Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Công Án của Lương Tri

13/04/201406:44(Xem: 5707)
Những Công Án của Lương Tri
duc-phat-41
Tôi thực sự thấy “sốc” khi nhận những bức ảnh từ một người bạn, qua mạng internet. Đó là một tập tin (file) dạng Power Point Show có tên We are so lucky – food and water. Pss (chúng ta may mắn biết bao, với thức ăn và nước) tả cái đói kinh hoàng và thảm khốc ở Châu Phi. Tập tin này mang theo thông điệp gồm nhiều câu văn ngắn cho từng slide. 
Tôi xin phép trích một vài câu: “My great friends, let this not come to you as a surprise, but it’s real. Have them living around us and in our neibourghood today. We can change it with prayers, and always lend a helping hand to those in need. Don’t keep this email to yoursef. Forward it to your friends, so our friends and all people will thank NATURE for food anh water that they already have”.

(Tạm dịch: Hởi những người bạn lớn, đừng xem những bức ảnh này là điều kỳ lạ khiến bạn phải ngạc nhiên, mà đây là sự thực. Họ đang sống chung quanh chúng ta và trong khu vực láng giềng lân cận với chúng ta. Chúng ta có thể làm thay đổi điều này bằng những lời cầu nguyện, và bằng cách luôn sẵn sàng đưa tay ra để giúp đỡ những người khốn khó. Xin đừng giữ lá điện thư cho riêng bạn mà hãy gởi nó đến những người bạn của mình, để những người bạn đó và tất cả mọi người đều sẽ cảm tạ về thức ăn và nước uống mà Thiên Nhiên đã ban phát cho họ lâu nay).

Thực hiện lời kêu gọi của thông điệp, người viết xin chuyển tiếp những hình ảnh này, với hy vọng thông điệp sẽ đến được với nhiều người hơn nữa. Không phải chỉ để người đọc cảm tạ thiên nhiên hay tri ân cuộc đời đã không để mình lâm vào cảnh khốn cùng, mà còn cầu mong nội dung thông điệp này sẽ còn mang đến nhiều ý nghĩa sâu xa hơn nữa.

Năm 1994, cả thế giới hầu như bị chấn động bởi một bức ảnh của nhiếp ảnh gia Kelvin Carter nói về nạn đói ở Sudan. Bức ảnh được giải thưởng Pulitzer, mô tả lại hình ảnh một đứa bé kiệt sức vì đói đang cố gắng bò lê đến một lán trại của lực lượng Liên Hiệp Quốc cách đó nhiều cây số để kiếm thức ăn. Đằng sau đứa bé là một con kên kên đang thản nhiên chờ đến khi đứa bé ngã gục xuống để bắt đầu bữa ăn cho nó. Cảnh tượng đau lòng này gợi ta nhớ một phần cảnh tượng nhân vật Bill đang kiệt sức vì đói khát, phải chiến đấu một cách tuyệt vọng và hãi hùng để giành sự sống trước một con sói cũng đang đói, trong câu truyện Love of Life (Khát vọng sống) của nhà văn Jack London. Song nội dung bức ảnh còn thê thảm và lạnh lùng hơn rất nhiều, vì đây là đời thực.

blankTrong câu truyện của Jack London , nhân vật Bill cuối cùng đã được cứu sống. Những người đồng loại đã kịp đưa cánh tay ra cho Bill, khi anh vừa ngã xuống. Còn đứa bé, nhân vật thực bằng xương bằng thịt trong bức ảnh, thì không ai biết số phận nó ra sao, kể cả tác giả bức ảnh là Kelvin Carter. Sau khi chụp hình xong, ông cũng rời nơi đó mà đi. Ba tháng sau ông tự tử. Có lẽ vì tuyệt vọng, vì sự bất lực của một người trí thức trước những nỗi đau thương của đồng loại, và có lẽ vì phải chứng kiến những bất công còn tồn tại mãi mãi giữa nhân gian. Cái tâm của một nhiếp ảnh gia phương Tây đáng để cho chúng ta thắp những nén hương trân trọng.

blankNhững bức ảnh tả cảnh đói khổ của con người này đều như những gáo nước lạnh tạt vào mặt tất cả nền văn minh, vào tất cả những danh từ sáo rỗng về tiến bộ, về văn hóa, về cuộc sống tâm linh và tinh thần trên toàn thế giới. Đằng sau những cảnh phù hoa xán lạn của nền văn minh, đằng sau những ngôn ngữ khoa trương về lòng bác ái và lòng nhân đạo, phải chăng đây là chân tướng của cõi đời?

Trong kinh Phật có nói về cảnh giới của loại ngạ quỷ (quỷ đói). Nhưng những kẻ trong các bức ảnh này còn sống dưới cả cảnh giới của loài ngạ quỷ, dù họ là đồng loại của chúng ta, cùng chung sống giữa “Cõi người ta”, trong Dục giới! Loài ngạ quỷ được nói đến trong kinh dù sao cũng còn có sức để kêu gào vì đói khát, còn những người trong bức ảnh hầu như không còn một chút sức lực nào, kể cả việc mở miệng để nhận thức ăn.



blankXác thân con người, từ thượng lưu trí thức đến kẻ bần cùng đều yếu đuối như nhau khi đối diện với cái đói và cái khát. Sự đói khát không chỉ đánh quỵ thân xác mà còn đánh quỵ cả tinh thần con người nữa, cho dầu đó là những kẻ đã từng một thời đứng ở đỉnh cao quyền lực và được bao phủ bởi những hào quang danh vọng, hay kể cả những bậc khổ hạnh chân tu. Chính Đức Phật khi còn là ẩn sĩ khổ hạnh cũng phải nhận một tô sữa bò của nàng Sujata mới có thể tiếp tục tu hành, thiền định và giác ngộ.

Tôi vẫn cho rằng địa ngục rốt cuộc cũng chỉ là sự hoảng loạn của tâm thức khi ta đối diện với cái chết trong nỗi hãi hùng. Còn cõi Cực lạc hay Niết bàn là sự thanh thản khi ta đón nhận cái chết bằng tâm thức an nhiên theo lẽ Bất muội nhân quả của Tổ Bách Trượng. Bản thân cái chết không đáng sợ bằng nỗi ám ảnh về nó. Nhất là cái chết từ từ vì đói khát. Đó có lẽ là một trong những điều kinh khủng và thê thảm nhất trần gian. 

Kinh điển Phật giáo, bằng vô lượng phương tiện thiện xảo,giúp ta đi vào tâm đạo bằng cách quán tưởng về bản chất bình đẳng của vạn pháp, bằng cách “hành thâm Bát –nhã-ba-la-mật”, “chiếu kiến ngũ uẩn giai không” để vượt thoát mọi khỏ ách trong cuộc đời. Tất cả những điều đó, theo tôi, chỉ là sự chuẩn bị cho một tâm thức bình yên khi đối mặt với cái chết. Kinh Lăng Già dạy chúng ta có thể hưng khởi tâm đại bi (hưng đại bi tâm) bằng cách quán tưởng thế gian như hoa đốm giữa trời, như huyễn và như mộng, vượt ngoài các khái niệm “Đoạn” hay “Thường”.

Thế nhưng các cảnh tượng đói khát đày đọa con người xuống dưới cả hàng ngạ quỷ này là “Thường” hay “Đoạn”? Đó là thực tại làm tan nát lòng người hay chỉ là “Hoa đốm giữa hư không”, là cảnh tượng “Như huyễn”, “Như mộng”? Liệu có cần phải quán tưởng thế gian như “Hư không hoa”, như kinh đã dạy, chúng ta mới “hưng đại bi tâm”? Hay chỉ cần nhìn những bức ảnh này, chúng ta cũng cảm nhận được nỗi đau của đồng loại mà rũ bỏ bớt tính ích kỷ, lòng tham dục và mở rộng cõi lòng ra?

Những bức ảnh làm tan nát lòng người kia giống như một cú đập khủng khiếp, làm lung lay tận gốc rễ mọi niềm tin của chúng ta vào những gì thiêng liêng nhất trên cõi đời này. Để làm gì với thi ca và triết học? Để làm gì với những học thuyết đầy ắp những khái niệm siêu hình? Để làm gì với lý luận tôn giáo cùng những kiến giải thâm huyền? Để làm gì với những kiến thức uyên bác về Đại tạng kinh, với những ngôn ngữ “ly tứ cú tuyệt bách phi”? Tất cả những thứ đó còn có một chút giá trị nào chăng, khi chúng ta đứng nhìn một cách bất lực trước cảnh đói thảm khốc đã đày đọa những người đồng loại chúng ta xuống thấp hơn cả loài súc vật? 

Đây mới chính là một loại “công án” đầy cay đắng cho lương tri, mà không một cuốn ngữ lục Thiền tông nào có thể nêu ra nổi! Có bao giờ chúng ta tự hỏi chúng ta lấy quyền gì để được sung sướng trong khi quanh ta, còn có biết bao đồng loại còn sống trong cảnh địa ngục trần gian? Kinh ghi chép rằng chư Phật trong quá khứ sẵn sàng xả bỏ không tiếc thân mạng để cầu Chánh pháp hoặc để cứu đói cho cả loài vật, theo tinh thần Bố thí Ba-la-mật. Còn chúng ta cứ suốt đời nghiên cứu nghiền ngẫm lời Phật dạy không thôi, rốt cuộc chúng ta có thể làm được những gì?

Mà một khi chưa giải quyết được tận gốc rễ những cảnh địa ngục trần gian vì sự đói khát của nhân gian thì có phải chăng mọi tôn giáo, triết học, mọi chủ nghĩa, nếu chỉ dừng ở lý luận, đều là những trò hý luận phù phiếm và vô nghĩa?

Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 148

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/08/2019(Xem: 4839)
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu xem độc tố này là gì. Xao lãng là xu hướng của tâm thức nhảy hết chuyện này sang chuyện khác. Đó là trường hợp của những người có một tâm thức tương tự như con cào cào hay con bướm, không sao có thể dừng lại với bất cứ một thứ gì, dù chỉ trong một khoảnh khắc. Câu thơ nổi tiếng của T.S. Eliot (Thomas Stearns Eliot, 1888-1965, thi hào người Anh gốc Mỹ, đoạt giải Nobel văn chương năm 1948) : « xao lãng bởi sự xao lãng của sự xao lãng » có thể nói lên điều đó. Câu thơ này nêu lên một cách ngắn gọn cuộc sống ngày nay trong xã hội : đó là một quá trình liên tục – hết ngày này đến tuần khác – của sự « xao lãng bởi sự xao lãng của sự xao lãng ». Liều thuốc hóa giải sự xao lãng trong hoàn cảnh đó – ít nhất là đối với lãnh vực tâm thần – là sự chú tâm vào hơi thở. Một sự tập trung thật mạnh hướng vào quá trình hô hấp của mình là một phương pháp rất hiệu nghiệm, có thể hóa giải được tất cả mọi hình thức xao lãng.
09/08/2019(Xem: 4367)
‘Khổ và sự diệt khổ’ là trọng tâm của lời đức Phật dạy, được diễn đạt qua Kinh Chuyển Pháp Luân.[2] ‘Idaṁ dukkhaṁ ariyasaccaṁ’ pariññeyyan-ti ‘Chính sự thật về khổ’, cần được con người am hiểu, rõ biết tường tận.[3] Nhận định này có thể tư duythông qua bài kinh ‘Ví Dụ Tấm Vải’[4] như sau: Ví như tấm vải bị hoen ố, vấy bẩn và người thợ nhuộm đã cố gắng làm đẹptấm vải bằng cách nhúng nó vào thuốc nhuộm loại tốt này hay loại tốt khác, nhưng kết quả cho ra không được như ý. Bởi vì thực chất của tấm vải là dơ bẩn, không sạch, uế nhiễm.
06/08/2019(Xem: 3574)
Trong toán học, muốn giải một bài toán cơ bản luôn cần có một mẫu số chung, đó là con số quan trọng cần thiết để đưa đến kết quả chính xác cho bài toán. Ngoài ra vì tính khoa học, những con số còn giúp cho mọi việc được mạch lạc, rõ ràng thứ lớp hơn mà chính Đức Thế Tôn của chúng ta cách đây 2600 năm cũng đã sử dụng nó để nói đến trong toàn bộ những bài giảng của Ngài. Khi giảng nói về các loại tâm vô hình, trừu tượng khó nhớ Đức Phật đã dùng những con số cụ thể trong Vi diệu pháp (Duy thức học). Chính nhờ vậy việc tìm hiểu về các loại Tâm vương, Tâm sở đầy phức tạp đã được Ngài hướng dẫn, phân loại rõ ràng cho từng loại tâm khác nhau. Tuy nhiên đây chỉ là những học thuyết sâu rộng của triết lý Phật giáo dành cho lãnh vực nghiên cứu.
02/08/2019(Xem: 3944)
Vào sáng Chủ Nhật 14 tháng 7 2019, tại hội trường báo Người Việt (Westminster, Little Saigon) đã có một cuộc hội thảo với chủ đề tìm cách đem sự thực tập chánh niệm tỉnh thức đến với giới thanh thiếu niên gốc Việt tại Quận Cam.
02/08/2019(Xem: 3796)
"Lý tưởng nhất là các lớp học không có cảm giác sợ hãi và căng thẳng làm việc dạy và học trở nên nặng nề. Lý tưởng nhất là giáo viên tạo dựng được nề nếp học trong không khí êm ả và chú tâm của lớp học. Tuy nhiên, không khí trong các lớp học công lập của Hoa Kỳ thường xuyên không được như vậy,…" Đó là lời phát biểu của Tiến Sĩ Bạch Xuân Phẻ khi anh thuyết trình về lợi ích của việc thực tập hơi thở trong tỉnh thức ở học đường. Phương pháp này giúp con người trị được nhiều căn bệnh về tâm lý và đối đầu được những cảm giác hồi hộp, căng thẳng, sợ sệt, bất an, trầm cảm, thường xảy ra cho các học sinh và cả trong giới giáo chức.
20/07/2019(Xem: 5974)
Các bộ kinh Nikāya ghi nhận tầm quan trọng của thiềnna (jhana) trong cấu trúc của con đường hành trì trong Phật giáo. Trong bài kinh Sa-môn quả (Sāmaññaphala Sutta, DN 2), Tiểu kinh Dụ Dấu Chân Voi (Cūḷahatthipadopama Sutta, MN 27) và nhiều bài kinh khác về sự tu tập tiệm tiến (anupubbasikkhā) của một tu sĩ Phật giáo, Đức Phật luôn đề cập đến thiền-na để minh họa cho việc tu tập tâm định. Khi vị tỳ-khưu hoàn tất tu tập về căn bản giới đức, vị ấy tìm nơi thanh vắng, sống độc cư và thanh lọc tâm, loại trừ “năm triền cái”. Khi tâm vị ấy được thanh lọc, vị ấy nhập và an trú vào bốn tầng thiềnna, được mô tả rất nhiều trong kinh tạng Nikāya qua một công thức kiểu mẫu:
03/07/2019(Xem: 3643)
Bài này sẽ viết về Thiền, phần lớn sẽ ghi về một số lời dạy của Đức Phật trong thiền pháp Thiền Tông, còn gọi là Thiền Đông Độ, hay Thiền Đạt Ma, hay Thiền Tổ Sư, và riêng tại Việt Nam còn gọi là Thiền Trúc Lâm. Chủ yếu nơi đây dựa vào kinh điển, và người viết không phải là tiếng nói thẩm quyền nào. Tất cả những gì viết nơi đây đều rất dễ hiểu; độc giả có thể ngưng ở bất kỳ dòng nào để thử nghiệm tự nhìn lại tâm. Với các bất toàn tất nhiên sẽ có, xin thành kính sám hối trước Tam Bảo.
01/07/2019(Xem: 3779)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức ( bhavaïga, tiềm thức, tâm hộ kiếp). Chúng ta luôn kinh qua một trạng thái tiêu cực như vậy khi tâm mình phản ứng lại các đối tượng bên ngoài. Dòng chảy vô thức (bhavaïga) này bị gián đoạn khi các đối tượng thâm nhập vào tâm. Kế đó, tâm vô thức (bhavaṅga) rung động trong một chóc lát ý tưởng và biến mất.
03/06/2019(Xem: 4443)
Ta nghe con sóng bạc vỗ vào bờ cát trắng bên hàng dương êm ả làm dịu mát lại bầu không khí oi bức. Trời nóng đến tận cùng không gian khiến ta hết chỗ ẩn náu nên ta nghe được giọt mưa rơi tí tách mỗi khi bầu trời đổ mưa khiến không khíêm dịu lại, tâm hồn thanh bình, nhẹ hơn.
27/05/2019(Xem: 4186)
Sống Trong Từng Sát Na là phương pháp thực tập sống tỉnh thức, sống và ý thức về sự sống trong từng mỗi phút giây. Đây là phương thức tu tập dựa trên tinh thần Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm. Kinh Bốn Lãnh Vực Quán Niệm (Satipatthana Sutta), còn gọi là Kinh Tứ Niệm Xứ, là bản kinh do Ngài đại đức Ananda thuật lại những lời thuyết giảng của Đức Phật lúc Đức Phật đang cư trú ở Kammasadamma, một thủ phủ của xứ Kuru.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567