Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thi ca 45 : Cái thấy của người chứng đạo đúng và sai của tục đế không có giá trị chân thật

06/05/201311:19(Xem: 5749)
Thi ca 45 : Cái thấy của người chứng đạo đúng và sai của tục đế không có giá trị chân thật


Chứng Đạo Ca
Trực chỉ đề cương

Nguyên tác: Huyền Giác Thiền Sư
Biên dịch: Từ Thông Thiền Sư

Sài Gòn 1998 - 2543

---o0o---

THI CA 4

CÁI THẤY CỦA NGƯỜI CHỨNG ĐẠO ĐÚNG VÀ SAI CỦA TỤC ĐẾ KHÔNG CÓ GIÁ TRỊ CHÂN THẬT

---o0o---

Phiên âm:

Thị bất thị, phi bất phi

Sai chi hào ly thất thiên lý

Thị tắc long nữ đốn thành Phật

Phi tắc thiện tinh sanh hãm trụy

Dịch nghĩa:

* Gọi là THỊ, không tướng mạo lấy chi làm chuẩn!

Bảo rằng PHI, không có chuẩn, biết cứ vào đâu?

Ngạn nhữ rằng: "nhân mà sai suyển một ly

Thì quả sẽ, lệch mục tiêu… vạn dặm"

* Dựa nhân quả, quyết định SAI hay ĐÚNG

Nhân tốt lành, hoa quả mới sum sê

Rõ là sai, Thiện tinh, con Phật đọa A tỳ…

Chắc chắn đúng, Long nữ, chứng Bồ-đề trong nháy mắt.

TRỰC CHỈ

THỊ có nghĩa là đúng, phải. PHI có nghĩa là sai, quấy. Có thể nói THỊ, PHI là vấn đề chót lưỡi đầu môi của mọi người trong cuộc sống hàng ngày. Tất cả mọi người đều có thể tưởng rằng vấn đề THỊ PHI là việc tầm thường cho nên ai cũng có quyền nói THỊ hoặc nói PHI. Ai cũng có quyền khen tặng hay phê phán kẻ khác một cách dễ dàng. Người được khen tặng, tâng bốc rất dễ bằng lòng, đắc chí. Người bị phê phán, chê bai rất dễ thối chí nản lòng thậm chí đâm hoang mang, sợ sết.

Dưới mắt của người Chứng Đạo, không phải vậy. Được khen hay bị chê đều phải cân nhắc, phải sử dụng lý trí, nhận xét khách quan vấn đề. KHEN, ai khen? CHÊ, ai chê? Người khen là hạng người nào? Người chê là hạng người nào? Dựa trên tiêu chuẩn nào để khen, để chê, để nói đúng, nói sai. Sự thật, THỊ và PHI không ai tìm ra được hình mạo, dáng vẻ của thị phi. Vậy thì vấn đề thị phi không phải dễ đánh giá, dễ nói trên đầu môi chót lưỡi mà người ta tưởng là ai cũng có thể nói phê phán ĐÚNG, SAI dễ dàng.

Cái thấy của người Chứng Đạo: THỊ PHI không có dáng vẻ nhìn mạo, nó không có cái "tướng thực" cho nên trên cõi đời không có nhiều người đủ tư cách, có trí tuệ, chân chính, sự xét đoán mới đáng tin cậy. Cao hơn một bậc, người tu sĩ phải dựa trên chân lý NHÂN QUẢ để làm chuẩn cho THỊ và PHI. Lời nói, việc làm đem lại hậu quả lợi lạc thật sự, an ổn thật sự, hạnh phúc thật sự và giải thoát thật sự. Lời nói, việc làm đó là THỊ. Ngược lại, dù có tán thán, có tâng bốc qua cửa miệng của đa số người cùng bào chuốt, ngợi khen, dưới cái thấy của người chứng đạo, đó vẫn là PHI.

"… THỊ tắc Long nữ đốn thành Phật

PHI tắc Thiện tinh sanh hãm trụy…"



---o0o---
Vi tính : Hoa Giác - Quảng Thức

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2010(Xem: 7281)
Lịch sử Thiền tông Trung Hoa sơ kỳ xuất hiện với hai tên tuổi tiêu biểu. Một vị đương nhiên là Bồ-đề Đạt-ma, người khai sáng Thiền tông Trung Hoa, và vị thứ hai là Lục Tổ Huệ Năng, người định hướng dòng mạch Thiền tông bắt nguồn từ Tổ Đạt-ma. Nếu không có Tổ Huệ Năng và môn đệ trong tông môn của Ngài thì Thiền tông không thể nào phát huy và hưng thịnh vào đầu đời Đường Trung Hoa. Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ chiếm một vị thế tối quan trọng trong nhà Thiền, và những thăng trầm thuộc về duyên nghiệp mà bộ kinh đã khứng chịu có nhiều điều rất lý thú.
27/10/2010(Xem: 9042)
Tu thiền là thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
19/10/2010(Xem: 3726)
Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm; bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ; bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát
18/10/2010(Xem: 5447)
Thiền là phương pháp tu hành chủ yếu của nhà Phật. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, các đệ tử của Ngài đều lấy việc hành thiền làm cơ bản. Các phương pháp hành thiền này đều nương theo các kinh, luật và luận đã thuyết; như thiền Quán niệm hơi thở, thiền Tứ niệm xứ, Thiền na Ba la mật v.v...Tu các pháp thiền này được chứng nhập tuần tự theo thứ bậc, tùy theo trình độ và thời gian hành trì của hành giả. Loại thiền này được gọi là Như Lai Thiền. Còn Tổ Sư Thiền thì ngược lại không có thứ bậc, là pháp trực tiếp chỉ thẳng vào bản thể chân tâm Phật tánh.
16/10/2010(Xem: 4629)
Sự chia rẽ giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa trầm trọng ở mức độ nào? Sao bên nào cũng tự nhận là đi đúng đường và cao siêu hơn? Và tại sao Phật từng nói trong Kinh Pháp Hoa, Đại Thừa là hạt giống rắn chắc, khác với Tiểu Thừa là hàng thấp thỏi, trình độ kém, như vậy Phật đã xếp hạng giữa hai phái, vậy mà Tiểu Thừa vẫn tự nhận là Nguyên Thuỷ đúng lời Phật dạy
12/10/2010(Xem: 4205)
Niêm hoa vi tiếu: nói đầy đủ là: "Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu." Nghĩa là: Đức Phật Thích Ca cầm cái hoa đưa lên, ông Ma Ha Ca Diếp mỉm cười.
12/10/2010(Xem: 6566)
Thiền sư Đạo Nguyên Hy Huyền (Dogen Kigen, 1200-1253) là khai tổ tông Tào Động Nhật Bản. Năm 1224 sư sang Trung Hoa học đạo với thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh (1163-1228) là tổ tông Tào Động đời thứ 15. Sau khi được thầy ấn chứng, sư trở về Nhật Bản vào năm 1228.
12/10/2010(Xem: 7551)
Phật giáo Nguyên thủy (Theravada) đã miêu tả hai Chân lý: Chân lý Tuyệt đối (Paramatha Sathya) và Chân lý có tính Quy ước (Sammuti Sathya). Luận sư Long Thọ của Truyền thống Phật giáo Đại thừa (Mahayana) cũng đã đồng nhất hai Chân lý ấy, nhưng luận thuyết của Ngài khác với luận thuyết của Truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada).
12/10/2010(Xem: 6870)
Quyển sách này rất có giá trị đối với người tham thiền, nhưng rất tiếc vì có ý kiến của người biên soạn (Người biên soạn đây chỉ là người sưu tập để xuất bản) xen vào nên làm giảm giá trị quyển sách.
10/10/2010(Xem: 7102)
Quyển sách này trích dịch từ “Lai Quả Thiền Sư Ngữ Lục”. Ngài Lai Quả 24 tuổi xuất gia, 28 tuổi kiến tánh, tịch năm 1953 thọ 73 tuổi. Ngài trụ trì chùa Cao Mân hơn 30 năm, chuyên hoằng Tổ Sư Thiền, phàm có gì chướng ngại sự tham thiền, ngài đều bãi bỏ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567