Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Phái Lâm Tế

16/09/201016:38(Xem: 9231)
Thiền Phái Lâm Tế

204_TT Thich Nguyen Tang_Thien Su Lam Te Nghia Huyen

Nam mô A Di Đà Phật
Kính bạch Sư Phụ
Bạch Sư Phụ, hôm nay chúng con được học bài thứ 204 về Thiền Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền. Ngài thuộc đời thứ 5 sau Lục Tổ Huệ Năng, là đệ tử đắc pháp của Thiền Sư Hoàng Bá Hi Vận, là người sáng lập Thiền phái Lâm Tế. 
Ngài là một Thiền Sư nổi tiếng trên thế giới nhờ công khai sáng Tông Lâm Tế, nay tông này đã được truyền bá rộng khắp thế giới sau 13 thế kỷ.
Ngài họ Hình, pháp hiệu là Nghĩa Huyền, quê ở Nam Hoa thuộc Tào Châu. Thuở thiếu thời, ngài đã có chí xuất trần, đến lớn xuất gia thọ giới cụ túc. Ngài lầu thông tam tạng kinh, luật, luận nhưng ngài than rằng: " tam tạng kinh điển là phương thuốc cứu đời, chưa phải yếu chỉ của giáo ngoại biệt truyền".
Ngài lên đường đến đạo tràng của TS Hoàng Bá ở ba năm cầu học.

Ngài thưa hỏi TS Hoàng Bá, thế nào là ý chỉ của Phật, ngài bị Tổ Hoàng Bá đánh một gậy. Lần thứ nhì, lần thứ ba Ngài đắp y thưa cùng một câu hỏi đều bị đánh một gậy, 3 lần hỏi 3 lần đều bị đánh. Ngài Lâm Tế chán nản nên xin đi chỗ khác. Tổ Hoàng Bá thương bảo nên đến TS Đại Ngu ở Cao An.
TS Đại Ngu hỏi Ngài Lâm Tế từ đâu đến, Ngài Lâm Tế trình thưa từ Tổ Hoàng Bá.
TS Đại Ngu khai thị " TS Hoàng Bá đã vì ngươi mà chỉ chỗ tột khổ, lại đến trong ấy hỏi có lỗi không lỗi?" vừa nghe câu này, ngài Lâm Tế đã đại ngộ và trở về lễ tạ ơn Sư phụ Hoàng Bá.
Ngài Lâm Tế trồng cây Tùng trên núi. TS Hoàng Bá hỏi trồng cây Tùng để làm gì?
Ngài Lâm Tế thưa, cây Tùng cho cảnh trí đẹp và là tiêu bản cho người đời sau.
TS Hoàng Bá ấn chứng, Tông của ta tới đời con rất Hưng thịnh.

Kính mời xem tiếp



Tổ Thứ 38. Khai tổ tông Lâm Tế – Thiền sư LÂM TẾ – NGHĨA HUYỀN............................. 66
Tổ Thứ 39. Đời Thứ 2 Tông Lâm Tế – Thiền sư HƯNG HÓA – TỒN TƯƠNG....................... 67
Tổ Thứ 40. Đời Thứ 3 Tông Lâm Tế – Thiền sư NAM VIỆN – HUỆ NGUNG....................... 67
Tổ Thứ 41. Đời Thứ 4 Tông Lâm Tế – Thiền sư PHONG HUYỆT – DIÊN CHIỂU................ 68
Tổ Thứ 42. Đời Thứ 5 Tông Lâm Tế – Thiền sư THỦ SƠN – TỈNH NIỆM........................... 69
Tổ Thứ 43. Đời Thứ 6 Tông Lâm Tế – Thiền sư PHẦN DƯƠNG – THIỆN CHIÊU................ 71
Tổ Thứ 44. Đời Thứ 7 Tông Lâm Tế – Thiền sư THẠCH SƯƠNG – SỞ VIÊN...................... 72
Tổ Thứ 45. Đời Thứ 8 Tông Lâm Tế – Thiền sư DƯƠNG KỲ – PHƯƠNG HỘI...................... 72
Tổ Thứ 46. Đời Thứ 9 Tông Lâm Tế – Thiền sư BẠCH VÂN – THỦ ĐOAN.......................... 73
Tổ Thứ 47. Đời Thứ 10 Tông Lâm Tế – Thiền sư NGŨ TỔ – PHÁP DIỄN.......................... 74
Tổ Thứ 48. Đời Thứ 11 Tông Lâm Tế – Thiền sư VIÊN NGỘ – KHẮC CẦN........................ 75
Tổ Thứ 49. Đời Thứ 12 Tông Lâm Tế – Thiền sư HỔ KHƯU – THIỆU LONG....................... 76
Tổ Thứ 50. Đời Thứ 13 Tông Lâm Tế – Thiền sư ỨNG AM – ĐÀM HOA............................ 77
Tổ Thứ 51. Đời Thứ 14 Tông Lâm Tế – Thiền sư MẬT AM – HÀM KIỆT.......................... 77
Tổ Thứ 52. Đời Thứ 15 Tông Lâm Tế – Thiền sư PHÁ AM – TỔ TIÊN.............................. 78
Tổ Thứ 53. Đời Thứ 16 Tông Lâm Tế – Thiền sư VÔ CHUẨN – SƯ PHẠM......................... 78
Tổ Thứ 54. Đời Thứ 17 Tông Lâm Tế – Thiền sư TUYẾT NHAM – TỔ KHÂM.................... 79
Tổ Thứ 55. Đời Thứ 18 Tông Lâm Tế – Thiền sư CAO PHONG – NGUYÊN DIỆU................ 80
Tổ Thứ 56. Đời Thứ 19 Tông Lâm Tế – Thiền sư TRUNG PHONG – MINH BỔN................. 81
Tổ Thứ 57. Đời Thứ 20 Tông Lâm Tế – Thiền sư THIÊN NHAM – NGUYÊN TRƯỜNG........ 82
Tổ Thứ 58. Đời Thứ 21 Tông Lâm Tế – Thiền sư VẠN PHONG – THỜI ỦY......................... 83
Tổ Thứ 59. Đời Thứ 22 Tông Lâm Tế – Thiền sư BẢO TẠNG – PHỔ TRÌ........................... 84
Tổ Thứ 60. Đời Thứ 23 Tông Lâm Tế – Thiền sư ĐÔNG MINH – HUỆ NHẠC..................... 85
Tổ Thứ 61. Đời Thứ 24 Tông Lâm Tế – Thiền sư HẢI CHU – VĨNH TỪ.............................. 85
Tổ Thứ 62. Đời Thứ 25 Tông Lâm Tế – Thiền sư BẢO PHONG – TRÍ TUYÊN..................... 86
Tổ Thứ 63. Đời Thứ 26 Tông Lâm Tế – Thiền sư THIÊN KỲ – BỔN THỤY........................ 87
Tổ Thứ 64. Đời Thứ 27 Tông Lâm Tế – Thiền sư (Vô Văn) TUYỆT HỌC – MINH THÔNG................. 88
Tổ Thứ 65. Đời Thứ 28 Tông Lâm Tế – Thiền sư TIẾU NHAM – ĐỨC BẢO........................ 88
Tổ Thứ 66. Đời Thứ 29 Tông Lâm Tế – Thiền sư HUYỄN HỮU – CHÁNH TRUYỀN............ 90
Tổ Thứ 67. Đời Thứ 30 Tông Lâm Tế – Thiền sư MẬT VÂN – VIÊN NGỘ......................... 91
Tổ Thứ 68. Đời Thứ 31 Tông Lâm Tế – Thiền sư MỘC TRẦN – ĐẠO MÂN........................ 92
Tổ Thứ 69. Đời Thứ 32 Tông Lâm Tế – Thiền sư KHOÁNG VIÊN – BỔN QUẢ.................... 93
Tổ Thứ 70. Đời Thứ 33 Tông Lâm Tế – Thiền sư NGUYÊN THIỀU- SIÊU BẠCH – THỌ TÔNG..93
Tổ Thứ 71. Đời Thứ 34 Tông Lâm Tế – Sơ Tổ Thiền Phái Lâm Tế Chúc Thánh............... 95
Thiền sư MINH HẢI – ĐẮC TRÍ – PHÁP BẢO..................................................... 95








Ý kiến bạn đọc
28/06/201811:21
Khách
Hình chụp bài kệ của tổ Minh Hải tại Australia không khớp với văn bản của bài kệ, ngay phía trên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/08/2019(Xem: 8742)
Niết bàn là khái niệm thể hiện triết lý độc đáo về giải thoát của Phật giáo. Đây là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, giải thoát khỏi mọi đau khổ của cuộc đời. Trạng thái này có thể đạt được khi còn đang sống (Hữu dư Niết bàn) hoặc khi đã chết (Vô dư Niết bàn). Phật giáo Tiểu thừa hướng tới Vô dư Niết bàn - một Niết bàn tịch diệt, cô đơn, từ bỏ mọi thú vui trần thế. Phật giáo Đại thừa lại hướng tới Hữu dư Niết bàn - một Niết bàn nhân bản, nhập thế và hoạt động cùng những buồn vui nhân thế. Quan niệm này đã mang lại một sức hấp dẫn, sức sống mới cho Phật giáo, đặc biệt là trong xã hội hiện đại.
21/08/2019(Xem: 4892)
Trước hết chúng ta hãy tìm hiểu xem độc tố này là gì. Xao lãng là xu hướng của tâm thức nhảy hết chuyện này sang chuyện khác. Đó là trường hợp của những người có một tâm thức tương tự như con cào cào hay con bướm, không sao có thể dừng lại với bất cứ một thứ gì, dù chỉ trong một khoảnh khắc. Câu thơ nổi tiếng của T.S. Eliot (Thomas Stearns Eliot, 1888-1965, thi hào người Anh gốc Mỹ, đoạt giải Nobel văn chương năm 1948) : « xao lãng bởi sự xao lãng của sự xao lãng » có thể nói lên điều đó. Câu thơ này nêu lên một cách ngắn gọn cuộc sống ngày nay trong xã hội : đó là một quá trình liên tục – hết ngày này đến tuần khác – của sự « xao lãng bởi sự xao lãng của sự xao lãng ». Liều thuốc hóa giải sự xao lãng trong hoàn cảnh đó – ít nhất là đối với lãnh vực tâm thần – là sự chú tâm vào hơi thở. Một sự tập trung thật mạnh hướng vào quá trình hô hấp của mình là một phương pháp rất hiệu nghiệm, có thể hóa giải được tất cả mọi hình thức xao lãng.
09/08/2019(Xem: 4434)
‘Khổ và sự diệt khổ’ là trọng tâm của lời đức Phật dạy, được diễn đạt qua Kinh Chuyển Pháp Luân.[2] ‘Idaṁ dukkhaṁ ariyasaccaṁ’ pariññeyyan-ti ‘Chính sự thật về khổ’, cần được con người am hiểu, rõ biết tường tận.[3] Nhận định này có thể tư duythông qua bài kinh ‘Ví Dụ Tấm Vải’[4] như sau: Ví như tấm vải bị hoen ố, vấy bẩn và người thợ nhuộm đã cố gắng làm đẹptấm vải bằng cách nhúng nó vào thuốc nhuộm loại tốt này hay loại tốt khác, nhưng kết quả cho ra không được như ý. Bởi vì thực chất của tấm vải là dơ bẩn, không sạch, uế nhiễm.
06/08/2019(Xem: 3605)
Trong toán học, muốn giải một bài toán cơ bản luôn cần có một mẫu số chung, đó là con số quan trọng cần thiết để đưa đến kết quả chính xác cho bài toán. Ngoài ra vì tính khoa học, những con số còn giúp cho mọi việc được mạch lạc, rõ ràng thứ lớp hơn mà chính Đức Thế Tôn của chúng ta cách đây 2600 năm cũng đã sử dụng nó để nói đến trong toàn bộ những bài giảng của Ngài. Khi giảng nói về các loại tâm vô hình, trừu tượng khó nhớ Đức Phật đã dùng những con số cụ thể trong Vi diệu pháp (Duy thức học). Chính nhờ vậy việc tìm hiểu về các loại Tâm vương, Tâm sở đầy phức tạp đã được Ngài hướng dẫn, phân loại rõ ràng cho từng loại tâm khác nhau. Tuy nhiên đây chỉ là những học thuyết sâu rộng của triết lý Phật giáo dành cho lãnh vực nghiên cứu.
02/08/2019(Xem: 3984)
Vào sáng Chủ Nhật 14 tháng 7 2019, tại hội trường báo Người Việt (Westminster, Little Saigon) đã có một cuộc hội thảo với chủ đề tìm cách đem sự thực tập chánh niệm tỉnh thức đến với giới thanh thiếu niên gốc Việt tại Quận Cam.
02/08/2019(Xem: 3863)
"Lý tưởng nhất là các lớp học không có cảm giác sợ hãi và căng thẳng làm việc dạy và học trở nên nặng nề. Lý tưởng nhất là giáo viên tạo dựng được nề nếp học trong không khí êm ả và chú tâm của lớp học. Tuy nhiên, không khí trong các lớp học công lập của Hoa Kỳ thường xuyên không được như vậy,…" Đó là lời phát biểu của Tiến Sĩ Bạch Xuân Phẻ khi anh thuyết trình về lợi ích của việc thực tập hơi thở trong tỉnh thức ở học đường. Phương pháp này giúp con người trị được nhiều căn bệnh về tâm lý và đối đầu được những cảm giác hồi hộp, căng thẳng, sợ sệt, bất an, trầm cảm, thường xảy ra cho các học sinh và cả trong giới giáo chức.
20/07/2019(Xem: 6038)
Các bộ kinh Nikāya ghi nhận tầm quan trọng của thiềnna (jhana) trong cấu trúc của con đường hành trì trong Phật giáo. Trong bài kinh Sa-môn quả (Sāmaññaphala Sutta, DN 2), Tiểu kinh Dụ Dấu Chân Voi (Cūḷahatthipadopama Sutta, MN 27) và nhiều bài kinh khác về sự tu tập tiệm tiến (anupubbasikkhā) của một tu sĩ Phật giáo, Đức Phật luôn đề cập đến thiền-na để minh họa cho việc tu tập tâm định. Khi vị tỳ-khưu hoàn tất tu tập về căn bản giới đức, vị ấy tìm nơi thanh vắng, sống độc cư và thanh lọc tâm, loại trừ “năm triền cái”. Khi tâm vị ấy được thanh lọc, vị ấy nhập và an trú vào bốn tầng thiềnna, được mô tả rất nhiều trong kinh tạng Nikāya qua một công thức kiểu mẫu:
03/07/2019(Xem: 3672)
Bài này sẽ viết về Thiền, phần lớn sẽ ghi về một số lời dạy của Đức Phật trong thiền pháp Thiền Tông, còn gọi là Thiền Đông Độ, hay Thiền Đạt Ma, hay Thiền Tổ Sư, và riêng tại Việt Nam còn gọi là Thiền Trúc Lâm. Chủ yếu nơi đây dựa vào kinh điển, và người viết không phải là tiếng nói thẩm quyền nào. Tất cả những gì viết nơi đây đều rất dễ hiểu; độc giả có thể ngưng ở bất kỳ dòng nào để thử nghiệm tự nhìn lại tâm. Với các bất toàn tất nhiên sẽ có, xin thành kính sám hối trước Tam Bảo.
01/07/2019(Xem: 3799)
Tâm là chủ thể tiếp nhận các đối tượng từ bên ngoài lẫn bên trong. Khi đang ngủ say, thì tâm được cho là trống rỗng, hay nói cách khác, đó là trạng thái vô thức ( bhavaïga, tiềm thức, tâm hộ kiếp). Chúng ta luôn kinh qua một trạng thái tiêu cực như vậy khi tâm mình phản ứng lại các đối tượng bên ngoài. Dòng chảy vô thức (bhavaïga) này bị gián đoạn khi các đối tượng thâm nhập vào tâm. Kế đó, tâm vô thức (bhavaṅga) rung động trong một chóc lát ý tưởng và biến mất.
03/06/2019(Xem: 4459)
Ta nghe con sóng bạc vỗ vào bờ cát trắng bên hàng dương êm ả làm dịu mát lại bầu không khí oi bức. Trời nóng đến tận cùng không gian khiến ta hết chỗ ẩn náu nên ta nghe được giọt mưa rơi tí tách mỗi khi bầu trời đổ mưa khiến không khíêm dịu lại, tâm hồn thanh bình, nhẹ hơn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567