp giới, ý thức giới và ý xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa ý giới chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa pháp giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức địa giới chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức thủy hỏa phong không thức giới chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa địa giới chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa thủy hỏa phong không thức giới chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Tức vô minh chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Tức hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử chơn như là Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng tức. Lìa vô minh chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa. Lìa hành cho đến lão tử chơn như có Bồ tát Ma ha tát chăng? Bạch Thế Tôn! Chẳng lìa.

Bấy giờ, Phật bảo Tôn giả Thiện Hiện: Ngươi quán nghĩa nào tác lời như vầy: Tức sắc thảy pháp chơn như chẳng phải Bồ tát Ma ha tát, lìa sắc thảy pháp chơn như không Bồ tát Ma ha tát ư?

Tôn giả Thiện Hiện thưa Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Sắc thảy pháp hãy rốt ráo chẳng khá được, vì tánh chẳng phải có, huống có sắc thảy pháp chơn như. Chơn như đây đã chẳng phải có, làm sao nói tức sắc thảy pháp chơn như là Bồ tát Ma ha tát, lìa sắc thảy pháp chơn như có Bồ tát Ma ha tát?

Phật bảo: Thiện Hiện! Hay thay, hay thay. Như vậy, như vậy. Như lời ngươi đã nói. Thiện Hiện! Sắc thảy pháp chẳng khá được, nên sắc thảy pháp chơn như cũng chẳng khá được. Sắc thảy pháp và chơn như cũng chẳng khá được, nên các Bồ tát Ma ha tát cũng chẳng khá được. Các Bồ tát Ma ha tát chẳng khá được, nên sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng chẳng khá được.

Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã Ba la mật đa nên học như thế.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567