Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

IV. Lời Dạy Của Thân Loan

02/05/201316:05(Xem: 3054)
IV. Lời Dạy Của Thân Loan


TỊNH ĐỘ TÔNG NHẬT BẢN

Dịch giả Thích Như Điển

---o0o---

[3]

I. Lời Dạy Của Thân Loan

I.1Ngôn Ngữ Của Thán Dị Sao

I.1.1Lời Thệ Nguyện Của Phật A Di Đà

Thệ nguyện bất tư nghì của Đức Phật A Di Đà là cứu độ tất cả chúng sanh được vãng sanh.

(Nguyên văn bằng Hán - Nhật được lược bớt và phần nầy trở xuống chỉ dịch ngôn ngữ hiện đại mà thôi)

Ai cũng nghĩ rằng thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà là tiếp dẫn chúng sanh thoát khỏi vòng sanh tử và vãng sanh Tịnh độ. Cho đến khi nào tâm chúng sanh hướng về Như Lai, miệng niệm Phật, tức thì ngay khi ấy, Đức A Di Đà phóng ánh quang minh đại bi hộ trì tiếp dẫn, để họ được lợi ích rõ ràng. (Điều thứ nhất – Thánh Điển trang 831).

Giải thích:

I.1.1.1Phật Đà Chơn Thật

Đây là từ ngữ nằm ở phần đầu của “Thán Dị saocho biết bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà là cứu độ chúng sanh. Chắc chắn điều nầy sẽ biểu hiện qua tín tâm và pháp niệm Phật cũng như sự lợi ích của việc chấp trì danh hiệu[1].

“Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọcho biết từ xưa khi còn là Pháp Tạng Bồ Tát, Phật A Di Đà phát nguyện thiết lập thế giới Tịnh Độ thanh tịnh, không có phiền não và nguyện rằng ai được vãng sanh, đời đời an lạc và tỉnh thức. Vì phát nguyện như thế và để thực hiện nguyện nầy, Ngài tích tụ công đức tu hành trong nhiều kiếp cho đến khi thành Phật A Di Đà, cứu độ cho vô số chúng sanh.

Tất nhiên, trong kinh điển, Đức Phật A Di Đà luôn luôn ước muốn chúng sanh, nếu có thể được, đều được siêu thoát. Thế nhưng, ngay khi chúng ta, những kẻ trí mỏng, tội dày tu pháp môn nầy cầu mong cứu độ, thì suy nghĩ của chúng ta đã bao hàm ước muốn siêu thoát hoàn toàn rồi.

Lời nguyện của Đức Phật A Di Đà gọi là “bất khả tư nghìvà việc hóa độ chúng sanh đầy bản ngã tự kỷ cũng là một việc “bất khả tư nghì. Có tất cả 48 nguyện nhưng không có nguyện nào không hứa khả cứu độ chúng sanh. Nhất là phần đầu và phần cuối mỗi nguyện đều lập lại: “Ta thề không thành Phật”, “nếu không được vậy…, sẽ không giữ ngôi chánh giác”.

Ví dụ “dẫu cho chúng sanh thực sự thành Phật, mà lời nguyện căn bản nầy không thực hiện ta (Phật Di Đà) không gọi là Phật.

Đồng thời cốt lõi của lời nguyện của “Chân Phật”ấy như thế nào được minh thị trong “Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, bản kinh trình bày rất cụ thể những lời nguyện của Đức A Di Đà, rất căn bản, rất phước đức và rất nhất quán với Phật Đà.

I.1.1.2Lời Nguyện Thứ 18

Trong 48 lời nguyện, mỗi nguyện Ngài đều hứa thực hiện một cách chắc chắn. Song, điểm chính ở đây là dù kẻ ngu muội đến mấy đi nữa vẫn được tiếp dẫn vãng sanh về Tịnh Độ như nhau, nếu có niềm tin, hết lòng xưng niệm danh hiệu: Nam mô A Di Đà Phật”. Thật ra, bổn nguyện của Đức A Di Đà Như Lai gồm có 48 lời nguyện, song nguyện thứ 18 xem như bao hàm tất cả, cho nên Pháp Nhiên gọi nguyện thứ 18 gọi là: “Vua trong các bổn nguyện”và chọn bổn nguyện nầy. Lời nguyện thứ 18 như vầy:

“Ta thề không thành Phật, nếu ai muốn sanh nước ta, chí tâm niệm Phật cho đến 10 niệm mà chẳng vãng sanh, Ta quyết không ở tại ngôi chánh giác. Song trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp[2], (Lược bớt, vì nội dung giải thích giống như trên).

Nguyện: “Nếu chẳng vãng sanh .........., cho đến quyết không ở tại ngôi chánh giác”là cứu độ, là thệ nguyện nhiếp thủ và cũng còn gọi là Nhiếp Thủ Môn. Ở đây nói rằng: “Trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp”là hai loại tội nặng, nếu không có tâm sám hối, không được vãng sanh và bị ngăn cản phải dừng lại tại cửa. Có phạm tội ngũ nghịch và hủy báng chánh pháp nhưng hồi tâm và tín thọ bổn nguyện, có thể chuyển hoán được. Đó là thành tựu của sự giáo hóa vậy.

I.1.1.3Tín Tâm

“Chí tâm tín nhạo”là từ ngữ mà Thân Loan thêm vào cho mạnh hơn như là: “Nguyện chân thật của ta, nên tín nhạo”hay là: “Bổn nguyện của Như Lai là cứu độ chẳng phải đùa, không nên nghi ngờ mà hãy tin”. hoặc “Nếu muốn sanh về nước ta…”. Thật vậy, vấn đề “nhờ tha lực và chí tâm tín nhạo, được sanh về cõi An Lạc Tịnh Độ”“trí tuệ”ngược lại kẻ phàm phu không rõ đường đi nhưng tâm vẫn hướng đến lãnh vực siêu thoát cầu mong tỏ ngộ, cho nên nói rằng “cứu độ chẳng phải đùa, không nên nghi ngờ mà hãy tin và mau phát nguyện sanh về Tịnh Độ”. Đây gọi là ngôn ngữ của lòng Đại Bi được thể hiện.

Sự khuyến tấn và tiếp dẫn là tiếng nói chân thành “tùy theo niềm tín ngưỡng, được sanh về cõi Tịnh Độ và chắc chắn mong ước sẽ thành tựu”. Thật vậy, khi nghe như thế, không còn nghi ngờ mà phát niềm tin. Nghe và thọ trì mà không nghi ngờ nghĩa là những ngôn ngữ từ bi và trí tuệ của Như Lai đã bao phủ trí tuệ nhỏ bé của ta, dù không rõ biết “việc nhứt định vãng sanh”Tịnh Độ nhưng chắc chắn điều chờ đợi có thể xảy ra. Đây chính là lòng tin, mà lòng tin ấy chính là bổn nguyện quyết định, không còn nghingờ gì nữa.

I.1.1.4Xưng Danh

Tiếp theo, nguyện “cho đến mười niệm”là lời nguyện về xưng danh hiệu. Niệm cho đến mười niệm là định tâm. Còn diễn đạt lòng tin qua danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật”là bổn nguyện niềm tin. Mười niệm nghĩa là với tâm tịnh tín, xưng niệm danh hiệu đến mười lần. Song đó là sự giải thích đặc biệt của Thiện Đạo và Pháp Nhiên. Với Thân Loan “mười niệm”có nghĩa là “miệng chỉ cần niệm mười lần”mà thôi.

Chữ “cho đến”có nghĩa là không hạn định số lần niệm Phật. Thật sự, với kẻ bất hạnh, cuộc đời vô cùng ngắn ngủi chỉ trong một niệm là hết một đời, cho nên chỉ cần niệm Phât một niệm là đủ. Còn với người trường thọ, xưng tụng trăm ngàn vạn biến, bao nhiêu cũng được. Song trong bổn nguyện niệm Phật nghĩa là từng niệm, từng niệm phải được biểu hiện cụ thể qua pháp niệm Phật sao cho được vô lượng công đức của đức Như Lai, cho nên niệm Phật nhiều hay ít không có hạn định. Phiền não thì vô lượng, không thể chuyển hóa bằng phương pháp thực hành trí tuệ cá nhân mà tất cả chi nhờ vào tâm đại bi của Như Lai mà chuyển hóa khi niệm danh hiệu của Ngài”. Ấy chính là lời nguyện của hành giả niệm Phật.

Với những ai có niềm tin, không thể không niệm Phật. Ngược lại, niệm Phật là được sống trong nguyện lực của Như Lai và làm cho đời sống tiến bộ hơn, Niệm Phật chính là nương nhờ ân đức của Như Lai để dễ dàng thích ứng với cuộc sống đầy khó khăn của chúng ta trong hiện tại.

I.1.1.5Nhiếp Thủ Bất Xả

“Nếu không vãng sanh, Ta không giữ ngôi Chánh giác”. Nói rằng hành giả niệm Phật với niềm tin vào bổn nguyện, song không vãng sanh thì Ta (Đức Phật A Di Đà) không giữ ngôi chánh giác là xác chứng sự vãng sanh của mười phương chúng sanh và bản thể giác ngộ của chư Phật không có hai. Cũng có thể nói là cả hai vấn đề vãng sanhchánh giáccùng một bản thể. Cũng là lời xác chứng bổn nguyện cứu độ của Phật. Hơn nữa, danh hiệu A Di Đà Phậtchẳng phải đơn thuần là tên của Phật A Di Đà, mà những ai tin tưởng bổn nguyện thì ngay khi ngồi xuống niệm Phật liền vãng sanh. Đây chính là vừa trình bày pháp môn xưng danh hiệu và vừa giảng rõ giáo lý cứu độ.

Việc nầy phù hợp với pháp môn quán chơn thânở trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ”. Ở đó, cho biết việc niệm Phật được lợi ích “nhiếp thủ, bất xả”[3]. Trong ánh quang minh đại bi, đại trí của Đức Phật A Di Đà, phóng ra chiếu sáng mười phương thế giới,chúng sanh niệm Phật sẽ nhận lấy chẳng bỏ”. Với tâm kính tín, Pháp Nhiên mô tả lời Kinh như sau:

Ánh trăng thanh chiếu đến tận cùng,

Song lắng lại nơi tâm người thưởng nguyệt.

Lời thơ ngâm vịnh ánh trăng thu nhẹ nhàng sao! Ánh trăng lúc nào chiếu sáng mọi nơi không phân biệt, nhưng phải chăng ai thưởng nguyệt cũng đều thấy sáng? Bởi thế kẻ ngắm trăng phải nương vào ánh trăng, để ánh sáng huyền dịu chiếu rọi toàn thân, cho đến chiếu xuyên suốt vùng sâu thẳm của tâm thức. Cũng vậy, chúng ta là người đang lặn hụp trong bóng tối, may mắn được nghe lời dạy của Phật, mà lời dạy ấy như ánh quang minh Đại Bi Đại Tríchiếu sáng khắp mọi nơi, đến tất cả mọi người như nhau. Không còn nghi ngờ gì nữa, chúng ta hãy nghe, tiếp nhận và thọ trì. Không những ánh sáng bao trùm gồm ta và câu niệm Phật ta đang niệm, mà ánh sáng Phật quang bao trùm cả kiếp nhân sinh và chuyển dời chúng ta qua nơi khác được.


I.1.2Cứu Độ Bình Đẳng

Không phân biệt người già, người trẻ, người lành, kẻ dữ; chỉ có niềm tin nơi tâm mới là yếu tố quan trọng.

(lược phần nguyên văn Hán - Nhật)

Bổn nguyện đầu tiên của Đức Phật A Di Đà là không phân biệt người già hay người trẻ; người lành hay kẻ dữ. Những ai có niềm tin thâm sâu vào bổn nguyện, dù tội nặng cho mấy đi nữa, dù có yêu thương giận ghét và bị lửa phiền não thiêu đốt đến thế nào đi nữa, cũng được Phật từ bi cứu độ. Đây chính là bổn nguyện đem lòng đại bi giải trừ tất cả những phiền não. (Điều thứ nhứt – Thánh Điển – trang 831).

Giải thích:

I.1.2.1Bình Đẳng Với Lòng Từ Bi

Thật là đặc biệt, đức Phật A Di Đà cứu độ tất cả mọi người một cách bình đẳng, vượt lên trên những vấn đề già, trẻ, thiện, ác…, bình đẳng ấy không gì khác hơn chủ yếu dựa vào niềm tin. Trước nhất, lòng từ bi của đức Phật A Di Đà bao dung tất cả mọi chúng sanh không phân biệt già, trẻ, người lành, kẻ dữ. Quả đất nầy không phân biệt một vật nào trên thân nó cả, dù vật nặng hay vật nhẹ, dù vật đẹp hay xấu v.v.., cũng không ngần ngại chuyên chở suốt năm nầy, tháng nọ. Giống như vậy, bổn nguyện đại bi của đức Phật A Di Đà dung chứa tất cả mọi chúng sanh, không phân biệt đời sống của mỗi cá nhân, mà còn thiết tha cứu độ và an trụ một nơi nào đó nữa. Ngoài ra, dù tình thương vô biên và tận tâm cứu độ vô bờ bến của đức Phật A Di Đà dành cho chúng ta như thế, song trong cuộc sống đầy dẫy phiền não hư dối không thật, đầy thương yêu ghét bỏ nầy, cho đến khi nào chúng ta có niệm Phật cho đến khi đó ánh sáng Tịnh Độ qua sự niệm Phật và cầu nguyện ấy mới làm cho đời sống chúng ta trở nên thanh tịnh và vượt qua những thương ghét trên. Tin rằng trong tâm đại bi của Như Lai, chúng ta là những đứa con không những không bị ruồng bỏ, mà còn được trân quý, được xem là con ruột của Như Lai, niềm tin ấy phải được lưu giữ trong tâm một cách trang trọng tôn kính.

I.1.2.2Cả Việc Thiện Lẫn Việc Ác

Nói rằng “cả việc thiện lẫn việc ác”phải chăng “người già, người trẻ, người lành, kẻ dữ” cũng đều được cứu độ chăng? Dễ hiểu nhất là giải thích như thế. Song có phải đây là lời phát ngôn không có ý thức, vì phân biệt nào là già, trẻ, tốt, xấu như một người phân biệt, hay là tự thân người nói không già, không trẻ, không thiện cũng không ác? Thật ra, lời phát nguyện cứu độ của chính đức Phật A Di Đà không tuyển chọn già trẻ, lành, dữ, mà biểu lộ lòng từ bi của Ngài rất bao dung và thật bình đẳng, không phân biệt.

Điều ấy cũng phải hiểu rằng đây là lời khẳng định được cứu độ không phải của riêng ai. Ngược lại “không có sự chọn lựa trẻ, già, lành, dữ”nghĩa là chính ta dù lúc còn trẻ hay khi đã già; lúc tâm khởi lên việc lành hay khi tâm bị việc ác đốt cháy, tất cả, tất cả đều được bao dung, không phân biệt, mà tất cả đều được cứu độ. Qua đó, tâm Phật được phô diễn vượt trên tất cả những thứ bậc: già, trẻ, thiện, ác thế gian, không giới hạn ở bất cứ nơi đâu, một khi có ai mong cầu cứu độ, tâm Ngài hướng đến để cứu độ tức thì, không có gì khác. Cứu độ người trẻ hay người già đều phải xả bỏ không vướng chấp việc nầy.

Không phải người già mới thấm thía bi lụy, mà người trẻ cũng bị phiền não, nếu cho rằng phải cứu độ người già, thì không lẽ bỏ người trẻ bị não phiền thiêu đốt sao. Cho nên tất cả người trẻ lẫn người già đều trải qua cuộc đời thương đau, ai có niềm tin, “không luận già hay trẻ” cũng được Như Lai, với lòng đại bi cứu độ tất cả. Hay nói đúng hơn, trong cuộc sống mọi thương đau cần được cảm thông và chia sẻ; mọi sầu lụy cần được an ủi và bao dung.

I.1.2.3Tội Ác Sâu Dày Của Phàm Phu

Nói là người lành, kẻ dữ, là xét thực tế tự thân của họ trên cơ sở thiện và ác, từ tư duy, nói năng cho đến hành động trong sinh hoạt hằng ngày. Trong cuộc sống giới hạn nầy, không ai hoàn toàn tốt, cũng chẳng có ai hoàn toàn xấu. Kẻ có nhân duyên tiếp xúc với việc lành, được làm những điều tốt đẹp. Song, lỡ phải tiếp xúc với duyên xấu, hầu như tất cả bị đổ tội cho là tội phạm, nhiều tội lỗi. Đó chẳng qua chỉ là những nhược điểm khổ đau mà thôi. Thực tế, chẳng có ai tốt hoàn toàn mà cũng không có người xấu hoàn toàn.

Vì nhơn duyên tiếp xúc mà con người lại yếu mền nên như vậy. Vì thế Như Lai không dành tình thương giới hạn cho riêng ai.

Nghe những lời dạy của Phật, chúng ta có thể vui mừng khôn xiết và cảm động đến rơi nước mắt, mà chẳng có cái gì trên đời có thể làm cho cảm động được như thế. Huống hồ khi được cứu độ, tâm cảnh của chúng ta hiện ra đẹp tuyệt vời. Ngược lại bị vọng tưởng làm nhiễm ô, tâm tình của chúng ta trở nên bẩn thỉu, nếu không được cứu độ, tâm ấy như muôn ngàn tấm kính đổi màu và chúng ta nghĩ rằng không bao giờ được cứu độ.

Song, bổn nguyện cứu độ chúng sanh, Như Lai không phải cứu độ mỗi một mình ta, mà cứu độ tất cả. Đồng thời, cũng nên hiểu rằng, nếu là kẻ xấu ác không phải không được cứu độ, mà Như Lai còn cứu độ tất cả tội chướng sâu dày của những kẻ phàm phu như chúng ta, khi chúng ta khao khát hướng về Như Lai cầu xin cứu độ. Chính vì thế, không có giới hạn xấu, tốt, một khi chúng ta hướng về Đức Như Lai với thân tâm chí thành, sẽ được tiếp dẫn vào thế giới bổn nguyện thênh thanh vô cùng. Chỉ cần “niềm tin” để hướng vọng, quy ngưỡng mà thôi.


I.1.3Lành Cũng Không Cầu, Ác Cũng Không Sợ

Nếu có lòng tin vào bổn nguyện thì việc lành kia cũng không cần thiết mà việc ác nào cũng không sợ hãi.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán-Nhật)

Với thệ nguyện và từ bi của đức Phật A Di Đà, ai ai cũng được cứu độ, dù là kẻ đầy tội lỗi, dù là người già, người trẻ, một khi họ xưng niệm danh hiệu Phật. Hơn nữa hành giả niệm Phật, tin vào nguyện lực Phật, khi được vãng sanh, công đức lành đã tích chứa không còn cần thiết, vì trong bổn nguyện cuả đức Như Lai chứa đầy công đức rồi. Do vậy, cũng không còn sợ hãi đến những việc xấu nữa. Nhờ được cứu độ cho nên trong đó không còn ác nghiệp. (Điều thứ nhứt – Thánh Điển trang 832).

Giải thích:

I.1.3.1Vô Thượng Công Đức

Công đức niệm Phật còn hơn cả việc thiện”nghĩa là công đức vô thượng của niệm Phật. Khi niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phậtlà xưng tụng công đức và trí tuệ Như Lai qua ngôn ngữ, xưng tán công đức ấy quảng đại vô biên như biển cả mênh mông. Thân Loan tán dương công đức niệm Phật là “công đức bảo hải của chơn thật nhứt như”. Như thế, ai niệm danh hiệu Phật, người ấy có đầy đủ công đức vô thượng bao trùm chung quanh, không những gieo trồng thêm hạt giống công đức lành mà còn thực thi một điều vô cùng cần thiết và tất yếu nữa.

Bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà cũng không giới hạn cứu độ kẻ ác”, nghĩa là công đức vô ngại của Phật không dành riêng cho một ai và không bỏ một vì gì cả. Như Lai cứu độ tất cả chúng sanh, không giới hạn một ai, không giới hạn việc gì. Ngay cả người bị tội chướng tà ma, Như Lai dùng ánh sáng quang minh chiếu phá đến chỗ tối tăm và xua tan những chướng nạn ấy, cho nên Ngài Thế Thân[4]tán dương đức Phật A Di Đà là Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai”. Ánh sáng của đức Như Lai nầy chiếu khắp trong cuộc đời ở mười phương thế giới. Do vậy, không có chướng ngại nào mà không cứu độ được. Với danh hiệu ấy, Như Lai cứu độ tất cả. Khi nghe danh hiệu Phật và được biết không có chướng ngại nơi bổn nguyện lực và biết được cứu độ có nghĩa là: Không còn lo ngại đến ác nghiệp, nhờ nương tựa vào bổn nguyện của Phật A Di Đà”. Đây chính là niềm hoan hỷ vô biên vậy.

I.1.3.2Nơi Tuyệt Đối An Trụ

Như thế, một khi đã tin vào bổn nguyện, hành giả niệm Phật vượt lên trên mọi lãnh vực luân lý phàm tình như tốt, xấu, mình, người v.v.., bởi vì thiện và ác chỉ có giá trị trong phạm vi luân lý, khi ấy “thiện cũng không cầu mà ác cũng không muốn”.Ở đây, khai mở một lãnh vực khác của tâm có tính cách tuyệt đối vô ngại, mà lãnh vực và thế giới nầy, trí hiểu biết của thế gian không đủ để nhận thức, bởi vì đây chính là lãnh vực thuộc về trí tuệ và lòng đại bi của Đức Phật A Di Đà. Riêng hành giả niệm Phật một khi rõ biết trí tuệ và tâm đại bi của Như Lai, tâm cảm được không thiện mà cũng không ác. Thế thì, bất cứ ai, người lành hay kẻ dữ, cũng được bao dung một cách ấm áp trong tâm lượng đại bi của Như Lai. Đó chính là nơi chốn an trụ có tính cách tuyệt đối. Ở đó, phá vỡ được cái tâm ngạo mạn khoa trương việc lành và đập vỡ tâm tự ti về việc xấu. Mỗi người, mỗi người trong chúng ta được trao cho một cuộc sống như thế, mà trong cuộc sống đầy tương quan tương duyên ấy, chúng ta an trú nơi lãnh vực tinh thần thật thanh thản và tấm lòng trải rộng khắp muôn nơi.

I.1.3.3Con Người Tuyệt Diệu

Có một bà cụ sống trong căn nhà ở bên trái con lạch nhỏ trong một ngôi làng trên núi, huyện Điểu Thu (Toritoru) bên cạnh đó có một ngôi chùa tên là Chánh Giác ở phố Dụng Lại (Mochigase), trong chùa có một vị Thầy trụ trì. Hằng ngày, bà cụ đến chùa nghe Pháp một cách nhiệt tâm. Một hôm bà muốn đến chùa hỏi Thầy, nếu Như Lai có cứu độ, tại sao cho đến bây giờ bà vẫn chưa được cứu độ, vì vẫn còn nhiều phiền não. Đến chùa Chánh Giác bà gặp Thầy và thưa: “Con mong đức Như Lai từ bi làm sao cứu độ cho người đời không còn khổ nữa và làm sao cho họ được an tâm”và tự chỉ vào mình và than vãn khổ cực.

Thầy bảo: “Bà ở nhà sống có tốt không?Với con cháu, bà có khó chịu không? Nếu bà khó chịu thì chẳng ai muốn nói chuyện với bà. Dù gì đi nữa, điều trước tiên với những người thân, bà phải thân thiết trước. Cho dù có việc gì tệ hại đi nữa cũng bỏ qua”. Lời nói của Thầy như nước rót vào tim bà.

“Vâng, như thế sao? Đối với người thân, dù tệ đến thế nào đi nữa cũng chẳng có gì. Ồ! Thật tuyệt diệu! Con có một người thân dại khờ chơi Sumo[5]và con cũng rất ngu ngơ giúp cho hắn như thế”. Đoạn nước mắt bà chảy dài và cảm tạ Thầy vì đã trút hết bầu tâm sự u uẩn.

Thầy nói: “Bà ơi! Đã bao lần hạnh phúc được gói lại và được thấm nhuần”.Nói xong, Thầy cất tiếng niệm Phật và truyền đạt niềm hoan hỷ nầy.

“Điều tệ cho mấy đi nữa cũng chẳng quan tâm, không đề cập đến”.

Bà cảm ơn và nói rằng: “Việc ác không cần để ý tới, theo lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, chỉ nên phòng ngừa việc ác”như thế sẽ được cứu độ một cách vô ngại tuyệt vời.


I.1.4Con Đường Vãng Sanh Cực Lạc

Con đường tắt là con đường vãng sanh không cần phải hỏi nữa.

(Lược bớt phần giải thích theo văn Hán - Nhật)

Qua khỏi mười địa phương, mục đích của chúng tôi là tìm đến nơi nào đó, được ra khỏi sự nguy hiểm của cuộc sống, tìm hỏi con đường vãng sanh Cực Lạc. Đó chỉ là công việc duy nhất.

Thế nhưng, vị Thân Loan nầy, ngoài việc niệm Phật để vãng sanh còn biết con đường nào khác chăng? Hoặc giả hãy dạy cho ta biết việc nào liên hệ đặc biệt đến vãng sanh chăng? Tôi[6]muốn rõ biết về chơn tướng của việc ấy. Đó là vấn đề ưu tư to lớn. Nếu muốn nghe, hãy đến Nam Đô[7]và Bắc Lãnh[8]để nghiên cứu về giáo nghĩa và con đường khác ngoài việc niệm Phật. Hơn thế nữa, ở đó đang có nhiều học tăng, có thể gặp họ hoặc tìm họ để hỏi cho rõ ràng về chỗ cương yếu của việc vãng sanh. (Điều thứ 2 – Thánh Điển – trang 832).

I.1.4.1Xuyên Qua Cuộc Sống

Bắt đầu bằng những ngôn từ và hình ảnh thật mênh mông như thế ở “Thán Dị sao”thuộc điều thứ hai của pháp ngữ. Đầu tiên, chúng ta có thể cảm giác rằng những môn đệ của Ngài phải trải qua cuộc lữ hành nguy hiểm không biết bao nhiêu ngày đi và về hằng trăm cây số từ Bắc Kanto đến Kyoto để tìm đến. Thật ra, họ chẳng phải là những người tìm hiểu con đường vãng sanh Cực Lạc, mà là những người cầu đạo trong cuộc sống nầy.

Họ đắm chìm vào nghi vấn và tìm hướng chân thật để thoát ra. Dù đánh bóng bên ngoài dưới hình thức nào đi nữa, trong tự tâm của họ cũng không khỏi bức xúc khó chịu khi tiếp nhận lời dạy của Thân Loan ở vào tuổi hơn 80. Có một sự văn tự chân thật nào đó để người nói và kẻ nghe thông đạt nhau là điều đáng ghi nhớ trong tâm.

“Trải qua hơn 10 địa phương”nghĩa là họ sống ở phía Bắc Kanto. Con đường đến Kyoto đi qua 10 địa phương[9]ở biển phía đông Nhật Bản như: Thường Lục (Hitachi), Hạ Tổng (Shimosa), Vũ Tạng (Musashi), Tương Mô (Sagimi), Ý Đậu (Ito), Tuấn Hà (Suruga), Viễn Giang (Tootomi), Tam Hà (Santomi), Mao Trương Mỹ Nồng, Cận Giang, Sơn Thành.Những con đường khác cũng gần 200 cây số phải xuyên qua như vậy. Thời gian lên Kinh Đô (Kyoto) nhanh nhất cũng phải 20 ngày. Phải dầm mưa, dãi nắng, bịnh tật, nếu không nhờ phép lạ, không thể vượt qua được. Bao nhiêu khó khăn trên chuyến hành trình dài như thế ngày nay chúng ta khó mà tưởng tượng nổi. Có khi bị trộm cướp hoành hành, có khi bị thiếu thốn lương thực, vất vả mệt nhọc, thiếu thốn nước non, bịnh tật truyền nhiễm, bịnh phong thổ v.v.., toàn là những việc nguy hiểm của một cuộc lữ. Trên chuyến hành trình đầy gian lao ấy, không biết bao nhiêu người đã bỏ thây lại, là điều hiển nhiên thôi, chẳng phải mới lạ gì. Chẳng bao lâu đến Kyoto, Thánh nhơn cảm thấy hoài nghi về vãng sanh. Ở đây, có thể lấy ví dụ trường hợp của Giác Tín, nước Hạ Dã, huyện Hịch Mộc cho rằng: “Thân mệnh đời sống là điều đáng quý là sự thật chẳng phải là lời khoa trương chút nào”.

I.1.4.2Con Đường Vượt Khỏi Sự Sanh Tử

Trải qua những gian lao nguy hiểm đầy thử thách như thế, được nghe về “con đường vãng sanh Cực Lạc”,họ nghi vấn đâu là chỗ đúng của vấn đề thiết yếu nầy. Căn cứ theo hồi ký của Huệ Tín (Eshin), người bạn đời của Thân Loan, lúc Thân Loan 29 tuổi, tìm đến Pháp Nhiên hỏi về “con đường đời sau”“con đường sanh tử”, được dạy rằng: “Con đường sanh tử”ấy chính là con đường “Vãng sanh về Cực Lạc”.Đó chính là giáo lý Tịnh độ, mà cả Pháp Nhiên và Thân Loan dành suốt cuộc đời lắng sâu vào “con đường vãng sanh Tịnh Độ”ấy. Nghĩa là mê hoặc khi sanh và khi chết tạo nên khiếp sợ và ngu muội của phàm phu. Do vậy, chúng ta phải xây dựng một lãnh vực tinh thần và điều khiển tâm sao cho thật vững chãi khi sống và thật nhẹ nhàng khi chết. Đó chính là con đường “Vượt qua khỏi sanh tử”.

Phiền não thương, ghét đang mãi mê bay lượn chung quanh chúng ta làm cho cuộc sống phải nổi trôi theo đời thường và chúng ta khó đứng vững. Tự mình sống sao cho có ý nghĩa khi mà sự thương ghét đã làm cho ta say túy lúy trong suốt một đời. Nghĩ đến sự sống; hoặc nghĩ đến cái chết những hình ảnh chập chờn làm cho tâm thức ta bất an giống như có một đốm lửa trong cuộc sống dù lửa đã tắt.

Với ta, không muốn trải qua một cuộc sống như thế, không lẽ phải chết trong nỗi tuyệt vọng. Khi sống, sống với ý nghĩa gì thì lúc chết, phải xác nhận rõ ràng ý nghĩa ấy. Phải có cuộc sống tự tin, theo tinh thần đạo Phật, mới chấp nhận chết an nhiên trong tâm. Đó chính là Bồ Đề Tâm và đó cũng chính là con đường tìm cầu của tâm, thoát ly sanh tử.

Giảng về bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà trong Kinh Vô Lượng Thọ, Đức Phật Thích Ca cho biết hạnh nguyện từ bi của Như Lai cứu độ tất cả chúng sanh. Chúng ta an nhiên nguyện vãng sanh Tịnh Độ, nơi đó là cố hương mà chúng ta được tu và được nghe những lời dạy của Đức Như Lai.

Không cần tư duy suy tính, chỉ cần có niềm tin và ước nguyện vãng sanh, chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà sẽ trở thành con của Như Lai, được Như Lai tiếp dẫn một cách trân quý trong từng hơi thở, chắc chắn sẽ xa lìa sanh tử, vĩnh viễn được tiếp dẫn về thế giới Tịnh Độ. Ấy là cơ duyên vãng sanh về Cực Lạc. Như thế “Con đường vãng sanh Cực Lạcvà trụ lại đây” là nương vào pháp niệm Phật, được cứu độ và vấn đề sanh tử trở nên có ý nghĩa. Không giới hạn cuộc sống nào cả một khi đã có “con đường ra khỏi sanh tử” ấy. Như vậy, phải tâm niệm rằng con đường giải thoát của hành giả trong cuộc sống chính là con đường chánh đáng, chẳng còn gì để do dự nữa.

I.1.5Chỉ riêng niệm Phật

Chỉ riêng niệm Phật A Di Đà mới được tiếp dẫn, ngoài ra không còn gì khác nữa.

(Lược bớt phần giải thích Hán - Nhật)

Thân Loan chỉ có niệm Phật A Di Đà Như Lai được tiếp dẫn. Người ước nguyện, tin tưởng và kính ngưỡng như Pháp Nhiên được nạp thọ. Ngoài ra, không có gì khác hơn nữa. (Điều thứ 2 – Thánh Điển – trang 832).

Giải thích

I.1.5.1Gặp Gỡ Pháp Nhiên (Honen).

Điều nầy được giản lược, song nếu cho rằng để minh chứng khi trình bày niềm tin của tự thân, thật sự tôi không rõ[10]những lời ấy, vì đây không là những lời dạy của Thầy dành cho đệ tử. Phải chăng nghe đến con đường vãng sanhnhững đệ tử từ Kanto tìm đến, chính khi đó niềm tin của tự thâncó ảnh hưởng. Trong bài pháp Tịnh Độ mà ân sư Pháp Nhiên đặc biệt giới thiệu cho đệ tử Thân Loan, về hầu như những ngôn ngữ ấy chiếm gần hết rồi. Chẳng phải chỉ riêng niệm Phật A Di Đà Như Lai được tiếp độ.Đó là lời của ân sư truyền đạt. Thật sự, lúc ấy Pháp Nhiên đã 50 tuổi. Những gì mà Thân Loan nghe vẫn còn tiếp tục ảnh hưởng trong cuộc đời Ngài.

Năm Thân Loan đúng 29 tuổi đã có 20 năm tu học và hành đạo một cách nghiêm mật ở Tỷ Duệ Sơn, vì bị mê hoặc trong sanh tử không thể qua nổi; nên đã tìm đến tham cứu nơi Lục Giác Đường. Nhờ sự báo mộng của Thánh Đức Thái Tử (Shotoku Taishi) mà tìm đến Pháp Nhiên để hỏi rõ “con đường thoát khỏi sanh tử”. Cái gì vẫn còn sót lại trong tâm thức có tính cách vô niệm ấy chính là thương ghét của con người trong cuộc sống. Một cái gì to tướng hiện hữu để rồi không rõ chết là gì và không dám nhẫn nại chịu đựng để đón nhận cái chết. Thật sự, Không chính là kết quả mà không ai không nhận. Với Pháp Nhiên, sanh tử là một kỳ vọng phải thông suốt, chính là con đường phải nghe và thực tập vậy.

I.1.5.2Lời Dạy Của Pháp Nhiên

Huệ Tín, người bạn đời của Thân Loan ghi lại trong thơ rằng: “Lúc đầu khi Thân Loan mới gặp Pháp Nhiên, được Pháp Nhiên dạy rằng: A Di Đà Như Lai không phân biệt người lành hay kẻ dữ, tất cả đều được cứu độ và nguyện rằng lúc lâm chung sẽ tiếp rước về Tịnh Độ. Niệm Phật một niệm, con đường Tịnh Độ được chắc chắn. Tôi[11]đã giao thân nầy cho bổn nguyện của Như Lai và chỉ một lòng niệm Phật”. Qua lời dạy ấy, Thân Loan rất cảm động và sau 100 ngày đón nhận thọ trì. Bổn nguyện ấy chính là niệm Phật liên tục cả thân lẫn tâm. Thân Loan thường thường ở nơi tâm cảnh và khẳng định không hối tiếc rằng: “Tôi sẽ vãng sanh về nơi mà Pháp Nhiên Thánh Nhơn vãng sanh. Dù cho có gặp địa ngục đi nữa nguyện nầy vẫn không thay đổi”. Đó là sự quy ngưỡng vậy. Điều nầy phải hiểu là lời dạy rất đẹp và trọng yếu ở điều thứ hai trong “Thán Dị sao”.

Từ Pháp Nhiên, việc niệm Phật chẳng những là pháp môn trí tuệ và cao nhất trong thế gian, mà còn thực hành bổn nguyện của đức A Di Đà Như Lai. Những kẻ phàm phu ngu muội như chúng ta bị phiền não thương, ghét đốt cháy, tạo tội trong khi sống vẫn được Đức Phật A Di Đà, với tâm đại bi và bổn nguyện cứu độ, cứu vớt và không bỏ sót một người nào. Hơn nữa chắc chắn những ai đang bị đọa lạc trong chốn khổ đau cũng được ra khỏi. Nhờ pháp tu mình đã chọn giúp mình xả bỏ mình nơi tối tăm ấy.

Dù người lành, kẻ dữ, người hiền, kẻ ngu, tất cả đều không phân biệt, trên thực tế ai cũng có thể thực hiện việc niệm Phật một cách dễ dàng vì nương nhờ công đức viên mãn của Như Lai. Khi chúng ta xưng danh hiệu của Đức Phật A Di Đà sẽ được tiếp dẫn vãng sanh Tịnh Độ. Do vậy, với lòng đại bi bổn nguyện ấy, chỉ cần thọ trì pháp môn niệm Phật, con đường vãng sanh sẽ mở ra trong tâm, bao nhiêu mê hoặc sanh tử được đoạn lìa. Đó chính là niềm tin niệm Phật vãng sanh của Pháp Nhiên và con đường vãng sanh ấy chính là thế giới giác ngộ.

I.1.5.3Chỉ Có Niệm Phật

“Chỉ có niệm Phật”. “Chỉ”nghĩa là theo chữ Hán viết là “duy”, nghĩa là duy nhứt. Ngoài tự lực, mỗi lời niệm Phật cầu vãng sanh của bổn nguyện chính là chuyên tu. Pháp Nhiên muốn dùng lời nói để biểu hiện về “chuyên tu niệm Phật”. Ngoài ra, Thân Loan trong tác phẩm Duy Tín Sao Văn Ý[12]cho rằng: “Bổn nguyện tha lực ấy bao gồm tất cả và rời khỏi tự lực”.

“Chỉ có niềm tin”. Chữ “duy”là lìa tự lực và trở về với tha lực. Đây chính là cách nói giải thích. Thật là tốt cho con người lìa bỏ tâm phân biệt đo lường. Như Lai cho rằng pháp môn tự lực không cần mang theo, chỉ một câu niệm Phật là con đường của những ai có niềm tin kính tín “ước nguyện và xưng niệm danh hiệu”. Cuối cùng, niệm Phật là “chỉ niệm Phật” mà thôi.

Nói khác, chẳng phải cần tâm thanh tịnh mới xưng danh hiệu, cũng chẳng phải cần thân yên ổn mới niệm; lại cũng chẳng cần phải tư duy niệm Phật có công đức mới niệm. Cũng chẳng cần phải nhớ về bổn nguyện của Như Lai, xưng danh hiệu..., tất cả đều không cần suy nghĩ gì cả, chỉ cần niệm Phật là đủ. Lại nữa, niệm Phật là cầm chắc trong tay ước mong cứu độ qua lời nguyện. Cũng nên xả bỏ tất cả những ước nguyện muốn có công đức của niệm Phật, để mang lợi ích của mọi người trong hiện thế, chỉ một điều là nương lời nguyện của Như Lai cứ như thế mà tiếp tục niệm Phật. Mong ước của tự lực là chạy theo cái quả, mà vấn đề niệm Phật ấy gọi là niệm Phật cuả tự lực. Còn niệm Phật theo lời nguyện của Như Lai là tha lực niệm Phật. Vì thế sự tự lực không cần đến, hãy trở về với tha lực ấy và “chỉ cần niệm Phật”mà thôi.

I.1.6Biến Đổi Kẻ Ngu

Sự niệm Phật chính là hạt giống để sanh về Tịnh Độ. Đồng thời ở điạ ngục cũng là nghiệp nhơn nữa.Tất cả nên biết rõ.

(Phần giải thích Hán - Nhật lược bớt)

Sự niệm Phật là nhân vãng sanh Tịnh Độ, có phải thế không? Hay là nhơn để rơi vào địa ngục? Với tôi, không hoàn toàn rõ biết. Ngược lại, Pháp Nhiên Thánh Nhơn cho rằng: Niệm Phật dù cho có rơi xuống địa ngục, chắc chắn tôi cũng không hối tiếc. Ý nói là nếu theo nguyên tắc của những pháp môn khác, cố gắng tu hành để thành Phật, thì niệm Phật được xem là sai trái sẽ bị đoạ địa ngục cho nên có hành giả sẽ có hối hận. Không những không nhẫn nại tu hành được mà còn thân ngu ác nầy chắc chọn địa ngục là nhà nương tựa. (Điều thứ hai – Thánh Điển – trang 832).

Giải thích:

I.1.6.1Không Rõ Biết

Từ vùng Kanto xa xôi, các đệ tử đến gặp Thân Loan để tìm hỏi: “Có phải Pháp Nhiên dạy rằng niệm Phật không sanh về Cực Lạc thì đọa điạ ngục, điều ấy không sai chăng? Hay chỉ là hù dọa người niệm Phật để quyết định vãng sanh Cực Lạc?”. Trước nhất được trả lời rằng: “Với Thân Loan, niệm Phật sẽ được đức A Di Đà Như Lai cứu độ. Ngoài ra, chỉ tin và kính ngưỡng Pháp Nhiên Thánh Nhơn, không có cái gì khác hơn”. Đây là sự tự thuật lại niềm tin của chính mình.

Ngài dạy tiếp: “Ngoài ra, Niệm Phật chính là hạt giống sanh về Tịnh Độ chăng? hay là cái nhơn ác nghiệp để rơi vào địa ngục thì tôi[13]hoàn toàn không rõ biết”.Đây có lẽ cũng là lời dạy cho những người khó khuyên chăng?

Thế nhưng, tín tâm của Thân Loan được giải bày như sau “Cái gì là hạt giống để sanh về Tịnh Độ? Có xác định được năng lực ấy không? theo ngu trí của chúng ta không rõ. Nhưng chắc chắn có Như Lai tiếp dẫn, có pháp môn Niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ, mà Pháp Nhiên Thánh Nhơn đã bao lần dạy. Việc nầy khi nghe lần đầu, tôi giống như kẻ ngu muội được cứu độ, và cảm động trước bổn nguyện mà Như Lai nói ra. Đó là lời đầy phát nguyện đầy từ ái của Như Lai. Thật ra “chỉ niệm Phật là đủ rồi”.Lời dạy của Thân Loan rất nhứt quán; lời dạy chơn thật không biết gì khác cả; ngoại trừ biết mình là kẻ ngu muội. Chính bản thân mình không biết gì cả mới phó thác lòng tin cho Đức Như Lai. Ở đó không thiếu niềm tin tưởng mẫn cảm của chính mình. Tuy nhiên, một khi quy ngưỡng về Như Lai, cuộc sống trở nên ý nghĩa và phương hướng sự sống của chính mình được rõ biết, vì đã có ánh sáng soi rọi rồi.

“Niệm Phật là hạt giống để sanh về Tịnh Độ”, chính Pháp Nhiên đầu tiên trích ra từ “Kinh Vô Lượng Thọ”bản kinh chính đức Phật thuyết, trãi qua hơn 2000 năm. Tiếp đó, Thân Loan không có gì nghi ngờ về lời dạy của Đức Phật, mà lời dạy ấy thật không có một điểm nào sai trái, hoàn toàn chân thật. Chỉ có con người hư ngụy sai trái mà thôi. Nhờ quy ngưỡng và giữ niềm tin như thế, Thân Loan vượt qua tiểu ngã, tin thuận theo lời dạy chân thật của Đức Phật và quyết định chắc chắn thân nầy sẽ vãng sanh.

I.1.6.2Ngồi Như Phật Có Tánh Cách Nguy Hiểm

Không dừng lại ở đó, có những tà thuyết dị đoan của những môn đệ không đến được Kanto, cho rằng: “Niệm Phật chắc chắn được vãng sanh Cực Lạc, quyết định không thể nào rơi xuống địa ngục”.Và họ cũng là những người muốn Thân Loan xác nhận lại điều ấy có đúng không? Thế nhưng sự chờ đợi ấy có tính cách nguy hiểm. Vì ai cũng biết rằng Thân Loan đã rõ điều nầy rồi. Lời chứng để tìm cầu sự cứu độ con người Như Lai đã rõ và Như Lai đã cứu độ. Còn ở lãnh vực con người muốn minh chứng thì lời minh chứng cho con người chỉ là sự thành lập từ niềm tin mà thôi. Tranh luận của nhân gian cũng chỉ để tìm cho ra nguyên nhân không sai. Thế nhưng không phải chỉ có vậy. Lời minh chứng việc cứu độ, mà con người làm, rõ ràng không biết; nếu cho rằng tự mình là kẻ được cứu độ thì rơi vào ngạo mạn. Với tội ấy, chính mình có đến ngồi trước vị Thần hoặc đến trước Đức Phật đi nữa, con người ấy hay tín giả ấy, mà trong lịch sử cũng không ít những người như thế, đã bị rơi xuống địa ngục.

I.1.6.3Trở Thành Người Ngu

Pháp Nhiên thường cho rằng: “Người theo Tịnh Độ Tông là những người ngu nhưng được vãng sanh”. Ông ta kết luận như vậy. Chính Thân Loan cũng ghi nhận như thế. Vì kẻ ngu không có năng lực đầy đủ để nhận định về giáo pháp; cũng không có khả năng phê phán rõ vấn đề thiện, ác; cũng chẳng có trí lực để thấy được con đường đúng, sai để vượt qua sanh tử, gọi là con người chẳng ra sao. Thân Loan thường nói rằng: “Cả thiện và ác cuối cùng rồi cũng hết”. Ấy có nghĩa là: “Thị, phi cũng không, mà tà, chánh cũng không cần biết đến”. Cho nên tự đặt cho mình một cái tên là “ngu ngốc”.

Kế tiếp, lời dạy của Thân Loan như sau: “Niệm Pháp Nhiên Thánh Nhơn thì lặng yên và niệm Phật thì rơi xuống địa ngục. Nhưng tôi quyết chẳng hối hận”. Và đồng thời nói: “Nếu tôi cự tuyệt được địa ngục, rõ ràng không phải là người sáng giá”. Thật sự lời nói ấy đã khẳng định và không còn gì nữa để nói và cảm nhận những lời dạy như thế cả.

I.1.7Niệm Phật Phát xuất Từ Truyền Thống

Sự quy ngưỡng của Pháp Nhiên, được Thân Loan tiếp tục phát triển và đồng thời chẳng mang đến sự vô nghĩa nào cả.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán – Nhật)

Sự quyết định chọn lựa con đường vãng sanh bằng pháp môn niệm Phật là theo bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà. Để truyền đạt lại bổn nguyện ấy, Đức Thích Tôn xuất hiện trong đời nầy thuyết pháp và xiển dương. Đồng thời, Phật thuyết pháp là biểu hiện tâm tùy thuận với bổn nguyện niệm Phật. Bình giải của Thiện Đạo không phải không đúng, song nếu hoàn toàn đúng thì đó là mục tiêu hướng đến mà Pháp Nhiên quy ngưỡng.

Tại sao lại dùng phương tiện ấy? Nếu sự quy ngưỡng của Pháp Nhiên là hoàn toàn đúng, Thân Loan là người tin tưởng, không có gì đổi khác.

Điều chủ yếu với tôi[14]là giữ lòng tin như thế, trước hết thọ nhận lời chỉ dạy và sau đó tin tưởng chắc chắn vào pháp niệm Phật. Nếu cảm thấy không có duyên, tự nhiên rời bỏ con đường ấy. Quý vị trong mỗi người cứ như thế để tâm là được (Điều 2 – Thánh Điển – trang 833).

Giải thích:

I.1.7.1Bảy Vị Cao Tăng

Tịnh Độ Chơn Tông có sự truyền thừa rõ ràng từ Đức Thích Ca. Trong đó, Thân Loan là vị Tổ thứ bảy được truyền thừa pháp môn nầy. Hơn nữa, khi Thân Loan bàn về truyền thừa Tịnh Độ Chơn Tông, Ngài viết trong Chánh Tín KệCao Tăng Hòa Tán về những vị Tổ Sư như Long Thọ[15]Thế Thân[16]ra đời tại Ấn Độ. Đàm Loan[17], Đạo Xước[18]và Thiện Đạo[19]ở tại Trung Hoa. Nguyên Tín[20]và Pháp Nhiên[21]ở Nhật Bản. Trong 7 vị Cao Tăng đó, chỉ chọn ra hai vị: Thiện Đạo Pháp Nhiên. Đặc biệt, nói về Ngài Pháp Nhiên nhiều hơn. Sau đây phần căn bản đề cập đến hai vị Phật:Phật Thích CaPhật A Di Đà và hai vị Tổ: Thiện ĐạoPháp Nhiênđể thấy pháp môn niệm Phật có truyền thống”.

I.1.7.2Phật A Di Đà và Phật Thích Ca

Trước hết, xin tuyển chọn tác phẩm Bổn Nguyện Của Phật A Di Đà Giáo Thuyết của Phật Thích Ca. Nếu bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà là cứu độ chúng sanh thì giáo thuyết của Đức Phật Thích Ca nguyên thủy là truyền đạt pháp môn cứu độ. Việc nầy cho thấy rằng bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà có trước, tiếp theo Đức Phật Thích Ca giảng giải về bổn nguyện mênh mông như biển cả của Đức Phật A Di Đà. Như thế pháp môn nầy có nguồn cội hẳn hoi, từ nguồn cội nguồn ấy lưu xuất liên tục và truyền thừa mãi về sau nầy, như ta đã thấy rõ. Căn cứ vào Kinh Đại Vô Lượng Thọvà lời nguyện thứ 17 trong 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà, chúng ta biết rõ pháp môn cứu độ trong mười phương thế giới. Lời thệ nguyện và sự tán thán (qua bổn nguyện) bằng cách là niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phậtcủa Phật A Di Đàtrong mười phương thế giới. Lời nguyện nầy được biết qua Chư Phật, vì Chư Phật tán thán bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà (qua lời nguyện thứ 18) về pháp môn cứu độ. Nếu có những chúng sanh chuyên cần nhứt tâm niệm Phật, tin tưởng điều ấy sẽ được thành Phật như Đức Phật Thích Ca vậy.

I.1.7.3Tổ Thiện Đạo và Tổ Pháp Nhiên

Tiếp theo, “sự giải thích của Thiện Đạo”“sự quy ngưỡng tin tưởng của Pháp Nhiên”là hai vị Tổ Sư mang đậm tính truyền thống được tuyển chọn để giới thiệu. Qua pháp môn niệm Phật được truyền thừa, Phật cho rằng: “Niệm Phật được Đức Phật A Di Đà cứu độ”. Còn Thiện Đạo theo sự chỉ dạy của Đức Thích Ca, theo lời nguyện thứ 18 cho rằng một khi niệm danh hiệu của Phật A Di Đà, việc vãng sanh là dựa theo lời nguyện ấy được chánh định nghiệp (quyết định vãng sanh) không phân biệt người lành, kẻ dữ, nếu tin vào bổn nguyện, chắc chắn được cứu độ.

Pháp Nhiên theo lời dạy nầy cho rằng đức Phật A Di Đà, xem chúng ta như những chúng sanh ngu muội, vì cần cứu độ cho nên hãy buông bỏ cái tự lực rất khó thực hiện, mà nương vào tha lực dễ dàng và nhờ niệm Phật mà được nương tựa vào công đức của Như Lai, chỉ cần niệm một niệm, nhất định vãng sanh. Đây cũng còn gọi là tuyển chọn bổn nguyện. Hãy tinh tấn! Đừng lo lắng về bổn nguyện của Như Lai, mà chỉ nên niệm Phật.

Theo giáo pháp của pháp môn chuyên tu niệm Phật, từ biển bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà lưu xuất, Đức Thích Ca trùng tuyên lại cho những chúng sanh đang bị phiền não nghiệp khổ trói buộc ở cảnh giới nầy, rồi đến Thiện Đạo giảng giải cho người Trung Hoa biết pháp môn Tịnh Độ, đến Pháp Nhiên mang giáo lý Phật đà về Nhật Bản, chính tôi[22]cũng được hấp thụ trong giòng nước mát ấy qua sự tín niệm mà Thân Loan dạy cho.

I.1.7.4Sự Quyết Đoán Của Mỗi Người

Thế nhưng, nói về việc niệm Phật “hoàn toàn chạy theo”là nói ngược lại, thì có cái cảm tưởng hơi kỳ dị. Ở đây lời nói ngược lại có nghĩa là sẽ ảnh hưởng không nhỏ. Do vậy không gì hơn “cứ tin theo như Thân Loan, không nên nghi ngờ gì cả”.Với những lời giả tưởng ấy, ta không cần lưu tâm đến, phải có lòng tin thật kiên cố.

Khi nói về truyền thống giáo pháp chơn thật, tôi (tác giả) tin rằng: “Cứ tin tưởng theo Phật Tổ. Vì chắc chắn quý Ngài không phải là những người nói điều sai trái”. Vì theo những lời dạy rất rõ ràng là: “Quý vị cùng niệm Phật qua niềm tin thì sẽ được cứu độ”. Cũng có nhiều người nghe giáo pháp nhưng cố chấp không hiểu, không có ý thức, cho nên mới phát ngôn bừa bãi như vậy. Thế nhưng, ở đây cũng không phải dùng quyền uy của giáo pháp để áp chế đệ tử được. Trong quyển Sư Tượng[23]người Thầy phải nói làm sao để họ tin theo. Vì Thân Loan không mang theo người đệ tử nào cảkhông hại gì khi Thân Loan tiếp tục truyền đạt pháp môn nầy.

Với Thân Loan, rất trân quý giáo pháp; song rất nghiêm khắc với cái “tôi” chính mình. Chỉ có tin và quý trọng giáo pháp ấy. Chính vì trọng pháp, Thân Loan cho mình là kẻ ngu muội song không lợi dụng danh nghĩa Phật Tổ, không màng danh lợi. Một vị Thầy tốt không mượn danh của người khác, không dựa vào quyền uy thế lực buộc kẻ khác tin theo. Nếu không được thế, thật rất khó coi.

Với việc nầy, Thân Loan nói: “Lòng tin sẽ giúp vượt khỏi ngu tối của bản thân”. Đồng thời cũng dạy: “Pháp môn niệm Phật là một lòng tin và hành, dù cho thế nào đi nữa, vẫn không thấy xấu hổ” Mỗi người trong chúng ta đối trước Đức Như Lai, tin bổn nguyện hay không là vấn đề tự mỗi người quyết định. Lúc ấy, cũng là lúc con người vượt khỏi ngu tối và nhận rõ những lầm lẫn trong thế giới nầy.

I.1.8Cơ Duyên của Người Ác

Không nói riêng về người thiện được vãng sanh mà ngay cả người ác cũng thế.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán – Nhật)

Người lành được vãng sanh, còn người ác có vãng sanh chăng? Hoặc chỉ có người ác vãng sanh, còn người lành không được vãng sanh sao? Nói như thế để suy nghĩ, thật ra thì theo bổn nguyện Đức Phật A Di Đà, tất cả mọi người được cứu độ, đều nhờ vào tha lực của Ngài.

Giải thích:

I.1.8.1Cơ Duyên Của Người Hiền

Điều ba trong “Thán Dị sao”có pháp ngữ nói về cơ duyên của người ác rất nổi tiếng. Người lành vãng sanh và người sai trái cũng vậy. Đây chẳng phải là vấn đề cơ bản, trật tự của xã hội, khi bảo tồn cũng như phê phán mạnh mẽ về việc lành, việc dữ. “Đừng làm việc ác, nên làm việc lành”là những giới điều căn bản của người tu hành theo Phật.

Phá bỏ những ảnh hưởng quá khích về việc phát ngôn ấy. Thật ra, “Người ác vãng sanh, người lành cũng thế”.Điều nầy luôn luôn tồn tại và được chấp nhận ngay ở trong xã hội cũng như ở trong đạo pháp. Tịnh Độ Giáo đề ra tư duy đó để bình giải rằng: “Điều nầy cũng giống như cái bản lai chính của bổn nguyện tha lực” vậy.

Nên cẩn trọng những việc ác và nên tích chứa những việc lành và nên làm tịnh hóa tâm nhiễm ô. Dưới sự đánh giá của Như Lai, con người chính là một đơn vị cao cả, mà mọi người đều được tịnh hóa, được tiếp dẫn về Tịnh Độ. Nên “người lành nương theo đó mà vãng sanh, người ác cũng thế”. Phải chăng đây là một lời thách thức mới?

I.1.8.2Phê Phán Về Cơ Duyên Của Người Hiền

Thế nhưng “Thán Dị sao”có nói rằng: Người ác vãng sanh và người hiền cũng như thế.Điều nầy cho thấy rằng từ đầu, phê phán về căn cơ của người hiền rằng: “Như thế, chắc chắn một khi tự mình làm những việc lành, người hiền được vãng sanh. Thế nhưng nếu thiếu lòng tin về bổn nguyện tha lực của Đức Phật A Di Đà, không thể vãng sanh được, dù là người hiền. Theo đó, dù ai có làm điều lành đi chăng nữa cũng phải chuyển đổi tâm tự lực của mình, nương vào bổn nguyện tha lực của Đức Phật A Di Đà, mới được vãng sanh về cảnh giới chơn thật Báo Độ[24]của Như Lai giác ngộ”.

Những kẻ tự cho rằng mình là người lành có thể vãng sanh nhờ những việc lành của mình đã chứa nhóm, chính là ngạo mạn. Vì kẻ phàm phu dẫy đầy phiền não; không thể tự mình thỏng tay vào thế giới giác ngộ được, do đó phải nương vào bổn nguyện tha lực của Đức Phật A Di Đà. Điều ấy, cũng chẳng phải có nghĩa là tất cả đều giao cho Đức Phật A Di Đà, mà việc lành của con người vẫn còn chứa đựng phiền não, nên phải suy nghĩ vãng sanh về Tịnh Độ. Phải thấy rằng Tịnh Độ ở đây là một thế giới kéo dài, mở rộng cho đến khi nào phiền não tiêu diệt hoàn toàn mới vào được. Tịnh Độ, Niết Bàn là nơi mà hành giả phải lập lời thệ nguyện vãng sanh. Tâm phải dựa vào bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà mới có thể thành tựu được. Hơn nữa, được gọi là vãng sanh mới là quý, còn cho dù thân của ta được gọi là tốt đi chăng nữa, đối với việc vãng sanh cũng chẳng có một ý nghĩa gì cả; phải xóa bỏ tâm tự lực đi và chuyển thành tâm mong được bổn nguyện tha lực của Đức Phật A Di Đà cứu độ, việc vãng sanh về chơn thật báo độ của các Đức Như Lai giải thoát kia mới có thể thực hiện được.

I.1.8.3Kẻ Ác

Như Thân Loan thuật lại rằng đối tượng chân chính của những người ác là bổn nguyện và lòng đại bi của Như Lai. “Sống trong cuộc sống đầy phiền não nầy, dù chúng ta có tu hành đến thế nào đi chăng nữa vẫn còn mê hoặc trong sanh tử, khó thoát ra khỏi. Vì vậy, Đức Phật A Di Đà mới lân mẫn lập nguyện cứu độ. Căn bản của bổn nguyện ở chỗ kẻ ác nếu muốn thành Phật, hãy cầu nguyện nơi bổn nguyện, giao mình cho tha lực và chỉ cần vãng sanh cũng được vãng sanh. Người lành cũng giống như thế, không khác gì người ác khi được cứu độ”.

Với chúng ta, lúc nào cũng căn cứ vào những hành động làm tiêu chuẩn và với chính mình không giới hạn ở đâu cả; nên đã bài trừ việc ác một cách triệt để. Ngày đêm ái dục và những tư tưởng về thương ghét đốt cháy cuộc sống nầy. Con người chối từ hạnh phúc thật sự để vui với cái vui bất hạnh và tự mình làm băng hoại tư duy trong suy nghĩ. Với những kẻ phàm phu như thế, tất cả nên phải xả bỏ đi và tuyệt nhiên những sự chấp trước ấy của tất cả chúng sanh phải được cứu độ là mục tiêu tu hành của các Bồ Tát. Đó chẳng phải là điều sở đoán hay xảo ngôn, mà phải vượt qua sự thương ghét, và xa lìa sự sanh tử, tiếp dẫn chúng sanh về cảnh giới an lạc quả là chúng ta thiếu khả năng.

I.1.8.4Cơ Duyên Của Người Ác

Căn cứ từ Kinh Vô Lượng Thọđức A Di Đà Như Lai thấy được sự nguy hiểm vô cùng của những người mê muội như chúng ta; nên khởi cái tâm lân mẫn sâu xa và lập nên lời nguyện, cứu độ những kẻ bị thương ghét, ái dục làm cho lún sâu trong phiền não. Trọng tâm chính của bổn nguyện là hướng dẫn kẻ ác đầy phiền não phải thật sự chính mình xa lìa xấu ác. Đồng thời kẻ ấy phải thực hành pháp môn niệm Phật và tin tưởng bổn nguyện, cuối cùng được Chư Phật tiếp dẫn vãng sanh Tịnh Độ.

Trên hết, chúng ta là những kẻ xấu ác niệm Phật mong được bổn nguyện tha lực cứu độ, phải xấu hổ những hành vi xấu ác của chính mình. Đó là điều đầu tiên để có thể vãng sanh. Việc nầy được dạy rằng: “Người thiện được tiếp dẫn vãng sanh, kẻ ác cũng không phải là ngoại lệ”.

Cũng giống như thế, đối với những kẻ phàm phu và các bậc Thánh, Đức Phật A Di Đà vận dụng lòng từ bi, dù cho đó là kẻ ác hay người hiền, mục tiêu đầu tiên là cứu vớt, mà giáo thuyết ấy gọi là: Cơ duyên của người ác[25], cơ duyên của người lành[26].Với điều ấy, lời nói luôn luôn đoan chắc rằng: “Người hiền được cứu độ vãng sanh, người ác cũng chẳng ngoại lệ”.

I.1.8.5Sự Truyền Khẩu Từ Pháp Nhiên (Honen)

Ở đây, với cơ duyên người ác được độ, không phải là kinh điển mà là lời khẩu truyền từ Pháp Nhiên truyền đến Thân Loan, rồi truyền đến Duy Viên (Yuien), đệ tử mình. Lúc ấy Tịnh Độ Tông chưa ở vào thời kỳ đại chúng hóa như ngày nay. Vì lẽ, những pháp ngữ nghiêm nhặt như thế, nếu nghe được, đa phần bị hiểu sai và chỉ có những đệ tử thân tín mới có thể hiểu rõ một cách chính xác, vì được truyền thừa trực tiếp từ miệng Thầy. Giác Như (Kakunyo) trong “Khẩu Truyền Sao”có nói rằng: “Thánh Nhơn của Bổn Nguyện Tự (Thân Loan) được những bậc Tiên Đức của Hắc Cốc[27]truyền thừa cho đến Như Tín Thượng Nhơn”. Nói rằng căn cơ của người xấu ác vẫn được độ ấy là khẩu truyền mà Pháp Nhiên, Thân Loan, Như Tín (cháu của Thân Loan, Thầy của Giác Như) và Giác Như tiếp nối truyền khẩu, được ghi lại như thế.

Đó gọi là pháp ngữ của Pháp Nhiên. Trong tác phẩm Đề Hồ phần sau ghi rõ: Pháp Nhiên Thượng Nhơn truyện kýTam Tâm Liệu Giản và Pháp Ngữđược viết bằng Hán văn rằng: “Người thiện được vãng sanh thì kẻ ác cũng như thế”. Ở đây, cũng chú thích rõ ràng rằng khẩu truyền.

Điều nầy có thể giả thuyết rằng Pháp Nhiên thọ nhận từ Nguyên Trí, thuộc Thế Quán. Đây gọi là Ác Nhơn Chánh Cơ Thuyết.Nhưng lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm Khẩu truyện Saocủa Pháp Nhiên.

I.1.8.6Hai Quan Niệm Về Sự Cứu Độ

Gọi là cơ duyên của người ác, nếu tư duy đến mấy đi nữa cũng khó mà suy nghĩ được. Dù cùng Tịnh Độ Giáo nhưng quan niệm cứu độ ở đây có hai loại khác nhau.

Thứ nhứt, dựa theo phẩm thứ 9 của Quán Kinhnói về quan niệm cứu độ, luận về công đức và tán dương những việc làm đáng ca ngợi. Tùy theo việc làm thiện, ác, mà hành giả nguyện sanh Tịnh Độ được chia ra rõ ràng gồm có 9 bậc, từ Thượng Phẩm Thượng Sanh cho đến Hạ Phẩm Hạ Sanh. Khi còn sống, những hành động tốt, xấu sẽ ứng với lúc lâm chung được tiếp dẫn vãng sanh, mà việc vãng sanh Tịnh Độ ấy chính là quan niệm cứu độ qua kết quả tốt, xấu của họ. Rõ ràng tùy theo nhơn quả nghiệp báo thiện ác vậy. Những hành vi tốt, xấu của mỗi cá nhân là kết quả khổ, vui, mà tự mình phải thọ nhận. Đây là sự lý luận về nghiệp. Chính mình tự thọ nhận lấy quả báo của mình. Đừng làm những việc ác, Hãy làm các việc lành tương tự bỏ ác, làm lành như lý giải việc cứu độ của Đức Phật A Di Đà rất thực tiển trong Tự Lực Thánh Đạo Môn.

Quan niệm của Thân Loan về cứu độ là pháp phương tiện và phân tích rằng Tâm Phật A Di Đà không chỉ đơn thuần cứu độ chơn thật mà tràn đầy lòng đại bi mới có thể xác lập được quan điểm cứu độ như vậy. Như Thân Loan dùng kinh văn trong phẩm Phạm Hạnh của Kinh Niết Bàndẫn giải. Đó là câu chuyện khổ tâm của Vua A Xà Thế với tội giết cha cực ácđược cứu độ. Đây cũng là một việc quan tâm sâu xa và khác thường khi dẫn dụ kinh văn dài như thế. Sau đây là việc tường thuật và luận về sự cứu độ ấy.

“Ví dụ có một người có bảy người con, trong bảy người con ấy, có một người mang bịnh. Dù cha mẹ có tâm thương yêu bình đẳng bao nhiêu đi nữa cũng phải để tâm lo cho người con bị bịnh kia hơn.

Nầy Đại Vương! Như Lai cũng vậy dẫu cho có tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sanh; nhưng với những kẻ có tội, Như Lai để tâm nhiều hơn”[28].

Đức Thích Tôn nhập thiền định vận dụng Nguyệt Ái Tam Muộivận dụng tâm Đại Bi chiếu sáng đến tâm A-Xà-Thế và tâm cung kính của Kỳ-Bà[29]. Điều nầy được nhắc lại trong Kinh như vậy.

Nếu đem sự phế ác, hành thiện hay khuyến thiện, trừ ác như thông thường, không thể đúng với quan niệm về cứu độ theo luân lý và suy nghĩ bình thường. Lại nữa, Pháp môn Tịnh Độ vượt lên trên những quan niệm thiện, ác và bình đẳng cứu độ theo lý luận thật tiễn, theo quan niệm nhân quả “nhân nào quả nấy”cũng như “phế ác tu thiện”,hoặc theo pháp luật và đạo đức Phật Giáo, mà Phật tử công nhận v.v…. Đây cũng chẳng phải là lối nói cường điệu, song chính là việc đương nhiên, về quan niệm cứu độ dành những kẻ mang cơ duyên ác.

I.1.8.7Lòng Từ Bi Là Sự Tất Nhiên[30]

Lòng từ bi cứu độ của Phật A Di Đà rất cần thiết cho chúng sanh. Đó cũng là bổn nguyện cứu độ. Như người bác sĩ tận tâm, qua sự hiểu biết của mình, cho nhiều thuốc tốt và thuốc hay cho người bệnh nặng khi điều trị; như người mẹ với lòng từ ái, làm bất cứ điều gì, ngay cả hiến thân mình khi con mình bị bệnh, không phải là điều vô lý, vì đối với con, mẹ chỉ có tình thương và mong con lành bệnh, cả thân, tâm người mẹ đều lo lắng và muốn sao cho bệnh không còn nữa, cũng như thế, đức Phật A Di Đà, với bổn nguyện cứu độ, luôn mong chúng ta, những đứa con chơn thật của các Đấng Như Lai, đang bị những sự phiền não khổ sở quay cuồng, sớm được giải thoát. Chỉ một điều duy nhất là cứu độ. Lòng từ bi của các Đức Như Lai mới có thể cứu độ, trong đó, lòng từ bi của Đức Phật A Di Đà là một. Với đức Như Lai, không phải chờ tích công bồi phước mới được cứu độ, mà là rất tự nhiên, không luận về công hay tội.

I.1.8.8Sự Tuyển Chọn Của Tâm Nguyện

Lý luận về việc cứu độ có lẽ Pháp Nhiên là người đầu tiên đưa ra như vậy. Trong tác phẩm: “Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập”Pháp Nhiên giải thích về tâm nguyện của Bồ Tát Pháp Tạng khi chọn việc niệm Phật như sau:

“Đối với những ai xây chùa, dựng tháp, học Phật và đầy đủ trí tuệ, những ai giữ giới luật và những người tốt v.v…, hẳn nhiên là đối tượng cứu độ vãng sanh. Thật ra, chỉ chọn như vậy toàn là người trí, người lành, người giàu có mới được cứu. Còn đại đa số là những người bần khổ, kẻ ngu, những người phá giới lại tuyệt vọng sao? Như vậy, lòng từ bi bình đẳng ấy có giới hạn. Do vậy, Bồ Tát Pháp Tạng (tức tiền thân của Phật A Di Đà) phát nguyện cứu độ tất cả, không phân chia kẻ ác, người hiền. Đối với người ngu, cứu độ việc dễ hơn tuyển chọn pháp môn niệm Phật.

Lại nữa, lòng từ bi bình đẳng không phân biệt người hiền, kẻ ác; bậc trí, kẻ ngu, người giàu, kẻ nghèo, tất cả đều là những tiêu điểm cứu độ. Đó là cụ thể hóa lòng thương về khổ đau của kẻ khác, lấy khổ bệnh làm tâm nguyện của chính mình. Còn lòng từ chính là lấy tâm cầu nguyện cho kẻ khác được hạnh phúc. Ngoài ra, đau khổ của kẻ khác càng nhiều bao nhiêu, không từ nan sự khổ ấy, phải làm sao cho họ được an lạc bấy nhiêu. Đó mới là tâm từ bi rất cần thiết.

I.1.8.9Sự Tàm Quý (Xấu Hổ) Và Cảm Tạ

Pháp Nhiên và Thân Loan đều đề cập đến “người lành vãng sanh và người ác cũng không phải là ngoại lệ”, nghĩa là với người làm lành, sống một cuộc đời an lạc, với kẻ làm ác, chiêu cảm tội báo chỉ có khóc than, bi lụy. Vì lòng từ bi và tăm chiêu cảm, Như Lai nối kết những tiêu điểm ấy lại trong giáo lý vãng sanh. Ngoài ra, ai có tâm để nghe và lãnh thọ ở phần sau của “Thán Dị Sao”sẽ nhớ mãi không thôi.

“Nếu vẫn còn mang nghiệp còn sót lại trong thân, thì bổn nguyện cứu độ và sự mong muốn được cứu độ sẽ làm cho được an ổn”.

Với lòng từ bi vô lượng, Như Lai cứu độ tất cả tội nghiệp sâu dày của mỗi người chúng ta đang thọ lãnh, nhưng tự thân chúng ta phải biết tàm quý khi bị chìm đắm ngu ác; chính những người được cứu độ phải biết cảm niệm và kính ngưỡng hồng ân đức Phật. Ngoài ra không còn gì khác nữa.

I.1.9Không Mang Theo Một Đệ Tử Nào

Thân Loan nói: “Không mang theo một đệ tử nào cả”.

(Lược bớt phần bình chú Hán-Nhật)

Thân Loan không mang theo một đệ tử nào cả. Cách nói như thế có nghĩa là: Tôi[31]rất hạnh phúc nếu có những người biết niệm Phật. Chính người đó là đệ tử của tôi. Đức Phật A Di Đà cũng mãn nguyện khi thấy có những người niệm Phật như thế và người đó cũng có thể là đệ tử của tôi. Nếu không như trên, không có ý nghĩa gì cả. (Điều thứ 6 – Thánh Điển – trang 835).

I.1.9.1Đồng Bạn, Đồng Hành

Căn cứ vào tác phẩm “Khẩu Truyền Sao”của Giác Như[32], Thân Loan nói rằng: “Hãy xin phép đình chỉ với chư vị giới sư, với các vị Thầy học, mà đến trước bậc Thánh, phát nguyện”.Thật ra, những bậc Thầy truyền dạy các pháp môn để thực hành, những bậc giới sư chỉ đạo về giới luật chưa phải là vấn đề tối quan trọng của sự nghiệp giải thoát. Trước đây, Pháp Nhiên cũng chỉ phát nguyện và tiếp tục nghe Phật-pháp suốt cả một đời. Nếu quyết chí ngồi trước vị Thầy không mệt mõi, nghĩa là đích thân người đệ tử đã chấp thuận cách sống của người ấy.

Theo Duy Viên (Yuien), tác giả của “Thán Dị sao”, người cung kính Thân Loan như một bậc Thầy Vô Thượng cho biết lúc thay đổi chỗ ở về Kanto, Thân Loan đã 42 tuổi dạy cho Tánh Tín (Shoshin), Chơn Phật (Shinbutsu) và nhiều người khác về pháp môn niệm Phật. Ít nhất có 80 học trò đệ tử thọ giáo. Đa phần họ là những đệ tử tại gia muốn kết duyên với Phật-pháp. Những người đệ tử ấy rất ái mộ Thân Loan, thường nằm mộng thấy tòa sen hay thấy Thân Loan, hóa thân của Đức Phật A Di Đà. Đó là điều chẳng có gì lạ cả. Những dòng chữ ấy làm sáng tỏ pháp niệm Phật và người ta quy hướng vào đó để sống.

Thế nhưng, Thân Loan không cho rằng đó là những học trò của mình, mà là những người bạn, đối xử với họ như là những kẻ đồng hành.

Thứ nhất, ta thấy lúc nào Thân Loan cũng nói mình là đệ tử của Pháp Nhiên. Chính những người đệ tử ấy cũng nghĩ rằng họ là môn hạ huynh đệ và học trò của Pháp Nhiên, bằng chứng khi Thân Loan tuổi đã 84, 85 vẫn còn sưu tập những pháp ngữ của Pháp Nhiên và những hình ảnh của Thầy mình để biên thành “Tây Phương Chỉ Nam Sao”gồm 6 quyển và trao lại cho các đệ tử.

Đến khi niên cao vào tuổi 87 lại biên soạn tác phẩm “Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập”, tác phẩm chính về Pháp Nhiên. Hoặc viết những sách về Thánh Giác (Seikaku) và Long Quán, những bậc đàn anh của Thân Loan, môn hạ của Pháp Nhiên. Ai đọc những lời dạy của Pháp Nhiên một cách chính thức được truyền đạt, đều kính quý. Thật là hay! Ngay cả, ở vào những ngày cuối đời, Thân Loan vẫn thường hay dẫn dụ những pháp ngữ của Pháp Nhiên, hoặc những thư từ còn để lại và giải thích cặn kẻ, với tất cả tấm lòng dành cho pháp môn chuyên tu niệm Phật.

I.1.9.2Phật Tử Chơn Chánh

Thứ hai, tất cả mọi người niệm Phật đều có nguồn gốc là đệ tử chư Phật và Đức Thích Ca. Tác phẩm “Tín Văn Loại”định nghĩa “Phật Tử chơn chánh là những người đệ tử của Phật (lược bớt). Đã là đệ tử của Phật Thích Ca và Chư Phật đều trở thành hành giả có tâm kiên cố như Kim Cang”. Ngài Thiện Đạo theo những kinh điển, mà Đức Thích Ca giảng dạy, thuận theo chủ ý lời dạy của Chư Phật. Ai tùy thuận bổn nguyện đức Phật A Di Đà là “Chơn Phật Tử”. Lời nói nầy được chú thích rõ ràng. Lại nữa, Đức Thích Tôn dạy về sự niềm tin rằng: “Hãy tin rằng niệm Phật sẽ được thành Phật”. Những hành giả niệm Phật phát nguyện vãng sanh qua bổn nguyện của đức Phật A Di Đà là lời chân thật, phù hợp với chủ ý của đức Thích Ca. Họ là những Phật Tử chơn chánh.

Thứ ba, hành giả niệm Phật, phải xác nhận rằng, là đệ tử của Phật A Di Đà, vì hành giả niệm Phật được giáo huấn rất căn bản theo bổn nguyện của Phật A Di Đà. Tất cả chúng sanh và kể cả mọi người là những người con gần gũi thân thiết, được đối xử một cách bình đẳng với tinh thần đại bi. Bình đẳng cứu độ tất cả chúng sanh là nương vào tha lực niệm Phật nhất niệm. Đó là quyết định vãng sanh. Chúng ta phải hồi hướng niệm Phật nầy. Đức Phật và chư vị Tổ Sư chỉ cho họ con đường niệm Phật, để tương ưng với bổn nguyện. Với nguồn gốc ấy, chúng ta niệm Phật trong bổn nguyện lực của Phật A Di Đà. Đúng hơn “Phật A Di Đà chỉ bày cho chúng ta niệm Phật”.Điều nầy những kẻ thiện tri thức vốn còn là phàm phu nếu tự cho mình là hành giả tự lực niệm Phật, chẳng khác nào con rối tự khoa trương về sự ngạo mạn của mình.

Những hành giả niệm Phật như thế cũng là đệ tử của Như Lai và là huynh đệ bạn hữu với nhau nên tôn trọng nhau và đối xử với nhau bằng đạo tình thân thiện và trang nghiêm. Họ có thể được gọi là những người đồng hành về Tịnh Độ có tính cách luân lý vậy. Như vậy với người niệm Phật theo Tịnh Độ Chơn Tông thường là những người nghe pháp và những đệ tử ngồi nghe đó thường nghĩ nhớ ân Phật và ân Sư Trưởng. Xác quyết nơi tự thân không nghĩ mình là một vị Thầy bị dao động bởi sự ngạo mạn. Mọi người hãy cùng đi và yêu thương nhau dắt tay nhau về Tịnh Độ.

I.1.10Qua Sự Từ Bi

Hãy phát tâm niệm Phật và sẽ được hỗ trợ bằng tâm đại từ bi.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán-Nhật)

Có quá nhiều yếu tố khổ đau thật đáng thương trong đời sống này. Dù rằng muốn hoá giải tất cả nhưng chúng ta không sao làm được, bởi vì dù có lòng từ bi đấy nhưng chỉ giới hạn trong khả năng tự lực mà thôi. Dẫu có giúp cũng chỉ được nửa chừng, nhưng nếu chúng ta phát tâm niệm Phật, họ liền được Phật cứu độ. Đó mới thật là tâm đại từ bi hoàn toàn thể hiện qua niềm tin và kính ngưỡng. (Điều 4 – Thánh Điển – trang 834).

I.1.10.1Sự Cảm Nhận Của Nổi Đau

Quán Kinhdạy rằng: “Tâm Phật chính là tâm đại từ bi nhiếp hóa tất cả chúng sanh, gọi là vô duyên từ”.Tâm đại từ mang lại niềm vui và tâm đại bi loại trừ khổ đau. Căn cứ trên tự điển, Từ có nguyên ngữ là Maitri. Chữ này kết hợp trừu tượng từ chữ Mitra(có nghĩa là bạn). Nghĩa đen là hữu tình, hữu nghị;Hữu tình là bình đẳng đối với tất cả mọi người. Nguyên ngữ của BiKaruna, nghĩa là khổ đau, sầu lụy. Nghĩa đen là hít vào, có nghĩa là thâu nhận (hít vào) khổ đau của nhân loại. Nói khác hơn, qua đau khổ của mình, mình sẽ đồng cảm với sự đau khổ của kẻ khác. Lòng Bi cứu độ nỗi khổ đau của người

Tâm Phật là tâm Từ Bi và Trí Tuệ. Tuy nhiên tâm Phật cũng gọi là Đại Từ Bi như trong Quán Kinh. Phật A Di Đà nghĩa là đồng cảm với nỗi khổ của chúng sanh, không chỉ trong bản thể Như Lai qua tâm nguyện cứu độ là Đại Bi mà còn biểu hiện ra bằng sự cứu độ nữa.

Ngoài ra, Thiện Đạo còn cho rằng học Phật tức là học “Tâm Đại Bi của chư Phật”, nghĩa là trước hết phải hiểu sự đau khổ của con người và phải hết lòng mong muốn cứu độ chúng sinh, bởi vì đồng cảm với nỗi đau khổ của chúng sanh vừa là giá trị căn bản đích thực của lòng từ bi, vừa là tư tưởng và hành động của Bồ Tát.

I.1.10.2Sự Giới Hạn Của Con Người

Thế nhưng, trong hiện thực chúng ta khó có thể cùng đau với nổi đau của người khác và cũng khó có thể cùng chung khổ với cái khổ của người. Giữa mình và người có bức tường dày ngăn cách. Hơn nữa, dẫu cho có suy nghĩ như thế nào đi nữa và dẫu cho có muốn đem thân nầy gánh chịu để cho người khác được hạnh phúc, chúng ta vẫn không thể thay thế được dù chỉ bằng một ngón tay của mình. Vì sao? Vì người ta có thể cắt ruột gan thành từng đoạn, nhưng không dễ dàng cắt bỏ tâm ái luyến và chấp thủ. Thế nhưng, dù tâm nghĩ thế nào đi nữa, trước cuộc sống bất hạnh nầy, không thể thiếu lòng từ bi, nếu chúng ta hết lòng cần cầu cứu độ. Đó là trình trạng thật của cuộc sống hằng ngày mà ngôn ngữ giới hạn không thể diễn đạt cho cùng.

Về già, Thân Loan hứa khả sự thỉnh cầu của đệ tử về Kanto, hướng dẫn họ thực hành pháp môn nầy. Thiện Loan, con của Ngài lại dựa vào thế lực cha, tung ra nhiều nguồn tin làm xáo trộn, dị nghị trong chúng đến nỗi môn đệ và người đồng tu lúc đó, ai cũng cho Thân Loan là sai. Thân Loan phải đính chính lại những nguồn tin ấy và gửi thư đoạn tình cha con với Thiện Loan. Chính con mình mà cũng không cứu được, Thân Loan phải đau buồn đoạn tuyệt. Trong phần sau của Tam Thiếp Hòa Tán, thuộc nhà xuất bản Văn Minh, có một đoạn được viết rằng:

Thị phi không biết, tà chánh chẳng phân,

Chỉ có mình

Một chút từ bi không có,

Lợi danh, với người này, cũng chẳng còn gì[33].

Không giải quyết được tranh chấp giữa Thiện Loan và T��nh Tín (Shoshin) vì khoảng cách giữa Kyoto và Kanto quá xa xôi cách biệt. Rõ ràng, hoàn cảnh ấy thật khó phân định ai đúng ai sai cho nên phải nói: “Thị, phi không biết, tà, chánh chẳng phân, chỉ có mình”. Làm cha mà không cứu được con quả là quá bất lực và xấu hổ nên phải tự nói rằng: “Một chút từ bi không có”.

“Tiểu Từ Tiểu Bi”là cách nói ngược lại với tấm lòng “Đại Từ Đại Bi” mà chư Phật có thể cứu độ được cả vạn người. Nhân duyên mình đối với đứa con ruột quá tệ. Một chút từ bi phàm phu đối với nghĩa chồng vợ, anh em, thầy trò chẳng có. Ôi! lòng từ bi sao mà nhỏ hẹp!

Tuy gọi là thầy trò, nhưng không có khả năng dạy dỗ con mình, không có năng lực truyền trao Phật Pháp cho môn đồ đệ tử cho nên nghĩa thầy trò cũng lung lay chấn động. Danh ấy chỉ là tham ái thế gian cho nên Ngài nói: “Lợi danh, với người nầy cũng chẳng còn gì”.

Trước đây trong phần Hòa Tán này, tôi[34]không thể nói nên lời và nghĩ rằng: “Tâm trạng buồn đau thấm thiết vỡ ra đến tuyệt vọng”.

I.1.10.3Đại Bi Của Như Lai

Thế nhưng, tâm người niệm Phật được bao dung che chở trong đại bi của Như Lai. Những thương, ghét, buồn đau khổ não của con người sẽ được đức Phật A Di Đà dang tay tiếp độ, với bổn nguyện đại từ đại bi bao la vô lượng. Đức Phật luôn luôn quán sát, sẵn sàng cứu độ và tiếp dẫn chúng sanh đến nơi không vươn tới được. Thế cho nên trước khổ đau, con người có thể bất lực với khả năng tự lực của mình, nhưng nếu mong mõi được cứu độ, được ánh quang minh chiếu soi và thiết tha niệm Phật, chư Phật sẽ đưa tay tiếp độ, dù cho tay vươn không tới.

Ngay khi phát tiếng niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ, đức A Di Đà Như Lai liền làm cho thân ta giống như thân Ngài. Nếu không được như vậy, Đức A Di Đà Như Lai không thể tự tại cứu vớt chúng sanh trong đời nầy. Cứ giữ niệm như thế chúng ta sẽ được cứu độ. “Nhứt tâm niệm Phật, được tâm đại từ đại bi gia hộ”chính là ý nghĩa của những lời nói trên.

Trong Bi Thán Thuật HoàiThân Loan tường thuật tâm ấy một cách bi ai.

Lòng từ bi nhỏ nhất cũng không có nơi thân,

Không làm lợi ích được gì cho hữu tình,

Thuyền của Như Lai khó thành,

Làm sao vượt qua được biển khổ.[35]

I.1.11Tâm Hoan Hỷ Lành Mạnh

Niệm Phật sâu dày như lòng hăng hái hoan hỷ của tâm.

(Lược bớt phần giải thích bằng chữ Hán Nhật)

Nếu niệm Phật mà tâm hoan hỷ có quá ít, thì niềm vui chẳng ra khỏi trời đất. Như vậy, chuyện gì sẽ xảy ra sau đó nếu mong được mau về Tịnh Độ.

I.1.11.1Câu Hỏi Của Duy Viên (Yuien)

Điều 9 của “Thán Dị sao”chép lại việc đối thoại giữa Thân Loan và Duy Viên. Dù phần đầu điều 10, “Thán Dị Sao”Duy Viên hoặc ai đó trong môn đệ chép lại pháp ngữ của Thân Loan, khi Ngài đối đáp với môn đệ, nhưng khác với điều 9. Có thể được giản lược chỉ có câu trả lời mà thôi, không có câu hỏi. Nhưng những câu hỏi thật ý nghĩa của Duy Viên được ghi lại đầy đủ ở đây.

Câu hỏi như sau: “Theo pháp môn niệm Phật vãng sanh có 2 vấn đề: thứ nhất, khi niệm Phật mà hăng hái quá, pháp lạc không tuôn ra, thứ hai, muốn mau về Tịnh Độ nhưng không có nguyện tha thiết vãng sanh?”

Rõ ràng là giữa pháp môn và thật tế là hai phạm trù trái ngược nhau. Hẳn nhiên, pháp môn nầy dành cho những người còn sống niệm Phật vãng sanh nhưng thật không đơn giản vì kết quả có thể nói nằm ở niềm tin và tâm của họ. Song không hiểu tại sao Duy Viên chẳng tư duy để lãnh hội. Ngay cả trả lời của Thân Loan cũng không giải rõ vấn đề chính xác được. Bây giờ lần lượt đi sâu vào câu hỏi đầu tiên thuộc về vấn đề ý thức.

I.1.11.2Vui Với Giáo Pháp

Bổn nguyện của niệm Phật vãng sanh được nói rõ trong phần cuối của Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ,trong đó đức Thế Tôn giảng rất rõ về cốt yếu của pháp môn nầy. Có một đoạn gọi là Phần Phú Chúc Lưu HànhPhật phó chúc cho Bồ Tát Di Lặc trong tương lai rằng:

“Ai nghe danh hiệu của đức Phật A Di Đà, tâm liền sanh hoan hỷ không còn một niệm khác sẽ được lợi lạc rất lớn, công đức vô lượng[36]. Ai nghe danh hiệu của đức Phật A Di Đà tin và biết rằng các đức Như Lai sẽ cứu độ, sự hoan hỷ này cảm động đến trời đất. Chỉ cần niệm lên một tiếng, được Phật A Di Đà đem công đức bao phủ toàn thân, vì danh hiệu ấy có đầy đủ công đức, tất nhiên sẽ thành Phật. Thật lợi ích vô cùng giống như trong cõi Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới đang bị lửa nóng thiêu đốt nầy, thật diễm phúc cho những ai được nghe giáo pháp.

Hơn nữa, trong Tịnh Độ Hòa Tánvới tất cả thiện tâm, Thân Loan nói như sau:

Như trong đại thiên thế giới,

Nhìn thấy lửa đốt cháy,

Ai niệm danh hiệu Phật,

Chứng được quả bất thối[37].

Khổng Tử có dạy rằng: “Sáng nghe được đạo, tối chết cũng yên tâm”. Ở trong nhà lửa bị thiêu cháy, phải chạy ra khỏi là chuyện đương nhiên, nhưng cố lưu lại để được nghe giáo pháp, dù chết vẫn không hối hận chút nào, huống hồ xưng niệm danh hiệu Phật. Lúc sống, xưng danh hiệu, được biết Bổn Nguyện là đã sống đầy đủ ý nghĩa và chết sẽ được siêu thoát, vì đã rõ biết giáo pháp chơn thật. Đó gọi là công đức hơn hết. Ai được pháp môn này, ngay như những khi buồn khổ vì chuyện không đâu v.v.., hết lòng niệm Phật là đã dùng thân này để cảm tạ cuộc đời. Khi chắp hai tay lại thọ nhận là đã mở ra một cảnh giới siêu thoát cao hơn.

I.1.11.3Hiện Thật Của Tự Thân

Lý do tại sao nói rằng niềm hân hoan khi nhận được chân pháp giá trị, hành giả niệm Phật có thể nhảy múa tung bay trong trời đất. Song thật tế thân không động, tâm không hoan hỷ?

Vượt qua biển sanh tử về Tịnh Độ là rời khỏi bến mê về bến giác. Với niềm vui ấy, hành giả sẽ nhận ra có điều gì đó to lớn hơn, vượt khỏi thương ghét (oán thân bình đẳng). Thực hiện giác ngộ là ý nghĩa hiện thực nhất, khi nguyện sanh Tịnh Độ. Dẫu cho khi mạng chung có lo lắng buồn khổ, thân thể đau đớn, điên cuồng với giận thương, lo nghĩ chẳng biết đi về đâu, nhưng đã tạo nhân Tịnh Độ hiện tại trong tâm nguyện, niệm ghét thương ấy tự nhiên sẽ lắng xuống. Lời dạy sâu sắc thật thiết thực cho những ai chưa muốn mau về Tịnh Độ, chỉ cần thực hành để liễu tri thế giới kịch trường vô nghĩa giữa giáo pháp và chính mình.

Thật ra, với tâm tha thiết, nghi vấn của Duy Viên rất thực tế, nhưng chỉ có điều, tự thân ông không nên quá nghiêm trọng như vậy.

I.1.12Biết Rõ Sự Liên Hệ Với Phật

Cảm nhận Tâm hoan hỷ là chỗ nương tựa của phiền não. Hãy trình lên cho Phật biết, chúng ta, kẻ phàm phu đầy phiền não đang ngưỡng vọng ngài.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán Nhật).

Đó có thể là cách nói của Thân Loan, mà ngay cả tâm của Duy Viên cũng giống như thế. Suy cho cùng, một khi niềm hoan hỷ đã thấu đến trời đất, mà hành giả cảm nhận và rõ biết, dù tự thân có không vui, song nhứt định không còn bao lâu nữa sẽ vãng sanh. Có niềm hoan hỷ hẳn nhiên tâm sẽ vui, song dẫu không có hoan hỷ, phiền não cũng ngưng lại.

Hướng về Phật, bậc đã vượt qua sanh tử, mong được cứu độ, chắc chắn phiền não tự nhiên mất hẳn, bởi vì hành giả đã nương vào tha lực bi nguyện mong cầu cứu độ.[38]

I.1.12.1Cả Thân Loan Cũng Thế.

Có thể Thân Loan giải đáp như thế chưa làm cho Duy Viên hài lòng. Song không những Thân Loan tư duy về điều đó mà Duy Viên cũng phải như vậy. Người đệ tử trẻ ở đây dẫn chứng ngay tự thân mình, không hỏi việc người khác có thể gọi là hình ảnh người cầu đạo. Không thấy hình bóng của người Thầy ở địa vị cao chỉ dạy cho người đệ tử, mà lại cùng đứng trong trời đất, cùng có phiền não giống nhau, cùng mang những căn bịnh trầm kha của kẻ phàm phu. Không khác hình ảnh những người bạn đạo đích thật cùng đi tìm sự cứu độ và cùng cảm nhận đau thương chung. Có thể nói: “Thân Loan chẳng có một đệ tử nào”. Trong hoàn cảnh rất tự nhiên, đã thốt lên những lời như vậy.

Thánh Nhơn nói rằng: “Càng suy nghĩ càng phải vui như niềm vui của trời đất. Dù chưa được vui nhưng lòng tha thiết mong được cứu độ, chắc chắn chẳng mấy chốc sự vãng sanh có đầy đủ nơi thân”.Trong tác phẩm của Liên Như, câu văn ấy là “Chắc chắn chẳng mấy chốc sẽ được vãng sanh”. Còn theo tác phẩm được viết vào năm Vĩnh Bình thứ 13 thì: “Chẳng mấy chốc sự vãng sanh sẽ được quyết định”. Tác phẩm viết năm Vĩnh Chánh thứ 16 thì: “Chẳng mấy chốc sự vãng sanh sẽ được nhứt định”.Trường hợp bản của Liên Như gọi “Tamafu”nghĩa là biểu hiện ý nghĩa gia bị cho nên “vãng sanh nghĩ là chắc chắn”.Ngoài ra trường hợp khác chữ “Tamafu”biểu thị ý nghĩa của sự tôn kính, nên nói là: “sự vãng sanh chắc chắn sẽ được như ý”.

I.1.12.2Bi Nguyện Của Tha Lực

Không nhận biết ân đức cứu độ của Phật dành cho thân phận thiển bạc này, mà phải vui vẻ đi trên con đường cứu độ. Quả thật ngược lại với ý nghĩa cứu độ.Dù rằng bổn nguyện đại bi của Phật A Di Đà vẫn có, nhưng thân nầy lại đầy phiền não và tín tâm hướng theo cảnh giới khác chẳng phải biểu hiện thuyết đi ngược sao?

Chẳng có gì gọi là trái nghịch dù cho niềm hoan hỷ chưa trổi dậy, lòng mong cầu chưa được như nguyện nhưng trong tâm luôn luôn biết rõ công đức vô thượng của pháp môn niệm Phật bổn nguyện. Bởi vì trong cuộc đời, nào danh dự, nào lợi dưỡng, nào được, nào mất…, là những phản ứng mẫn cảm, một khi được danh lợi niềm vui khó tả; ngược lại danh mất, lợi mất đau khổ bi thương sẽ đến. Hơn khi nào hết đó là lúc mình nhận ra con người mình thật nhất. Có địa vị cao, có danh dự, có quyền lực, có tài sản nhiều bao nhiêu đi nữa, song cuối cuộc đời cũng chỉ còn lại cái khôngto tướng mà thôi. Lợi danh không là gì nhưng chúng ta quý nó không khác nào máu huyết luân lưu, ngày đêm nghĩ tưởng không dừng. Trong khi đó thật thương hại làm sao! ái dục, thương, ghét, tốt xấu vẫn tiếp tục đốt cháy mình. Kiếp nhân sinh trôi qua chỉ trong chốc lác để lại cái khôngto tướng, sự thật phải nói rằng, chẳng còn một cái gì cả. Song thật là bất khả tư nghì[39]nếu kẻ phàm phu đầy phiền não và đầy sầu bi như chúng ta lại được Phật từ bi cứu độ.

I.1.12.3Từ Bi Nằm Trong Phiền Não

“Quy ngưỡng Phật nghĩa là trong tâm tội ác có chứa Từ Bi”cũng là một cách nói. Tâm chư Phật đầy lòng từ bi cứu độ, ngược lại trong tự thân chúng ta cội rễ tội chướng phiền não sâu dày cho nên tín tâm là niềm mong được cứu độ khi nghe Bổn Nguyện của chư Phật.

Là những kẻ phàm phu đức mỏng nghiệp dày, chúng ta quy ngưỡng Như Lai chắc chắn được tha lực Như Lai cứu độ, nói rằng trong tự thân phiền não của chúng ta có lòng đại bi của Như Lai có nghĩa là Như Lai hiện hữu trong phiền não của chúng ta. Tuy trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta mang đầy chất liệu phiền não khổ đau, song khi nào hướng về và muốn gặp Như Lai khi ấy có Đức Như Lai chơn thật trong mình.

I.1.13Không Lưu Luyến Nơi Tịnh Độ

Một khi khổ não chốn Ta bà đã xả bỏ và sanh vào cõi An Dưỡng Tịnh Độ rồi, không còn lưu luyến nữa.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán Nhật)

Đợi đến khi bệnh nặng hoành hành mới mong sanh về Tịnh Độ, dẫu vãng sanh vẫn còn phải cưu mang những sự phiền não nhỏ nhặt trong tâm, vẫn lưu luyến cảnh xưa, chốn cũ và khó xả bỏ những phiền não ấy. Chưa sanh về Tịnh Độ, chỉ nghe đến cảnh giới an lạc, dẫu cố gắng không nghĩ đến cảnh Ta Bà nầy, nhưng phải nói rằng niềm lưu luyến vẫn quanh quẩn bên thân.

Danh tuy có nhưng thật lại không. Hết duyên Ta Bà, thân ta hoàn toàn bất lực, làm sao vãng sanh Tịnh Độ được. Cho nên phải, nương thệ nguyện đại bi và năng lực tiếp dẫn của Phật, mới được vãng sanh. Còn ai không ước nguyện vãng sanh, dù Phật ứng hiện trước mặt cũng chẳng đoái hoài. (Điều 9 – Thánh Điển – trang 837).

Giải thích:

I.1.13.1Người Đời Sau Nói và Làm

Duy Viên (Yuien) tìm đến Thân Loan thưa rằng: “Muốn được vãng sanh Tịnh Độ, phải chuẩn bị như thế nào?”Lúc ở Thường Lục, Duy Viên còn là người tại gia[40]kính Phật, nghĩ rằng: “Pháp tu của người niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ là xa rời thế tục, buông bỏ tất cả, lúc nào cũng muốn sau lâm chung vãng sanh Tịnh Độ, không dao động trước khổ đau và lúc nào cũng vui vẻ, dù bệnh tật đau đớn thế nào đi nữa, vì Tịnh Độ đã gần kề”. Thật ra, suy nghĩ như thế không sai.

Môn đệ của Pháp Nhiên kính tín Tam Bảo hoàn toàn giống các đệ tử ở ẩn tại cốc của Liên Như thuộc Kozasan (Cao Dã Sơn). Ở đây, mọi người đều xả bỏ thế tục, sống chung với nhau trong niềm tín kính Tam Bảo. Duy Viên là một trong những người điển hình hoàn toàn đúng khi suy nghĩ rằng: “Ai không nghĩ đến việc xa lìa uế độ[41], dầu Tịnh Độ có đến đi nữa, tâm cũng không vui mừng”.

I.1.13.2Ngay Cả Những Sự Phàm Tình

Thật không sai khi Thân Loan trả lời không có phiền não hiện diện trong thân làm sao thấy được tâm đã có bổn nguyện đại bi.Có thể Thân Loan đã liễu ngộ nên giải thích một cách tự tin. Ai tìm cầu cảnh giới giác ngộ, mang tâm nguyện muốn sanh về Tịnh Độ, người ấy xa lìa phiền não thương, ghét đang quay cuồng trong kiếp nhân sinh khổ não từng phút, từng giây. Chính thế, tâm hướng về Tịnh Độ là một đạo lý vậy. Vẫn đang sống trong cuộc đời song người niệm Phật một lòng muốn lìa chấp trước; nhưng không có tâm mong cầu về Tịnh Độ, nếu bị bịnh một chút hoặc nếu trong gang tấc rủi có chết đi, tuy là gần Tịnh Độ, nhưng thế giới ấy chỉ là vọng niệm. Thế giới vọng niệm cũng chỉ là chuyện phàm tình thôi.

Đạo lý được thiết lập vững chắc đó tôn kính Phật và muốn ra khỏi thế giới vọng niệm cần phải có tâm đạo. Thế nhưng, với Thân Loan chẳng có sự buồn khổ nào về thế giới vọng niệm của chính mình cả, vì đó là phàm tình[42]như vậy, và tin rằng với bổn nguyện đại bi, mình sẽ được cứu độ.

Đúng hơn, thật không sai nếu nói dù họ có kính Phật nhưng chưa từ bỏ danh lợi của thế tục song chắc chắn họ sẽ không còn danh lợi. Vẫn là những người thế gian phàm tục tham lam sống với những tài sản của cải, nhưng trong cuộc sống, những kẻ phàm tình ấy tư duy tất cả danh lợi thế gian chỉ là trừu tượng và huyễn hóa. Họ biết rằng dù cho có được tô vẽ thế nào đi nữa, chắc chắn sẽ có một ngày tài sản cũng như danh dự, ngay cả yêu thương cũng từ bỏ mình mà đi. Ai dốc lòng hướng đạo, thế nào rồi cũng bỏ lại sau lưng những cơ sở danh lợi được lập nên cho người thế tục. Ai dẫu phàm tục mê muội đến mấy đi nữa, một khi thấy được sự xả bỏ lợi danh thế tục là việc cần thiết, xa rời dần, song chỉ có điều, vẫn còn thân nầy cho nên còn phải chấp nhận sự chết, được gọi là người “xả bỏ thế tục”. Tất cả rồi cũng phải bỏ hết chỉ còn cái “Không”và như những kẻ ngu dại phàm tục, ai ai cũng phải đón nhận sự chết. Thậm chí, những người không xả bỏ được mà vẫn được cứu độ qua lời nguyện đại bi của Đức Phật A Di Đà.

Ngoài ra đối với những ai dù “chấp giữ không bỏ mà vẫn niệm danh hiệu của Đức A Di Đà”với tâm của bực Thánh, Như Lai sẽ bảo rằng: “Hãy nhanh lên còn chờ gì nữa!”Đó cũng chính là lời nguyện “hãy tiếp tục, với lòng đại bi đại nguyện cứu độ của Như Lai. Các ngươi chỉ còn quyết định vãng sanh mà thôi”.

Cuối cùng nếu không khởi tâm muốn mau vãng sanh Tịnh Độ, dù vẫn còn tiếc thân nầy, không xả bỏ được thì chỉ cần quy ngưỡng về Bổn Nguyện Đại Bi, có thể với sự quy ngưỡng ấy cũng sẽ được vãng sanh.


I.1.14Lòng Tin Được Chở Che

Thiện tín nào có lòng tin[43]cũng được Đức Như Lai che chở tín tâm ấy.

(Lược bớt phần giải nghĩa theo lối Hán-Nhựt).

Đức Phật A Di Đà hộ niệm tín tâm của Nguyên Không (Pháp Nhiên) và cũng hộ niệm và gia bị cho tất cả các thiện tín có niềm tin, bởi vì tín tâm vãng sanh hoàn toàn giống nhau. (Phần sau – Thánh Điển – trang 852).

Giải thích:

I.1.14.1Tranh Luận Về Một Lòng Tin Sai Khác

Có một phần tranh luận về sự khác biệt của lòng tin rất đặc biệt trong phần sau của “Thán Dị Sao”. Khi Thân Loan còn là học trò của Pháp Nhiên đã tranh luận về niềm tin với Nguyên Trí[44]và Niệm A,[45]những người đồng môn. Đôi khi Thân Loan[46]cho rằng: “Niềm tin của tín đồ cũng hoàn toàn giống niềm tin của Thánh Nhơn Pháp Nhiên”.Trong khi đó, Nguyên Trí và Niệm A kịch liệt phản bác rằng: “Làm sao niềm tin của học trò, niềm tin của tín đồ lại có thể giống niềm tin của vị Thầy, một bậc Thánh được?”

Thân Loan chứng minh: “Về học thức và trí tuệ sâu xa, chúng ta không bằng Thầy. Nhưng tâm không nghi ngờ và tin bổn nguyện vãng sanh hầu như hoàn toàn không khác. Đúng ra chỉ có một mà thôi”.Họ phản bác rằng: “Làm sao lại có đạo lý như vậy?”

Nghe về sự tranh luận và phê bình đúng sai của đệ tử, với lòng quy ngưỡng, Thầy (Pháp Nhiên) ban cho những lời dạy như sau:

I.1.14.2Tín Tâm Được Che Chở

Với bổn nguyện niệm Phật, Pháp Nhiên cho rằng: “Công đức của kẻ trí hay người ngu xưng tụng danh hiệu không khác nhau. Niệm trong khi tâm chí thành và niệm khi tâm nhiễm ô tán loạn, tất cả công đức ấy đều bình đẳng. Thế nhưng nếu nói lòng tin giống nhau, theo pháp ngữ chẳng đúng”. Như có lời dạy rằng: Đức Như Lai hộ trì niềm tinkhông có ghi lại trong sách vở hoặc những pháp ngữ đấy sao!

Hơn nữa, công đức niệm Phật của bất cứ ai và xưng niệm ở bất cứ trạng thái nào, công đức vẫn đồng. Mỗi tiếng, mỗi tiếng là cái đức vô thượng vậy. Công đức niệm Phật không phải là người xưng tụng thêm cái đức, mà chính danh hiệu bổn nguyện ấy từ nguyên thủy có chỗ đắc rồi. Với ý nghĩa ấy mỗi một tiếng, mỗi một tiếng niệm Phật biểu hiện việc che chở của Đức Như Lai vậy.

Với Thân Loan, nếu Bổn Nguyện Niệm Phật là con đường cứu độ bình đẳng cho nhiều người, thì khi nghe và thọ trì không còn gì nghi ngờ nữa. Do vậy, tâm tin tưởng niệm Phật vãng sanh không sai biệt. Dù cho người thiện, kẻ ác, bậc hiền, kẻ ngu v.v…, đều vượt qua và đều được bình đẳng. Đó là chủ trương rốt ráo rằng: “Thầy trò cùng một lòng tin.”

Có phải nghe lời giải thích sâu sắc của Thân Loan, Pháp Nhiên vô cùng kinh ngạc, tán thán chăng? Và từ đó mới phát khởi: “Niềm tin được đức Như Lai che chở”.Chắc chắn niềm tin ấy cũng bình đẳng chứ không sai khác.

Niềm tin được hộ trì có nghĩa là “ngươi sẽ được cứu”. Không những người ấy không bị đọa mà cả vạn người đều được cứu độ một cách bình đẳng qua tâm đại bi; cho nên cả vạn người có thể bước đi trên con đường niệm Phật một cách dễ dàng khi tuyển chọn và thệ nguyện qua lời: “Nếu xưng niệm danh hiệu, ta sẽ tiếp dẫn vãng sanhTịnh Độ.”

Nghe lời thệ nguyện ấy, tất nhiên ước nguyện sẽ thành tựu. “Lòng tin khởi đi từ bổn nguyện”. Khi quy ngưỡng “tất nhiên được cứu”. Lòng tin “chắc chắn được cứu độ” hiện hữu trong tâm mọi người, đó là sự thật. Trí tuệ và học thức của con người không thể đo được tự kỷ nhiều như những vi trần của mình. Điều mà “Đức Như Lai hộ niệm cho lòng tin và tất cả niềm tin chỉ là một”, được phát triển khắp trên thế giới, cũng chính là những gì Thân Loan liễu ngộ và cho rằng: “niềm tin vãng sanh chỉ có một mà thôi”rất minh bạch và chắc chắn.

Hơn nữa, Thân Loan nghe lời dạy của Thầy: “Chính Đức Như Lai hộ niệm niềm tin”cảm nhận sâu sắc và lãnh thọ nhất quyết không sai. Thế nhưng, Pháp Nhiên lại không mở rộng ý nghĩa lập luận về “niềm tin được Như Lai hộ niệm”.Thành tựu nầy phải nói rằng chính là của riêng Thân Loan. Theo tác phẩm “Giáo Hạnh Chứng Văn Loại”,năng lực bổn nguyện hồi hướng dựa trên cơ sở giáo lý mà Pháp Nhiên giảng về khái niệm giáo nghĩa Tịnh Độ. Phải chăng giáo nghĩa Tịnh Độ Chơn Tông lấy nền tảng từ sự tranh luận về khác biệt của niềm tin?

Ngoài ra, biên khảo chính của Thân Loan như “Giáo Hạnh Chứng Văn Loại” đặc biệt nói về niềm tin, mà niềm tin từ nơi năng lực bổn nguyện hồi hướng, được chỉ bày một cách rõ ràng rồi.

I.1.15Một Người Như Thân Loan.

Đức Phật Di Đà trải qua 5 kiếp tư duy về lời nguyện, Thân Loan là người kế tục.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán-Nhật)

Đức Phật A Di Đà lập bổn nguyện và tư duy trong 5 kiếp. Càng suy nghĩ về điều này, càng cảm niệm về bổn nguyện mà Ngài đã lập nên để cứu độ mọi người, ngay cả những ai còn tội nặng. Cuối cùng, vì một người như Thân Loan. (Phần cuối-Thánh điển-trang 853).

Giải thích:

I.1.15.1Lời Nguyện Tư Duy kéo dài đến 5 Kiếp

Đôi khi, Thân Loan trình bày bổn nguyện của Phật A Di Đà qua “Lời Nguyện, 5 Kiếp Tư Duy”. Chữ Kiếp tiếng Sanskrit đọc âm là Kalpa, được dùng trong kinh, như một đơn vị biểu thị thời gian lâu dài, hầu như không ai có thể tính được. Trong “ĐạiKinh”trước tiên Bồ Tát Pháp Tạng phát nguyện đại bi cứu độ kẻ phàm phu tội ác sâu dày cùng tất cả chúng sanh bình đẳng như nhau. Ngài tư duy phương pháp cứu độ qua một thời gian khá lâu đến 5 kiếp, mới lập nguyện: “Ai niệm Nam Mô A Di Đà Phật sẽ được cứu độ qua pháp niệm Phật vãng sanh”.

Việc chọn pháp môn niệm Phật vãng sanh để cứu độ, Bồ Tát Pháp Tạng tư duy suốt 5 kiếp như thế có hai ý: Thứ nhất thời gian 5 kiếp không phải là lâu lắmvới một vị Bồ Tát như Pháp Tạng tư duy về pháp môn cứu độ bằng trí tuệ giác ngộ, mà chỉ lâu đối với chúng ta, đối tượng được cứu độ, những kẻ phạm vô lượng tội. Thứ hai, Bồ Tát Pháp Tạng tư duy thâm sâu và thấy rằng chỉ có pháp niệm Phật cầu vãng sanh mới có thể cứu độ tất cả chúng sanh mà không bỏ sót một ai, ngay cả chúng sanh nhỏ như vi trần. Thật vậy chân lý của pháp môn cứu độ ấy đã minh chứng điều này.

Phần trước chúng ta có thể tự suy nghĩ là bản thân mình hoàn toàn không thể tự khai mở năng lực giác ngộ, mà phải trải qua niềm tin tha thiết và buông bỏ ý niệm tự lực ấy. Phần sau xác nhận và trình bày nguyện lực cứu độ ấy. Pháp môn nầy nương vào niềm tin tha thiết để vượt lên trên tất cả, mà niềm tin ấy chính là tha lực. Thật vậy, như trong kinh việc cứu độ của Như Lai đã làm sáng tỏ ý nghĩa quan trọng đó là phải nương vào niềm tin thiết tha để vượt qua và buông bỏ ý niệm tự lực mà nương vào bổn nguyện tha lực.

Năm kiếp tư duylà tiếng nói của tự tâm Như Lai, không thể dùng ngôn ngữ thế gian mà suy lường được. Tiếng nói ấy cho thấy cái thật tướng không của lợi danh thế tục. Nghe đến khổ não, nghiệp chướng có thể buồn thương với tự thân này; nhưng chính mình không cắt lìa tư duy ái dục, cũng như thương, ghét xấu ác v.v…, điều trước tiên phải làm sáng tỏ căn bản của vấn đề “hãy mau tỉnh thức”. Nhưng bị bao phủ bởi màn đêm mê muội sâu dày, tự thân không biết làm thế nào cho nên phải nương vào lòng đại bi kêu gọi “tất nhiên sẽ được cứu”của Phật. Thật là cảm động với câu “với một người như Thân Loan”như được thuật.

I.1.15.2Một Người Của Thân Loan

Chữ “Mười Phương Chúng Sanh”trong lời nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đàđược hiểu là bao gồm tất cả chúng sanh, với tâm nguyện bao la cứu độ, Phật không bỏ sót người nào. Đó cũng chính là đặc trưng cho tánh phổ quát. Song chính cái “ta”gọi và đến trong mỗi người tạo ra não phiền riêng, chứ không phải cái nào khác. Theo Thiện Đạo, điều nầy biểu lộ qua tâm của bổn nguyện. Trong tác phẩm “Lời ví dụ cho hai con sông”thuật rằng: “Nếu nhà ngươi nhứt tâm chánh niệm, chúng tôi[47]sẽ đến ngay và giúp các ngươi”.Như Lai chỉ dùng một chữ “ngươi”[48]để gọi một người cũng như hai người. Cuối cùng “một người như Thân Loan đã đến”. “Ngươi” gọi, có người đáp ứng và gặp được. “Sự thân thiện”được biểu hiện một cách cảm động Narikeri,mà chữ keri[49]lại càng cảm động hơn.

Chính Thân Loan ngưỡng vọng tư tưởng nghịch báng tử hài[50]. Vì ái dục và phiền não sân hận đốt cháy cho nên phạm tội ngũ nghịch. Song Phật vẫn mở rộng vòng tay bao la đón nhận ngay cả những kẻ phỉ báng chánh pháp, không chỉ người đã giác ngộ. Vả lại, nơi cửa Phật tất cả đều bình đẳng trên lộ trình sanh tử. Năm kiếp tư duy nghĩa là điểm “nghịch báng tử hài”mà Như Lai gọi là nghiệp, mà nghiệp Như Lai đã tư duy đến 5 kiếp. Trong số những tội nghiệp đó, chính Thân Loan là một ngườivô cùng xấu hổ để phát lên niềm cảm tạ cũng như niệm ân và nói rằng “Đức Phật A Di Đà đã tư duy 5 kiếp chỉ rõ bổn nguyện, Thân Loan hãy mau lên”cũng nói rằng: “Hãy đến đây và nghiệp mà ngươi đang cưu mang nơi thân chỉ là thói quen thôi, sẽ được cứu độ”; cũng nói rằng: “Nếu Đức Phật A Di Đà không tư duy trong 5 kiếp, con đường cứu độ không xuất hiện. Vì vậy với tội nghiệp sâu dày như Thân Loan mà còn được cứu độ, chẳng còn gì để nói cả.”

Lại nữa, theo tác phẩm “Thán Dị Sao”của Liên Như cho rằng: “nghiệp như thế ấy”. Nhưng tác phẩm viết năm Vĩnh Chánh thứ 16, viết rằng “nghiệp không đến hết”. Tôi sẽ lý giải theo văn chương của tác phẩm Liên Như đã đề cập ở trên.

I.1.15.3Ví Dụ Về Con Đường Trắng Ở Trên Hai Sông

Nhị Hà Thí[51]theo Thiện Đạo trong tác phẩm Quán Kinh Sớlà biểu hiện một thí dụ rất kỳ diệu về niềm tin của những hành giả niệm Phật.

Có một người theo hướng Tây mà đi, dù không thấy đâu là đâu cả, nhưng vẫn đi tiếp, đi tiếp. Bỗng nhiên, có đạo tặc và mãnh thú (chỉ người hủy báng niệm Phật và phiền não đắn đo, chê trách của chính mình)xuất hiện khó mà chạy thoát. Trước mặt có một con sông đầy nước (chỉ cho phiền não của ái dục)và một con sông đầy lửa (chỉ cho phiền não của sân hận)hiện ra, người ấy chẳng thèm để ý vẫn đi tiếp, nhưng nước ở con sông phía bắc và lửa ở con sông phía nam quá nhiều không thể vượt qua được. Song giữa chỗ giao nhau của hai con sông, có một con đường màu trắng (chỉ cho câu niệm Nam Mô A Di Đà Phật)và hướng về phía Tây càng lúc càng hẹp không thể vượt qua được. Người ấy đang lâm vào cảnh tuyệt vọng đi tiếp tục cũng chết, trở lui cũng chết, dừng lại cũng chết. Từ phía đằng đông sau lưng, có tiếng kêu vọng tới: “Ngươi hãy theo con đường ấy, chắc chắn sẽ không chết”. Theo tiếng khuyên ấy, ngư���i ấy đi tới (chỉ cho sự chỉ dẫn của Đức Phật Thích Ca). Đồng thời cũng nghe hai bờ sông nước và lửa ấy có lời hô (chỉ cho lời gọi của Phật A Di Đà). “Ngươi hãy một lòng niệm Phật và ngay lập tức sẽ được đến. Chúng ta, sẽ hỗ trợ cho ngươi”.Người lữ hành ấy theo sự điều khiển lời gọi tiếp tục đi trên con đường trắng ấy, cuối cùng vượt qua khỏi hai con sông nước và lửa, đến được bờ an lạc bên kia.

I.1.16Phê Phán Về Thiện Ác

Cả hai việc lành dữ phải nên rõ biết.

(Phần giải thích theo lối Hán-Nhật lược bớt)

Điều gì là thiện và điều gì là ác? Thật ra, cả hai thiện và ác, với tôi, chẳng rõ gì cả, chỉ có Đức Như Lai đầy đủ trí tuệ mới có thể rõ biết. Với Như Lai, điều thiện nên nhớ rõ và làm, điều ác cũng nên biết rõ ràng đó xấu ác. (Phần sau – Thánh Điển – trang 853).

Giải thích:

I.1.16.1Sự Giới Hạn Của Trí Tánh

Một lời như thế thường chi phối suy nghĩ và tưởng tượng quan trọng của chính mình, bởi vì lúc nào mình cũng lấy mình làm trọng tâm để phê phán giá trị việc làm của những người khác. Ngay cả những công việc tốt hay xấu,lành hay dữ thường ngày mà mình đối diện và tương tác với nhau rõ ràng ảnh hưởng tính chất hư cấu không thật.

Theo ngôn ngữ của Thân Loan trong “Thán Dị sao”, có hai cơ sở “tất cả đều nên rõ biết”, trong đó, thứ nhứt “Niệm Phật chắc chắn vãng sanh Tịnh Độ,thứ haihoặc giả do nghiệp mà rơi vào địa ngục, cũng đều biết rõ”.[52]Còn một việc khác nữa cũng có nói rằng “kẻ đối trước sanh tử không thể rõ biết, vì năng lực nhận thức của con người bị giới hạn[53]. Trong sanh tử, họ không tự quyết định được vì sự giới hạn của thức phân biệt. Muốn vượt qua bờ sanh tử kia, phải dùng Phật Trí (trí vô phân biệt) thấy rõ sanh tử vốn nhứt như[54].

Ngoài ra, với chúng ta Phật trísẽ cho chúng ta thấy rõ bổn nguyện “hãy quy ngưỡng về”.Khi tâm mở rộng, chúng ta sẽ rõ biết phong cách sống của con người, vốn khó biết rõ.

I.1.16.2Lành dữ khó xác định

Vấn đề này ở cuối sách có viết: “Tất cả nên rõ biết”.Đó là vấn đề phê phán về giá trị của việc làm thiện hay ác, lành hoặc dữ của con người. Thật sự, con người không có khả năng biết rõ vấn đề thiện, ác nầy. Vì chính con người không thể rời khỏi đối tượng lấy mình làm chủ thể để phán đoán. Thông thường, lời chỉ trích là những điều không rõ ràng và thường dựa vào luân lý để so sánh. Theo tôi[55]thấy đúng phải là tư duy việc lành, dữ một cách công bình. Kết quả có như sự mong đợi chăng? Theo tôi, sơ sót về phần mình từng chút từng chút sẽ được sửa đổi, khi tư duy đặt trên nền tảng luân lý đạo đức như vậy.

Kinh nghiệm qua sự sinh hoạt của tôi, khi đã cho là “tốt, được đó”, tôi tiếp tục nhưng vẫn thận trọng. Dù tốt hay xấu, thật ra rất khó lường sự khác nhau, vì khó mà bảo đảm được trật tự trong sinh hoạt thường nhật trước sự biến loạn của xã hội. Song, đó chẳng phải là vấn đề chính để phê phán thiện, ác. Khi tư duy căn bản thay đổi, lành có thể trở thành dữ và dữ cũng có thể trở thành lành như trở bàn tay vậy. Điều xảy ra nhan nhãn khắp đó đây. Dưới thể chế phong kiến người ta thừa nhận việc nào đó là tốt, nhưng đối với chế độ tự do dân chủ những hành vi như thế không được công nhận là thiện. Đối với xã hội tư bản cho là đúng; nhưng đối với chủ nghĩa cộng sản thì cho là không. Lại nữa, một người được gọi là anh hùng đối với dân tộc này nhưng khi đi chinh phạt nước khác, đó là kẻ tàn ác, hung thần. Ngoài ra, điều không thể thiếu được là y học ngày nay vì nhân loại mà phát triển không ngừng, song hành vi giết động vật vẫn được chấp nhận, khi dùng chúng làm vật thí nghiệm. Nhưng, nếu thử nhìn lại việc giết hại các động vật kia, con người quả là hiện thân của kẻ tàn ác, bạo ngược phi đạo đối với những động vật.

Như thế, tiêu chuẩn của thiện, ác tùy theo từng thời đại, từng quốc gia, từng nền văn hóa khác nhau, cho nên phê phán vấn đề vẫn thay đổi, cho nên phải nói rằng: “Việc thiện ác, cả hai đều phải am tường”là vậy.

I.1.16.3Suy Nghĩ Về Chính Mình

Thật sự, khi suy nghĩ về mình, tôi thấy không để ý đến sự sinh hoạt hằng ngày của mình mà thường bị chi phối bởi tự ngã. Chính mình thấy tốt thì cho rằng tốt. Chính mình thấy đúng cho là đúng; ngược lại chính mình cho là xấu thì việc tốt cũng trở thành xấu. khi tự ngã thấy không, việc có cũng trở thành không.

Lại nữa với chính mình ái luyến, lấy cảm tình đối tượng sanh ra thương, ghét cho nên chấp nhận việc nầy, cho là tốt, nhưng phủ nhận việc khác, cho là xấu.

Như vậy, lúc nào chúng ta cũng lấy tự ngã của mình làm trung tâm để phán đoán phân biệt tốt, xấu, có, không rồi tạo nên thế giới thương, ghét nầy. Thế nhưng, diện mạo của mười người, khác nhau mười chỗ, ngay cả việc ăn uống của mỗi người chẳng ai giống ai cả. Do vậy, với mình việc này là tốt, với kẻ khác xấu. Với họ, điều này đúng, với mình là sai v.v… Không biết bao nhiêu chuyện xảy ra nhan nhãn hằng ngày như thế chẳng qua do lấy chính mình làm trung tâm để phán đoán phê phán việc làm. Hành vi dù tốt, nhưng khi khởi lên sự cãi vả, chắc chắn sẽ tạo thành đảng phái hay đồng chí liên minh để bênh vực với nhau về vấn đề lợi hại kia. Khi lợi hại tương phản nhau, họ sẽ trở thành thù địch và tiếp tục giận hờn thương ghét v.v… Như vậy, càng bị não phiền thương ghét, càng bị khổ lụy bởi một kiếp nhân sinh, mà việc ấy chính là: “sự dối trá, sự lừa dối”vậy.

Con người cứ như thế được hình thành qua nhiều hình thức khác nhau như tập đoàn, gia tộc, thân tộc, đoàn thể, cộng đồng của khu vực, dân tộc, quốc gia v.v… Điều không thể quên rằng tất cả lấy làm chủ đích để tạo ra sức mạnh và được thành lập bởi cá nhân tự kỷ. Song khi quên mình nghĩa là dùng cái danh chánh nghĩa để chiến đấu với nhau. Rồi lấy danh nghĩa của thần thánh đi giết hại lẫn nhau. Con người, chính con người đã tạo ra thảm nạn đầy ngu muội đó. Do vậy Đức Như Lai mong muốn chúng ta thấy được sự thật, trước tiên thừa nhận ngu ác của chính mình do cái tâm hư ngụy gây ra. Được vậy, con người hưởng được một cuộc sống ý nghĩa và thanh tịnh.

I.1.17Niệm Phật Là Suối Nguồn

Chỉ có niệm Phật mới là suối nguồn đáng nói.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật)

Chúng ta, những kẻ phàm phu sống trong cuộc sống đầy phiền não. Cảnh giới này như một căn nhà lửa phủ chung quanh vô cùng nguy hiểm. Trong thế giới luôn biến hóa vô thường nầy, chúng ta, những kẻ phàm phu như chúng ta cũng đang bị lửa phiền não đốt cháy. Còn mọi vật đều giả tạm, trống không, không thật tướng, khó tìm thấy cái gì là chân thật tướng. Như vậy, chỉ có bổn nguyện niệm Phật là vượt lên trên sự phiền não và vĩnh viễn không bao giờ thay đổi sự chân thật ấy. (Phần sau – Thánh Điển – trang 853).

Giải thích:

I.1.17.1Đầy đủ phiền não của phàm phu

Phiền não gồm có tham dục, sân hận và ngu si. Chính tâm ta bị ô nhiễm rồi làm cho kẻ khác bị thương tích, rồi cả hai người đều trầm luân trong sự khổ não. Khi mê muội khuấy động, cả thân lẫn tâm đều rối loạn bởi phiền não, mà phiền não ấy chính là vọng niệm ngu si chấp mình là trung tâm cho nên bị đắm trước, chấp nhứt và tìm cầu tham dục. Chấp nhận vấn đề nào đó làtốt (hợp với cảnh) vì có sự hiện hữu của tham dục. Ngược lại, nếu tự ngã cho rằng xấu, ác (nghịch ác), cũng chính từ đó sân si sẽ khởi lên việc thương ghét. Thế giới được hoạ lên một màu thương, ghét, thuận, nghịch, dẫu muốn có tính khách quan trong cái nhìn sự vật chung quanh, cũng phải có một sự đấu tranh mãnh liệt về đúng, sai, dẫu muốn quy hướng về Chư Phật cũng không ngoài phiền não dẫy đầy của kẻ phàm phu mang tâm thương, ghét đó. Thân Loan gọi là “phàm phu” với những ai sống cho đến cuối đời vẫn không rời phiền não, đến chết phiền não khó mà lìa khỏi tâm.

Trong tác phẩm Nhứt Niệm Đa Niệm Văn Ýcó nói: “Phàm phu là những kẻ bị vô minh phiền não phủ vây, đắm chìm trong dục vọng, giận dữ, phẫn uất, tật đố, vọng tưởng v.v…, cho đến lúc lâm chung, không có được một thiện niệm, mất hút, trôi mãi đến con sông, mà hai bên bờ là nước với lửa”[56].

Trong cuộc sống hữu hạn nầy, chúng ta được xem như “bị trói chặt”vì bị nhận chìm trong biển ái dục; bị đốt cháy trong lửa tham giận, bị lún sâu vào trong tình thế trói buộc ấy. Nên đã than rằng: “hàng trăm vạn lần mọi người hãy mau ra khỏi sự chìm đắm ấy; thật là khổ tâm”, để nghiêm khắc nhắc nhở những kẻ phàm phu như chúng ta biết mà cảnh tỉnh.

I.1.17.2Niệm Phật là Ngôn Ngữ của Bổn Nguyện

Thật sự, tấm thân của chúng ta chẳng có gì cả, nhưng đằng sau cuộc sống, được mộng tưởng tô vẽ liên tục, mà để đoạn trừ mộng tưởng ấy, Thân Loan than lên những lời thống thiết song có ai đoái hoài đến đâu. Những lời giáo huấn của Như Lai được đem ra để làm sáng tỏ, để đánh thức mê vọng, để khuyên hãy mau dứt bỏ những mộng tưởng ngọt ngào ấy, phải rõ biết những phiền não dẫy đầy của kẻ phàm phu và phải nhận thức rằng con người đang sống trong nhà lửa, đang bị lửa phiền não đốt cháy từng ngày trong cuộc sống.

Đức Phật A Di Đà lập thệ nguyện chỉ cho chúng ta những gì là chân thật, mà thệ nguyện ấy chính là câu Phật hiệu A Di Đà, rằng ai hướng về bổn nguyện, niệm danh hiệu ấy sẽ mau ra khỏi nhà lửa, sẽ được khai mở những phiền não trói chặt nơi tâm.

Với chúng ta, chắc chắn rằng vọng niệm không khởi lên khi niệm Phật, dù rằng chỉ niệm bằng miệng qua sự trì danh hiệu bổn nguyện ấy. Thân Loan nói rằng: “Ít ra hành động ấy phát xuất từ lời nguyện đại bi”[57].Từng tiếng một, từng tiếng một sẽ lưu xuất tâm nguyện như một pháp hành qua tâm đại bi chân thật. Niệm Phật đánh thức sự chân thật tuyệt đối và mời gọi mọi người đến với thế giới chân thật bằng ngôn ngữ bổn nguyện, Thân Loan gọi đây là “bổn nguyện gọi mời như là một sắc lệnh”[58].

I.1.17.3Đầy Đủ Cả Sanh Lẫn Tử

Ý nghĩa của sự sống chính là “cách sống”cho nên “Đức Như Lai xem chúng sanh như là con một và luôn lân mẫn nhớ nghĩ đến con”[59]Ai nghe và tin chắc rằng chúng ta là những người Phật tử mà Như Lai thường quan tâm đến. Một khi đã biết rõ mình là con của Đức Như Lai thì cũng sẽ tin lời nguyện thứ 18 của Như Lai rằng: “Nếu chí tâm tin tưởng và muốn sanh về nước Ta thì Ta sẽ cứu độ”.Không ai không nghĩ đến sự chết, cho nên Phật cho biết chết chính là tiếp nhận của sự sống lâu dài vì sau khi chết vãng sanh về Tịnh Độ.

Dù rằng không được gặp Đức Như Lai trong cuộc sống tạm bợ này; nhưng chúng ta cảm nhận được thệ nguyện của Ngài như những lời dạy chơn thật đầy Trí Tuệ và lòng Từ Bi, mà thệ nguyện đó chính là sự hướng dẫn cho con người vào đời, làm tươi đẹp hơn. Những người không biết được phong cách sống trong cuộc sống đầy lo sợ này, Tịnh Độ chính là một phương pháp của lẽ sống ấy, bởi vì khi quyết định vãng sanh rồi, cuộc sống của con người trở nên ý nghĩa hơn và an lạc hơn. Qua bổn nguyện niệm Phật, những việc hư dối của kiếp nhân sinh sẽ trở nên chân thật, phong phú và thực tiễn hơn, sẽ thay đổi cuộc sống dối trá. Thân Loan nói rằng: “Chỉ một lòng chí tâm niệm Phật.”

I.2Lời Dạy Về “Tam Thiếp Hòa Tán”

I.2.1An Dưỡng Tịnh Độ

Sự trang nghiêm của cõi An Dưỡng Tịnh Độ chỉ có Phật với Phật mới rõ biết mà thôi.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật)

Với bổn nguyện đại từ đại bi và trí tuệ, Đức Phật A Di Đà hoàn thành thế giới Tịnh Độ bao trùm cả vạn vật không giới hạn ở hư không nào, một thế giới tuyệt đối không giới hạn và vượt ngoài tất cả những sự hạn định. Chỉ có Phật với Phật mới thật rõ biết được mà thôi. (Cao Tăng Hòa Tán – Thánh Điển – trang 580).

Giải thích:

I.2.1.1Thế Nào Là Tịnh Độ?

Thân Loan xác nhận rằng Tịnh Độ là một thế giới chân thật, mà cảnh ấy được diễn tả trong một đoạn của Hòa Tán này. Khi được hỏi: “Tịnh Độ có thật không?”, Thân Loan trả lời rằng: “Thật có Tịnh Độ chứ”.

Với Thân Loan, Tịnh Độ là quốc độ của Phật A Di Đà, một thế giới hoàn toàn lìa sự hư vọng, một nơi chân thật. Trong khi đó, với chúng ta nếu là “có”, chính mình phải tiếp xúc được hoặc tư duy về thế giới hiện thực ấy. Thật sự, ngay cả trong thế giới nầy, từng hạt bụi cũng đang bị băng hoại, song chúng ta đem tư dục vẽ ghét, thương lên thế giới, mà chẳng hề rõ biết về ý nghĩa. Nếu cõi mình đang sống mà chẳng rõ, thì làm sao biết được thế giới của Thân Loan. Song sống trong đời nầy không phải chỉ có mỗi một mình Thân Loan mà từ nguyên thỉ Phật Giáo đã có. Tachibanano Oiratsume cũng cho biết rằng[60]: “Thế gian toàn là hư ngụy; chỉ có Phật mới là chân thật”. Đó là lý do tại sao Thân Loan cung kính Thánh Đức Thái Tử.

Tư duy về Tịnh Độ của Thân Loan dựa vào tác phẩm “Tịnh Độ Luận” của Thế Thân, được Đàm Loan[61]chú thích thành “luận chú”và cho rằng: “Vì ngã dục, thương ghét vô trí và phiền não tác động, chúng ta, kẻ phàm phu biến thế giới này trở thành uế độ. Ngược lại, Bồ Tát xem tất cả đều không, sống đúng ý nghĩa của sự sống, không phân biệt và nguyện tịnh hóa phiền não, xây dựng cảnh giới Niết Bàn thật sự như thế giới an lạc. Đấy chính là thế giới thanh tịnh chân thật (Tịnh Độ)”.

I.2.1.2Tịnh Độ Chính là Suối Nguồn của Trí Tuệ

Tác phẩm “Tịnh Độ Luận”,Thân Loan dựa theo “Kinh Vô Lượng Thọ”trình bày sự trang nghiêm chơn thật thanh tịnh[62]của thế giới an lạc và phân loại có 17 quốc độ và tướng công đức, có 8 loại Phật với tướng công đức và có 4 loại Bồ Tát với tướngcông đức. Tổng cộng ca tụng tán thán 3 loại trang nghiêm và 29 loại khác. Trước tiên, giải thích một cách xác quyết về cảnh giới Tịnh Độ; cảnh giới mà chúng sanh ở trên đó đã vượt qua tất cả sự hư vọng phân biệt, chứng thanh tịnh vô phân biệt trí; cảnh giới được xây dựng bởi trí huệ không biên giới bao la bao trùm cả vạn vật. Tiếp theo, trí huệ phát sinh ra sự chân thật cho nên phải biết sống như thế nào để có được chân thật trong khi cuộc sống này là hư ngụy, giả hợp. Như thế Thế Thân xác quyết rằng: “Phải cảnh tỉnh và liễu tri thế nào là cách sống chơn thật, bao lâu con người tự chuyển hoán cách sống ấy bằng trí tuệ, bấy lâu đó là suối nguồn của hành động và chính đó là cái nhân của Tịnh Độ vậy.

I.2.1.3Không Vì Niềm Vui Mà Nguyện Vãng Sanh

Tịnh Độ không phải là thế giới của cảm giác phấn khởi vui tươi mà là thế giới pháp lạc bởi vì vui vẻ được nghe âm thanh nói Pháp chơn thật, thực tiễn. Tịnh độ không phải là thế giới hư cấu, ảo ảnh được cấu tạo bằng dục vọng của thế giới thế tục mà là cội nguồn của Phật đạo, mà chính tâm nguyện chân thật cầu vãng sanh và ước muốn sống tại đó làm cho ta tỉnh thức. Ngài Đàm Loan nói cách dứt khoát rằng: “Ai chỉ muốn hưởng niềm vui nơi Cực Lạc, không thể nguyện sanh về đó.”

Tự thân muốn có niềm vui mà nguyện sanh về Tịnh Độ thì Tịnh Độ là gì làm sao biết được. Phải chăng đó chỉ là đối tượng của ngũ dục và tự ngã đã hoạ ra thế giới ở cõi nào đó như thế[63]. Thế giới ấy không thể gọi là Tịnh Độ được. Tịnh Độ chính là thế giới công đức chân thật, một khi được nghe đến và ai nguyện sanh về Tịnh Độ một cách chân thật chắc hẳn Bồ Đề Tâm[64]được phát khởi.

Thân Loan, người kế thừa sự giáo huấn của Đàm Loan cho rằng “Liễu tri Tịnh Độ chân thật, khi được gọi về”“Liễu tri sự hư ngụy của tự thânđắn đo Bổn Nguyện nơi tự thân để hướng về Như Lai”.Với chúng ta, niềm tin tiếp nhận niềm vui với tâm đại bồ đề. Tự lợi và lợi tha phải thực hiện một cách viên mãn. Nhờ tín tâm, có niềm vui và sẽ thành Phật. Đó cũng chính là nguyện tâm trở thành Phật,[65]tâm ấy nguyện là cứu độ tất cả chúng sanh[66]và cũng là lưu giữ phước đức vậy.

I.2.2Là Cõi (Báo Độ) Nguyện Lực Thành Tựu

Cõi Báo Độ (Tịnh Độ) do nguyện lực thành tựu, không phải do tự lực của tâm mà thành.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật)

Bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà là hoàn thành cõi Tịnh Độ (Báo Độ) chơn thật để chúng sanh có thể vãng sanh. Dù niềm tin và tinh tấn qua tự mình có tích chứa công đức đến bao nhiêu đi nữa cũng không thể đến được thế giới nầy. Dù là bậc Thánh Tiểu Thừa hay Đại thừa muốn cầu vãng sanh Tịnh Độ cũng phải xả bỏ tâm chấp trước vào tự lực hành thiện của mình. Vì lẽ, chỉ cần cầu bổn nguyện tha lực của Đức A Di Đà là đủ rồi, không cần đến tự lực của mình nữa. (Cao Tăng Hòa Tán - Thánh Điển – trang 591).

Giải thích:

I.2.2.1Báo Thân Phật và Báo Độ

Có thể hiểu rằng Đại Thừa Phật Giáo trình bày Như Lai và Tịnh Độ qua sự phân tích những sai biệt khá rõ về Pháp Thân (Pháp Tánh Độ),Báo Thân (Báo Độ)và Ứng Thân (Ứng Độ). Pháp Thân là lãnh vực Vô Phân Biệt Trí của chư Phật chỉ cho Vô Tướng Chân Như[67], không có hạn lượng. Báo Thân là kết quả phước báo Quang Minh Vô Lượng và Thọ Mạng Vô Lượng, mà những vị Bồ Tát tu hành trải qua nhiều đời nhiều kiếp đạt đến Chân Như, thực hiện vô lượng công đức, tiếp tục cứu độ chúng sanh, cuối cùng thành Phật. Điển hình là Đức Phật A Di Đà và cõi Tịnh độ, Ngài dùng vô lượng công đức trang nghiêm cõi Tịnh Độ. Ứng Thân là hiện làm chúng sanh nơi uế độ, biểu hiện qua thân thể giới hạn, điển hình là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni[68].

Thiện Đạo[69]y cứ vào Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọđể giảng rộng thêm cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà do bổn nguyện mà được thành lập và cõi Báo Độ ấy là do nguyện lực thành tựu. Nguyên nhơn thành tựu thế giới này xuất phát từ bổn nguyện của Bồ Tát Pháp Tạng.[70]và kết quả được hình thành một thế giới của Phật Đà. Vì lẽ đó cho nên gọi Phật A Di Đà là “Báo Thân Phật” và cõi “An Lạc Phật Độ” là “Báo Độ”.

Huyền Nghĩa của Quán Kinh Sớ cho rằng: “Khi thành Phật, ta được Báo Thân. Nếu trong mười phương có chúng sanh nào xưng niệm danh hiệu Ta cho đến mười niệm mà không vãng sanh, Ta quyết không ở ngôi chánh giác và thệ không thành Phật.

Ở đây ta thấy chỉ xưng danh hiệu mười niệm thôi hẳn được vãng sanh. Nếu không vãng sanh, Phật thề không giữ ngôi chánh giác. Đây là lời nguyện thứ 18 của Đức Phật A Di Đà. Nhờ phước báo (Hậu Báo)mà Ngài thành Phật với Báo Thân cho nên cõi Tịnh Độ cũng còn gọi là Báo Độ.

I.2.2.2Về Báo Độ của Phàm Phu

Khi Đức Phật A Di Đà thành chánh giác, Ngài hoàn thành bổn nguyện tiếp độ chúng sanh, cho nên được vãng sanh về Báo Độ ấy là việc đương nhiên. Đây chính là pháp môn niệm Phật vãng sanh. Được tiếp dẫn về Báo Độ, qua pháp niệm Phật, chúng sanh ấy sẽ nhập Niết Bàn ở cõi Tịnh Độ. Điều nầy cho ta rõ thêm rằng kẻ phàm phu ngu muội dù phiền não dẫy đầy, song nếu phát nguyện niệm Phật sẽ vãng sanh trực tiếp về Báo Độ, thành tựu đạo lý vậy.

Đứng về quan niệm đại chúng, Phật Giáo chấp nhận đạo lý “Tự nghiệp tự đắc quả”[71]. Thế giới Báo Thân Phật là cảnh giới Báo Độ, lìa xa sự phiền não. Song chơn như một khi được thành tựu, trí tuệ tự nhiên sáng tỏ. Cảnh giới của những vị Đại Bồ Tát vẫn có thể cảm nhận được khi phiền não đã được dứt hẳn. Những kẻ phàm phu phiền não đầy dẫy như chúng ta không phải không thể vãng sanh, nếu thật sự tu hành cũng về đó được. Đây chính là một lãnh vực giác ngộ cao cả.

Vì sự thành tựu thệ nguyện của Phật, Thiện Đạo cho rằng: “Kẻ niệm Phật chắc chắn vãng sanh về nước Ngài”. Nhờ nguyện lực ấy, ai có tín tâm về bổn nguyện ấy và niệm Phật, dẫu tội lỗi nhiều đến bao nhiêu đi nữa cũng được tịnh hoá những phiền não, được vãng sanh về Báo Độ và từ đó được nhập vào chơn như giác ngộ. Đây chính là cách nói của Thiện Đạo về phàm phu Nhập Báo[72].

I.2.2.3Cảnh Giới Của Chư Phật

Xiển dương thuyết Cực Lạc Báo Độ này, Thân Loan cho rằng: Các Báo Độ có sự giống nhau, song Báo Độ của các vị Phật khác nhau. Như Bồ Tát từ sơ địa trở lên chỉ cảm nhận được cảnh giới Báo Độ của Bồ Tát. Ngược lại Chơn Thật Báo Độ của Đức Phật A Di Đà là cảnh giới giác ngộ của Chư Phật. Như Bồ Tát Di Lặc ở phẩm vị tối cao song với chính năng lực trí tuệ của Ngài vẫn không thể tạo được thế giới Vô Thượng Niết Bàn, thế giới hoàn toàn vắng lặng không có thương ghét não phiền, đó mới là cảnh giới tối cao của sự giác ngộ. Chúng ta những kẻ phàm phu, ngay cả Đại Bồ Tát Di Lặc, phải xả bỏ tự lực, quy y bổn nguyện lực mới có thể vãng sanh được.

I.2.3Đức Phật A Di Đà

Đức Phật A Di Đà thành Phật đến nay đã 10 kiếp

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật)

Cho đến nay đã hơn 10 kiếp kể từ khi Bồ Tát Pháp Tạng phát nguyện thiết lập thế giới Tịnh Độ, cứu độ tất cả chúng sanh và thành Phật hiệu là A Di Đà. Ngài dùng Pháp thân làm phương tiện để hiển lộ tâm Chơn Như và chiếu Trí Tuệ sáng khắp 10 phương vô số thế giới, cứu kẻ mê lầm trong vô trí và ngũ dục. (Tịnh Độ Hòa Tán –Thánh Điển - trang 557).

Giải thích:

I.2.3.1Đức của Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang

Theo “Kinh Đại Vô Lượng Thọ”, trải qua nhiều kiếp tu hành Bồ Tát Pháp Tạng mới hoàn thành thệ nguyện cứu độ chúng sanh và thành Phật, hiệu là A Di Đà. Hiện nay, Đức Phật A Di Đà ở cõi An Dưỡng Tịnh Độ[73]và đang dùng năng lực của bổn nguyện Đại Bi, Trí tuệ cứu độ tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới. Chữ “A Di Đà”trong “A Di Đà Phật”dịch âm từ chữ Amitabha, Amitayus. Chữ “Amitabha”nghĩa là diệu đức của “Ánh Sáng”[74]“Amithayus”là diệu đức của “Thọ Mạng”[75]. Diệu đức của Vô Lượng Thọ và Vô Lượng Quang được gọi là Phật. Theo Kinh A Di Đà,do hai ý nghĩa này mà dịch tổng hợp lại theo cách gọi âm là A Di Đà Phật.

I.2.3.2Ánh Sáng Của Như Lai

Nguyện thứ 12 trong 48 lời nguyện của Bồ Tát Pháp Tạng sẽ hoàn thành diệu đức Quang Minh Vô Lượng. Nguyện thứ 13 là hoàn thành diệu đức của Thọ Mạng Vô Lượng. Quang Minh của Phật chính là tướng Trí Tuệ, biểu trưng về Đức Trí. Ánh quang minh ấy phá trừ màn hôn ám (vô minh, vô trí) của thế giới tự ngã và hiển bày Đức Trí, mà Như Lai giác ngộ thực chứng (chơn như, thật tướng). Trí Tuệ ấy được Như Lai truyền đạt đến cho mọi người qua huấn từ của Ngài; đến với chúng ta qua kinh điển còn để lại. Qua huấn từ của Như Lai, chúng ta tự rõ biết và vượt qua những vọng tưởng về tự ngã là trung tâm điểm và biết rõ con đường trở về Thế Giới Chơn Như. Khi đã vượt lên trên sanh tử liền siêu thoát vào lãnh vực giác ngộ giữa ta và người khác, chứng ngộ nhứt như bình đẳng (Tịnh Độ) ra khỏi ghét, thương, buồn, giận.

Đức Như Lai dùng trí tuệ và ánh quang minh ấy chiếu khắp mọi nơi song không ai có thể dùng mắt thấy ánh quang minh, mà chỉ khi tiếp nhận sự giáo huấn, ánh sáng kia mới tiếp xúc với mình. Điều nầy không giải thích được. Nhờ ánh sáng trí tuệ chiếu soi thế giới chân thật cho kẻ vô trí, người sống với niềm tin và tâm từ bi.Trí tuệ ấy có thể hiểu là ánh quang minh, được biểu trưng qua những hoạt động của tâm từ, cũng gọi là Từ Quang[76].

I.2.3.3Gần Gũi Với Đời Sống

Hơn nữa, Đức Phật A Di Đà chính là đức Vô Lượng Thọ và của Vô Lượng Quang Như Lai, hoàn toàn buông bỏ tự ý niệm mình và người[77], hoàn toàn giác ngộ “tự tha nhứt như”[78]. Trong đời sống thường ngày, mọi người đều cho rằng: “Đây là cuộc sống của tôi”. thế nhưng cuộc sống ấy hoàn toàn không có ý nghĩa.

Thật ra, sự sống cũng như cách sống ấy vốn cùng một thể. Tự kỷ mà mọi người đều có giúp họ tỏ ngộ điều Như Lai tỏ ngộ. Vì “đời sống của Như Lai”cũng là khuôn khổ của “đời sống của tất cả chúng sanh”. Nói cách khác, được xưng tán là Vô Lượng Thọ vì Như Lai đã vượt qua ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Với lòng đại bi bao la vô ngại, Đức Phật A Di Đà liên tục cứu độ chúng sanh, không dừng nghỉ một chút thời gian nào, không bỏ bất cứ chúng sanh nào, dù nhỏ như hại bụi. Thế nên có một nghĩa khác, A Di Đà chính là “đời sống gần gũi”với mọi người vậy.

Như vậy, điều trước tiên đối với chúng ta, những người cần cứu độ đó là phải niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật để được Như Lai dùng phương tiện Pháp Thân mà tiếp dẫn. Dù trước cho rằng A Di Đà Phật là Báo Thân Phật, nhưng theo Đại Sư Đàm Loan là phương tiện Pháp thân của Đức Phật A Di Đà[79].

I.2.4Phật A Di Đà Thành Phật từ lâu xa

Từ xa xưa đã thành Phật hiệu A Di Đà. Hiện tại là Thích Ca Mâu Ni Phật, đang ứng hiện tại thành Già Gia[80].

(Lược bớt phần phải thích theo lối Hán- Nhật).

Đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ thành Phật hiệu A Di Đà với một “đời sống gần gũi” từ lâu. Song vì cứu độ tất cả chúng sanh, rõ biết bổn nguyện của mình; nên ứng hiện vào nhơn gian với đời sống hữu hạn của một Đức Phật, thị hiện thành đạo tại thành Gaya hiệu là Thích Ca. (Chư Kinh Hòa Tán – Thánh Điển – trang 572).

Giải thích:

I.2.4.1Thành Phật Từ Lâu

Theo Thân Loan, vì mang bổn nguyện khai mở con đường cứu khổ cho chúng sanh, Đức Thích Tôn thị hiện vào đời ô trược và sống với những người phàm phu đầy phiền não nầy. Như tinh thần phẩm Như Lai Thọ Lượng của Kinh Pháp Hoa, cho rằng từ xa xưa Ngài đã thành Phật, bây giờ thị hiện thành đạo tại Bồ Đề Đạo tràng, 80 tuổi nhập diệt, Đức Phật vốn là A Di Đà đã thành Phật xa xưa, Ngài ứng hiện vào thế gian nầy với hình ảnh là Ứng Thân Phật và sử dụng ngôn ngữ thế gian để trình bày bản lai như thị. Hơn nữa, tuy đức Thế Tôn ứng hiện thành Phật[81]trong đời nhưng bằng nhiều hình thức, không ai có thể rõ biết bản lai của Đức Thế Tôn[82]. Bản lai ấy được gọi là “Cửu Viễn Thật Thành”[83], nghĩa là đã, đang và sẽ thành đạo trong quá khứ xa xưa mãi đến tận vị lai, để tiếp tục cứu độ chúng sanh, không có nhập diệt. Đó chính là Vô Lượng Quang[84]và Vô Lượng Thọ[85].

I.2.4.2Di Đà của Xa Xưa

Thân Loan nói theo Kinh Pháp Hoa, Bổn Môn của Đức Thích Ca chính là một vị Phật đã thành từ lâu xa. Ngài có Quang Minh Vô Lượng và Thọ Mạng Vô Lượng. Ngài chính là Phật A Di Đà như ta đã rõ.

Theo “Đại Kinh Hòa Tán”:

A Di Đà thành Phật,

Đến nay hơn 10 kiếp,

Từ kiếp xa xưa ấy,

Ngài là vị Phật rồi[86].

Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọcho rằng Đức Phật A Di Đà thành Phật từ xa xưa hơn mười kiếp rồi, chúng ta được biết vị Phật nầy không ai khác đức Phật đã thành đạo từ xa xưa trước. Đồng thời, thệ nguyện luôn luôn cứu độ tất cả chúng sanh từ quá khứ đến tận cùng vị lai, của đức Phật A Di Đà rất lâu dài, không giới hạn được xem như là pháp môn vĩnh viễn vậy.

Ngoài ra Bổn Môn của Đức Phật Thích Ca là Đức Phật A Di Đà thành Phật từ lâu. Tích môn của Đức Thích Ca là Ứng Thân Phật. Về Bổn Môn, Phật là Đức Phật A Di Đà thành Phật từ lâu. Về Tích Môn, Đức Thích Ca ứng hiện trong cõi đời có tính cách hữu hạn vào một thời gian nhất định gọi là thị hiện ở thế giới Ta Bà. Mặc khác, Đức Thích Ca cũng vượt khỏi thời gian và không gian khi Ngài thể nhập vào lãnh vực giác ngộ tuyệt đối không giới hạn, mà Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọchỉ cho đức Phật A Di Đà. Lại nữa, Đức Thích Tôn cũng thuyết những bài pháp mà Đức Phật A Di Đà đã từng thuyết rồi. Bổn Hoài Xuất Thế của Đức Thích Tôn cũng chính là bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà như Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọcho biết. Phải chăng điều nầy khẳng định Bổn Ý của Đức Như Lai không ngoài việc truyền trao giáo pháp chân thật.

I.2.5Nhiếp Thủ Bất Xả

Giữ lấy không bỏ, ấy là danh hiệu Đức A Di Đà

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán – Nhật)

Nếu chúng sanh nào ở trong mười phương vi trần số thế giới niệm Phật trông thấy ánh quang minh của Đại Trí Đại Bi, sẽ được Phật nhiếp thọ, quyết không bỏ. Đó là việc chính yếu của pháp niệm danh hiệu của Phật A Di Đà. (Tịnh Độ Hòa Tán - Thánh Điển – trang 571).

Giải thích:

I.2.5.1Lòng Thương Không Mệt Mõi

“Nhiếp Thủ Bất Xả”theo Quán Kinhnghĩa là “Quán Chơn Thân thấy rõ trong mỗi ánh sáng chiếu soi khắp mười phương thế giới, được Phật nhiếp thủ không xả bất cứ một chúng sanh niệm Phật nào”.Toàn thân của Đức Phật A Di Đà phát ra Vô Lượng Quang Minh và chiếu đến mười phương thế giới. Ai nào niệm danh hiệu Ngài, được ánh sáng ấy thâu nhiếp mãi cho đến khi người ấy lâm chung được tiếp dẫn về cõi Tịnh Độ một cách chắc chắn không bị bỏ rơi. Điều nầy được xem như những lời vàng ngọc mang lại niềm hoan hỷ và cảm động cho nhiều tín hữu Tịnh Độ Tông. Các Tổ sư tán thán rất cảm động là “Niệm Phật chúng sanh, nhiếp thủ bất xả”.Trong tác phẩm “Vãng Sanh Yếu Tập”Đại Sư Nguyên Tín nghe lời dạy “Nhiếp Thủ Bất Xả”vui mừng lặp lại rằng:

“Ngay như chúng ta dù thấy, nghe bị phiền não chướng ngăn không thấy được Phật, nhưng với lòng từ bi không mệt mõi thường chiếu soi, cũng được nhiếp thủ” [87]. Thân Loan đã trích dẫn nguyên văn như vậy vào “Chánh Tín Kệ”“Cao Tăng Hòa Tán”tán thán bằng thi vịnh rất là hay về việc “chúng sanh niệm Phật nhiếp thủ không xả”. Nhờ niệm Phật, thân tâm được tịnh hóa và nhờ đó được ánh quang minh bảo hộ và che chở. Điều nầy không sai chút nào cả.

Cho đến khi nào tâm phiền não giận ghét sầu bi không dừng lại thì khi ấy không thể diện kiến ánh quang minh của Đức Phật A Di Đà. Song một khi được ánh sáng của Đức Phật A Di Đà phóng ra nhiếp thủ lấy, thì chỉ trong nháy mắt được giáp mặt với Phật A Di Đà. Không có gì hạnh phúc hơn được như thế! Đại sư Nguyên Tín cho rằng dù mình đã không thấy được mình, không rõ biết được mình, song vẫn diện kiến được Như Lai và rõ biết Như Lai. Vì thế, đối với chúng ta bây giờ không thấy được Như Lai, có than cho lắm cũng không thể rõ biết được; nhưng không nên lo buồn vì một khi thấy (gặp) được, sẽ có niềm vui và sẽ rõ biết được và phải giữ gìn cẩn thận.

I.2.5.2Ý Nghĩa của A Di Đà

Trong phần cuối của “Vãng Sanh Lễ Tán”,Thiện Đạo giảng kinh “A Di Đà”và bắt đầu bằng danh nghĩa của A Di Đà là Vô Lượng Quang (Amitabha), Vô Lượng Thọ (Amitayus). Nhờ thành tựu công đức nên Phật ấy được gọi là A Di Đà. Theo “Quán Kinh”,điều nầy đã giảng rõ trong phần công đức của ánh quang minh nhiếp thủ bất xả rồi.

Năng lực của ánh sáng ấy vô lượng, chiếu sáng đến mười phương quốc độ không bị chướng ngại, nhiếp thủ tất cả chúng sanh niệm Phật không bỏ sót cho nên gọi là A Di Đà. Năng lực thọ mạng của Phật và nhơn dân cũng nhiều vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp cho nên có tên là A Di Đà[88].

Trong “A Di Đà Kinh Hòa Tán”Thân Loan cho rằng: “Nếu được nhiếp thủ, A Di Đà sẽ cứu độ”.Thế nhưng ở “Lễ Tán” có sự lược bớt về công đức của Thọ Mạng Vô Lượng. Chỉ có phần công đức của Quang Minh Nhiếp Thủ phải nêu ra để chú trọng. Theo Thân Loan, “nhiếp thủ không xả”nghĩa là việc khai mở ánh quang minh không đơn thuần là hoàn thành công đức Vô Lượng của Đức Phật A Di Đà, mà chính ở trong Phật A Di Đà Phật có đầy đủ công đức rồi.

Phật A Di Đà nhiếp thủ không xả bất cứ chúng sanh niệm Phật bởi vì bổn nguyện của Ngài là thành tựu pháp niệm Phật vãng sanh. Bổn nguyện ấy cho thấy Đức Phật A Di Đà hướng dẫn chúng sanh niệm Phật và hứa sẽ cứu độ nhiếp thủ. Có thể cho rằng ngoài pháp niệm Phật, không còn gì nữa.

I.2.5.3Không Xả Bỏ Vĩnh Viễn của Như Lai

Căn cứ vào “Hòa Tán”thuộc dạng bản Quốc Bảo[89]của phái Takada, thuộc chùa Tổ Chuyên Tu, chữ “Nhiếp Thủ”được dạy như sau:

“Tỉnh thức, cố gắng, nắm người bị rơi, kéo người bị trôi, kéo lên, tiếp độ và làm cho sáng tỏ”[90].

Đó chính là ý nghĩa của việc “nhiếp thủ”.Trước tiên chú thích được thêm vào là “nắm người bị rơi và vớt người không bỏ”. Ai có tín tâm kiên cố sẽ được nhiếp thủ.

Nếu chết trong trình trạng xấu nhất hoặc bị căn bịnh hiểm nghèo đau đớn làm cho việc niệm Phật xao lãng, hoặc bị hổn loạn mê mang, không làm gì được, vẫn được đức Như Lai tiếp dẫn về Tịnh Độ, không bị bỏ rơi.

Niềm tin thông thường của những người tu theo pháp môn Tịnh Độ là nếu dừng nghỉ việc niệm Phật sẽ không được Như Lai nhiếp thủ. Song theo Thân Loan, dù người niệm Phật, hay kẻ ác tri thức[91]hay người bịnh tật không thể nhớ Phật, hay kẻ phạm tội, hay người chẳng có tín tâm vẫn được “Chụp bắt người rơi rớt và quyết không xả bỏ”.Như người bịnh có thể quên chúng ta; nhưng chúng ta không quên người bịnh. Dầu cho chúng sanh bị ác duyên không có tín tâm và tự lực không tạo được niềm tin, song Như Lai không bỏ vẫn cho họ niềm tin chơn thật. Đây chính là sự lợi ích của việc nhiếp thủ bất xả. Khi được vãng sanh Tịnh Độ, sẽ được bất thối chuyển và lần lượt vào ngôi “Chánh Định Tụ”.

I.2.5.4Chạy Theo Nắm Lấy Như Lai

Lại nữa: “Nhiếp có nghĩa là đuổi theo người chạy, để nắm giữ lại”, theo Thân Loan, đây cũng là một cách chú thích biểu thị quan niệm cứu độ đặc thù của mọi tôn giáo. Nói chung là ai dừng việc ác, tích chứa việc lành, người ấy hướng về và gần gũi Như Lai, được Như Lai đưa tay ra để cứu độ. Đó cũng là một cách suy nghĩ về sự “nhiếp thủ”.

Song phá bỏ sự suy nghĩ thông thường ấy, Thân Loan cho rằng với bổn nguyện của Như Lai, giữa người hiền nào có hướng đến Như Lai, dựa vào Như Lai, chạy phía sau lưng Đức Như Lai đi nữa với kẻ đang sống đời sống phàm phu đầy phiền não, bị rơi xuống địa ngục, thì kẻ ác ở trong trạng thái nguy hiểm phải được cứu độ gấp rút và cần cấp hơn, vì nương vào Như Lai và thiết tha mong được cứu độ qua pháp niệm Phật, hẳn nhiên chúng sanh ấy được cứu độ. Đây chính là bổn nguyện đại bi của Đức Phật A Di Đà được trình bày qua lời “nhiếp thủ bất xả”.

Như vậy không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà, mà với chúng ta, sẽ được Như Lai cứu độ. Trong “Ngự Văn Chương”[92]Liên Như cho rằng “chỉ cần niệm lên ba chữ A Di Đà không ngừng nghỉ, sẽ được cứu độ”.

I.2.6Đức Phật Thích Ca Và Đức Phật A Di Đà

Đức Phật Thích Ca là Cha và Đức Phật A Di Đà trở thành người Mẹ.

(Lược bớt phần bình chú theo lối Hán - Nhật).

Lòng từ bi của đức Thích Ca Như Lai và đức A Di Đà Như Lai như phụ mẫu tình thâm, Chư Phật dùng nhiều phương pháp khéo léo để dưỡng nuôi chúng ta nên người. Hãy phát khởi niềm tin đến ân đức cao dày ấy. (Cao Tăng Hòa Tán - Thánh Điển – trang 591).

Giải thích:

I.2.6.1Cha và Mẹ

Một phần của Hòa Tán “Thích Ca – A Di Đà” ghi chú rằng: “Đức Phật Thích Ca là Cha, Đức Phật A Di Đà là Mẹ”.Cha nghĩa là chỉ bày dạy dỗ con đường chân chánh cho các con. Mẹ nghĩa là lo lắng dưỡng nuôi, bảo bọc các con nên người. Đức Thích Ca thị hiện trong thế giới Ta Bà giáo hóa kẻ tà ác qua bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà. Nếu với người tu niệm Phật, Đức Thích Ca như một người cha nghiêm khắc thì Đức Phật A Di Đà như người mẹ hiền, tiếp dẫn cả người hiền lẫn kẻ ngu hoàn toàn không phân biệt. Tâm Đại Bi của Ngài phổ độ tất cả chúng sanh, ánh Quang Minh Trí Tuệ của Ngài thâu nhiếp và dưỡng nuôi người niệm Phật, có lòng tin trong bổn nguyện cho đến trưởng thành.

Hòa Tán nầy vốn là “Bàn Chu Tán”của Thiện Đạo, trong đó cho rằng: “Lòng từ bi của Đức Thích Ca Như Lai như cha mẹ”.

Thật vậy nếu cho rằng trí tuệ và giới đức của Đức Thích Ca như người cha, lòng từ bi và đức hiếu sinh của đức A Di Đà như người mẹ không sai tí nào. Nói cách khác “Lòng từ của Phật Thích Ca, Phật A Di Đà chính là lòng thương của cha và mẹ”.Có phải Thân Loan là người đầu tiên gọi Đức Phật Thích Ca là Cha, Phật A Di Đà là Mẹ chăng? Nhìn lại xa hơn, Nguyên Tín và Thánh Giác cũng đã từng ví Đức Phật A Di Đà tượng trưng cho người mẹ. “Vãng Sanh Yếu Tập”cho rằng: “Phóng ánh quang minh đại bi nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật, từ nhãn của Đức Phật A Di Đà chẳng khác đôi mắt yêu thương nồng thắm của mẹ hiền, trìu mến chăm sóc con mình.”Đây là điểm tán thán nổi bật về “lòng thương bao la của người mẹ”. Thế thì Thân Loan chỉ là người kế thừa ví Đức Phật Thích Ca là cha và Đức Phật A Di Đà là mẹ.

I.2.6.2Sự Sai Khiến Và Mời Gọi

Sự sai khiến của Đức Giáo Chủ Thích Ca và sự mời gọi của Đức Giáo Chủ A Di Đà là những điều quan trọng, mà Thiện Đạo dẫn chứng trong “Quán Kinh Sớ”phần “Tán Thiện Nghĩa”[93]khi nói về “Con đường trắng ở hai bờ sông[94]giải thích về ba loại tâm rất đặc biệt. Kinh điển Tịnh Độ ở thế giới Ta Bà chỉ theo “con đường nầy (con đường trắng) để vãng sanh” là “bổn nguyện của người niệm Phật ” mà chính Đức Thích Ca chỉ bày (sai khiến) điều đó.

Phát nghĩa là “làm cho những gì ở trong ra ngoài”.Khiển nghĩa là “tạo hướng đến”.Những ai như chúng ta đang sống trong trạng thái tuyệt vọng ở thế giới Ta Bà nầy, phải mau thoát khỏi như lời dạy: “Các con hãy quyết định tìm đường giải thoát, nếu không khó mà thoát khỏi sự chết”.Lời khuyên răn nầy gọi là sự sai khiến, ví cho Đức Thích Ca chỉ dạy người niệm Phật mau bước trên con đường trắng.

Con sông có lửa ám chỉ cho sân hận. Con sông có nước là tham ái, dù chúng ta muốn vượt qua bờ bên kia của hai con sông ấy; nhưng phiền não vẫn trói chặt chân tay giữ lại, cho nên liên tục được kêu gọi với bổn nguyện niệm Phật bước lên con đường trắng ấy. một cách thiết tha: “Hãy nhứt tâm chánh niệm, chúng con sẽ đến. Ta hộ trì cho các con”mà chính Đức Phật A Di Đà hối thúc chúng ta.

Chữ chiêutrong “chiêu hoán”nghĩa là vẫy, cầm, nắm lấy và chữ hoánnghĩa là gọi, réo, kêu.

Thân Loan gọi là “kêu réo”theo cách thông thường. Chữ “gọi”hay kêu thuộc về động từ. Còn bảo rằng “tiếp tục gọi”thì động từ “gọi”nầy đã trở thành động từ thứ hai. Dù cuộc sống của chúng ta vô cùng ngắn ngủi, nhưng bản ngã lúc nào cũng là trung tâm khiến chúng ta bị đóng chặt trong cái thân đầy tưởng tượng nầy, luôn bị lửa phiền não và ái dục thiêu đốt. Tuy nhiên, đức Như Lai không quên chúng ta và luôn giúp chúng ta tỏ ngộ; nên kêu gọi, mời, kéo…,qua âm thanh của sự niệm Phật nầy.

I.2.6.3Lời Chỉ Giáo của Hai Đức Phật

Trong “Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ”Phật Thích Ca khuyên rằng: “Các con! hãy đi con đường nầy”và bổn nguyện của Phật A Di Đà thiết tha nhắn nhủ: “Các con! nên nhứt tâm niệm Phật, chúng con sẽ đến. Ta sẽ một lòng hộ trì cho các con”.

Niềm tin được biểu lộ như sự chấp nhận lời giáo huấn và khuyên lơn của Phật Thích Ca cũng như Phật A Di Đà. Trong “Tôn Hiệu Chơn Tượng Minh Văn”,Thân Loan cho rằng: “Quy mệnh Phật Thích Ca và Phật A Di Đà là điều quan trọng và thiết yếu, nên nương theo và hành trì”[95].

Như trước đã nói: “Đi về phía Tây, có Phật A Di Đà, đi về phía Đông có Phật Thích Ca, chính quý Ngài sẽ đưa chúng ta về Cực Lạc”.Đang sống ở thế giới nầy, chúng ta nên vâng theo và tin tưởng lời giáo huấn ấy như sắc mệnh của chư Phật Thích Ca và Phật A Di Đà, bởi vì Ngài Thân Loan đã minh chứng được điều ấy.

I.2.7Tha Lực Bất Tư Nghì

Khi nhập vào tha lực bất tư nghì thì, không cần suy nghĩ nữa.

(Lược bớt phần giải thích theo lối văn Hán-Nhật)

Những ai tiếp tục bước trên con đường Thánh, mong giác ngộ ngay trong thế giới nầy, nên tu một cách nghiêm mật, thực hành tất cả những thiện hạnh để trở thành Phật. Đó là điều căn bản tu hành. Tâm con người không thể vượt trên bổn nguyện tha lực của Như Lai. Nếu hành giả niệm Phật giao trọn niềm tin vào Đức Phật, sẽ không còn trở ngại và phức tạp gì nữa, vì khi niềm tin (tự lực) đã nương tựa vào Như Lai, sẽ chính thức được (tha lực bất tư nghì) đón nhận. (Chánh Tượng Mạt – Thánh Điển – trang 609).

Giải thích:

I.2.7.1Sự Lợi Tha của Như Lai

Nói chung, tha lực nghĩa là “lực của người khác”.Song theo Thân Loan, tha lực không chỉ là năng lực lợi tha của Như Lai, mà cao hơn nữa, chữ “tha”vừa là của Như Lai, vừa có thể là của ta, Thỉnh thoảng, Thân Loan định nghĩa niềm tin tha lực bằng nhiều ngôn ngữ biểu hiện như: “tín nhạo của tha lực”hoặc “tín tâm của lợi tha chân thật”. Điều nầy mang ý nghĩa quan trọng, cần phải biết.

Lúc đầu chữ “tha lực”chỉ có trong giáo lý Tịnh Độ của Phật A Di Đà, về sau từ nầy được Thân Loan dùng rất thường. Phần cuối của “luận chú”, có những pháp nghi nói về nhơn và quả vãng sanh, nhờ tha lựccủa Phật A Di Đà, mà chữ “tha lực” đó được hiểu là “tha lợi, lợi tha”.

Từ “tha lợi” và “lợi tha”khi đàm luận có hai ý khác nhau. Về công việc của Phật, có thể gọi là “tha lợi”. Còn việc làm của chúng sanh không thể nói là “tha lợi” được, vì nương Phật lực cho nên gọi là lợi tha[96].

Dù giống nhau về tính chất cứu độ của Như Lai; nhưng trường hợp cứu mình gọi là “tha lợi”còn với Phật, là “lợi tha”.Đối với Phật, chúng ta dùng từ “lợi tha” chỉ cho những việc làm của Như Lai. Thế nhưng, đối với mọi người, dẫu gọi là “tha lợi” hay “lợi tha”sao cũng là “việc làm lợi ích cho người khác”thôi. Vì ý nghĩa giống nhau, nên thật là kỳ diệu với cách phân chia và giải thích trong “Luận Chú”, ở đó Thân Loangiải thích về “thâm nghĩa của tha lợi và lợi tha”rất rõ ràng.

Cũng có thể suy nghĩ “tha lợi” nghĩa là làm lợi cho người khác, mà vì lợi ích chúng sanh, Đức Phật A Di Đà đã dành cho chúng ta. Ở đây, cũng có thể hiểu chung chung là đồng nghĩa với “tha lực”. Song trường hợp nầy nên hiểu là “lợi tha”“vì sự lợi lạc của kẻ khác”, mà Như Lai là chủ thể cứu độ, chúng sanh là khách thể được cứu độ. Hơn nữa, theo quan niệm siêu thế gian, vượt khỏi mọi sự phân biệt, “lợi tha”, là thuật từ chỉ cho hoạt động cứu độ của Như Lai thật bất khả tư nghì, bởi với chúng sanh như chúng ta, đức Như Lai chẳng gọi là vì “anh, các con”,mà cũng không phải vì “tôi”.

I.2.7.2Tha Lực Bất Tư Nghì

Theo Thân Loan, hoạt động cứu độ của Phật A Di Đà thuộc vô phân biệt trí, vượt lên khỏi quan niệm về tự, tha,đó là sự cứu độ “Tự Tha Nhất Như”. Ân Đức của Như Lai cũng thật bất khả tư nghì, rất thực tế phổ biến khắp mười phương. Còn tự thacó chăng, chính là sự phân biệt qua con người, nhứt định không đúng. Thân Loan cho đó là “tha lực bất tư nghì”và “Phật trí bất tư nghì”. Đây chính là sự biểu hiện của bổn nguyện lực hồi hướng vậy!

Cuộc sống của chúng ta đầy phiền não, chắc rằng sẽ không thể vãng sanh về Tịnh Độ được. Đức Như Lai phát nguyện tạo tha lực nhứt nhưđể cứu độ chúng sanh, cho nên để đạt được Phật đạo, chúng ta phải niệm danh hiệu theo bổn nguyện. “Tin Ta, hãy niệm danh hiệu của Ta”. Với những ai có niềm tin, theo bổn nguyện ấy, hình ảnh niệm Phật chính là thọ nhận bổn nguyện lực, như Thân Loan nói: “Những ai có tín, hạnh sâu xa, nhờ có túc duyên nhiều đời”. Niệm Phật chưa phải là hành, mà hành là sự biểu hiện của bổn nguyện lực như trong “Hành Văn Loại”[97]giải thích về tha lực rằng: “Tha lực ấy chính là bổn nguyện lực của Như Lai”. Như vậy, chủ thể niệm Phật không phải là kẻ phàm phu mà là bổn nguyện lực của Như Lai. Đây chính là minh chứng rõ ràng về lợi tha. Việc làm của mình cũng chính là việc làm của Như Lai, vượt ngoài lãnh vực tư duy của con người. Chỉ có một điều nên rõ, niềm tin mới là cái gốc. Ngoài ra, Thân Loan dạy về tự lực, pháp môn “tư nghì”còn giới hạn trong tư duy của con người.Song dạy về tha lực, lãnh vực của đại bi, trí tuệ của Như Lai, là vượt ra khỏi tư duy của con người, còn gọi là “tha lực bất tư nghì” hay là “Phật Trí bất tư nghì”.

Điều quan trọng phải hiểu rõ là tha lựckhông có nghĩa là chẳng làm gì cả mà phải siêng năng nghe pháp, chí thành niệm Phật, cung kính lễ bái, và luôn luôn quy ngưỡng rằng Như Lai vì ta mà cứu độ bất khả tư nghì. Niệm Phật không phải để củng cố tự lực, mà niệm Phật trói chặt tự lực của mình lại. Niệm Phật cũng không phải là tích chứa công đức, mà niệm Phật chính là hoan hỷ đón nhận tha lực nơi chính thân mình. Điều nầy, Thân Loan gọi là “Càng tin tưởng vào tha lực bao nhiêu, càng vượt qua khỏi sự đo lường bấy nhiêu[98]”.

I.2.7.3Không Nghĩa Và Vượt Qua Khỏi Nghĩa

Từ Pháp Nhiên, Thân Loan được nghe rằng: “Tha lực không nằm ở ý nghĩa, mà vượt mọi ý nghĩa”. Pháp ngữ nầy được trình bày trong “Thân Loan Thánh Nhơn Ngự Tiêu Tức” như phần thứ sáu ghi rằng:

“Với Như Lai, tha lực không nằm ở ý nghĩa mà vượt khỏi mọi ý nghĩa, Thánh Nhơn[99]quy ngưỡng điều nầy. Không có nghĩa nào cả, không gì đo lường được cả. Cũng không mang ý nghĩa tự lực của hành giả; tha lực vừa là bổn nguyện vừa là niềm tin nhứt định vãng sanh. Ngoài ra, vượt lên trên mọi ý nghĩa[100]”.

Về già, khi viết sách Thân Loan ghi lại những điều nầy trong những lá thư của mình.

Thân Loan giải thích rằng: “không giới hạn trong ý nghĩa và vượt qua khỏi ý nghĩa”chẳng phải sự đo lường về tự lực của hành giả. Chữ “nghĩa”ở đây dù là NGHỊ hay NGHĨA đều giống nhau “chỉ con đường chơn chánh, đạo lý”. Nghị là phê bình và lý luận, khi nghĩ thiện thì thiện, khi nghĩ ác thì ác, Nghĩa là “đo lường”, “đo lường tự lực”. Song “vượt qua khỏi nghĩa”,“tìm ra con đường chân chính, đạo lý”vừa là đạo lý chân chánh về tha lực, vừa là ý nghĩa chân chánh của tha lực. Hơn nữa, “vượt khỏi ý nghĩa”là tha lực bất tư nghì “tìm ra con đường chân chính, đạo lý”không phải là đo lường tự lực, mà chính là phương pháp tiếp nhận tha lực một cách chân chánh.

Như vậy, tha lực chính là năng lực cứu độ bất khả tư nghì của Như Lai, chắc chắn không thể thuộc con người. Đây cũng là lời giáo huấn thuộc về tính cách tôn giáo thế giới vậy.

I.2.8Tín Tâm Chánh Nhân

Nguyên nhân chính của lòng tin ở trong sự trái ngược ấy.

(Lược bớt phần giải thích theo lối văn Hán-Nhật).

Sự phân biệt của con người có thể nghĩ bàn nhưng trí huệ Như Lai và biểu hiện trí tuệ của Nh�� Lai thuộc về bổn nguyện thì vượt lên trên tất cả. Dùng tín tâm để lãnh thọ, không nghi ngờ, sẽ có nhơn (hạt giống) sanh về cảnh giới Báo Độ (Tịnh Độ Chân Thật). Nhờ có chánh nhân Báo Độ trong tín tâm, nương theo năng lực từ bổn nguyện của Như Lai, tâm sanh ra trí tuệ, còn chỉ có năng lực của con người thì không thể được như thế. (Chánh Tượng Mạt Hòa Tán – Thánh Điển – trang 608).

Giải thích:

I.2.8.1Công Đức Chân Thật

Theo Thân Loan, Chân Thật Báo Độ là bổn nguyện của Phật A Di Đà hoàn thành một cảnh giới giác ngộ tối cao, nơi đó những ai vãng sanh về cũng hoàn thành trí tuệ giác ngộ cao cả của Phật. Nhờ vãng sanh về Báo Độ mà sẽ thành Phật. Nhưng hiểu rộng hơn, đây vừa là nhân của những ai tín tâm thành Phật, vừa là nhân duy nhất thành Phật, mà không có giáo thuyết nào nói khác hơn. Vì thành Phật, Bồ Tát Pháp Tạng phải trải qua thời gian không biết bao nhiêu lâu, tinh tấn tu hành, tích chứa trí tuệ và từ bi.

Thế nhưng, Thân Loan nhận thấy bản thể của lòng tin là trí tuệ Như Lai, nói đúng hơn là chánh nhân thành Phật.

Lòng tin được ca ngợi đầu tiên trong “Tín Văn Loại”rằng: “là chánh nhân chứng Đại Niết Bàn và niềm tin Chân Như Nhất Thật rộng sâu như biển cả.”Chắc chắn như vậy! Với Như Lai, hướng đến niềm tin là Đại Niết Bàn, chủng tử cuối cùng của Phật A Di Đà, với bản thể là đức độ chân thật mênh mông như biển cả. Nói cách khác, “hãy có lòng tin thanh tịnh, tâm nầy không điên đảo và chẳng hư ngụy”.

Căn cứ vào quyển thượng “Luận Chú”, trong đó Thân Loan giải thích rõ nghĩa của từ “chân thật”là gì. Với “Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ”cho rằng “chân thật”là tướng trang nghiêm ở cõi Tịnh Độ, Phật A Di Đà mà Kinh điển diễn tả. Công đức ở Tịnh Độ là “chân thật”, được giải thích rằng: “không điên đảo, không hư ngụy”.

I.2.8.2Không Có Điên Đảo

Điên đảo nghĩa là trái ngược hoàn toàn với chân thật. Không điên đảo, theo cách định nghĩa của Thân Loan, là đúng ngay trong niệm đầu tiên, gọi là “Từ pháp tánh thuận theo Nhị Đế[101]”. Có thể hiểu rằng mọi vật đều vậy (chân như). Công đức trí tuệ là sự thể hiện chơn lý, cho nên cần phải lìa khỏi sự phân biệt đúng sai từ thực tiễn hành động của mình, bởi vì chân như chính là trí tuệ vô phân biệt, mà lãnh vực vô phân biệt nầy được gọi là Đệ Nhất Nghĩa Đế[102]. Với hạn lượng của tư duy, thật khó mà dùng ngôn ngữ đễ diễn đạt Hậu Đắc Trí, chân lý tối cực ấy, theo cách nói thế tục, Thế Tục Đế[103]. Bồ Tát Pháp Tạng thực hành cả Nhị Đế cho nên trí tuệ của Ngài lìa khỏi mọi tư duy sai lầm về cái thấy thuộc về “mình”“người”; nên “không điên đảo”.

I.2.8.3Không Có Hư Ngụy

Không hư ngụy nghĩa là “nhiếp lấy chúng sanh và tiếp dẫn vào cảnh giới cứu cánh thanh tịnh”. Cứu cánh thanh tịnh là Tịnh Độ, cảnh giới hoàn toàn thanh tịnh, lãnh vực lìa xa mọi phiền não. Không hư ngụy là công đức cứu độ, thực thi phương tiện đại bi để tiếp dẫn chúng sanh về Tịnh Độ. Chữ “hư”có nghĩa là “không thật”,chỉ cho thân nầy vốn chẳng có gì. Ngược lại, chân thật là đầy đủ trạng thái an lạc. Chữ “ngụy” nghĩa là không đúng, ngược lại hay trái lại với đúng. Ai ai cũng được tiếp dẫn vào Tịnh Độ, công đức đầy đủ và cuộc sống hoàn toàn an lạc là chân thật, không hư ngụy.

Như vậy, tất cả chúng sanh được Bồ Tát Pháp Tạng cứu độ là chân thật. Những hành xử Trí Tuệ, Từ Bi là chân như, mà ở thế giới Tịnh Độ, Đức Phật A Di Đà với Từ Bi và Trí Tuệ, ngài thực thi rất cụ thể. Ấy chính thực là công đức chân thật.

I.2.8.4Cái Nhơn Của Sự Thành Phật

Đồng thời, về niềm tin Thân Loan cho rằng: “Lòng tin thanh tịnh chắc chắn khiến cho tâm nầy không điên đảo, không hư ngụy”, vì đức Như Lai hồi hướng tín tâm nầy. Bồ Tát Pháp Tạng với tâm chân thật kiến lập cõi Tịnh Độ và biểu thị hoàn toàn giống nhau về bản chất thanh tịnh của Tịnh Độ và công đức Từ Bi, Trí Tuệ của Phật A Di Đà.

Nói khác, Như Lai vừa là bản chất Tịnh Độ vừa là công đức Từ Bi, Trí Tuệ. Niềm tin cho chúng ta, những ai tâm còn đầy phiền não, công đức tín tâm, Như Lai, Tịnh Độ. Niềm tin ấy nhân, là hạt giống Phật, thành Phật.

Trong “Tín Văn Loại”,Thân Loan cho tín tâm nầy là cái nhân chơn chánh và“tâm nầy là tâm Đại Bi của Như Lai, chắc chắn rằng là chánh nhơn của Tịnh Độ”. “Chánh Tượng Mạt Hòa Tán” ca ngợi và tán dương rằng: “Trí tuệ của lòng tin ấy sẽ là nhân Niết Bàn”.

I.2.9Trí Tuệ của Lòng Tin

Khi thâm nhập vào được trí tuệ của lòng tin, phải dùng thân nầy để báo Ân Phật.

(Lược bớt phần giải thích theo lối văn Hán-Nhật)

Tất cả chúng sanh, miễn có lòng tin, sẽ được đức Phật A Di Đà, đầy lòng bi mẫn như đức Thích Tôn, tiếp dẫn và chắc chắn với lòng tin sẽ được thành Phật. Tâm nguyện thành Phật ấy chính là Bồ Đề Tâm. Đuợc Phật A Di Đà dùng trí tuệ và công đức khai mở trí tuệ và tiếp dẫn vào thế giới bổn nguyện, lúc ấy chúng ta sẽ vui mừng vì được tắm gội trong ân đức Như Lai và nguyện đem thân nầy để báo đền ân đức. (Chánh Tượng Mạt Hòa Tán – Thánh Điển – trang 606).

Giải thích:

I.2.9.1Trí Tuệ Vượt Qua Khỏi Sự Sanh Tử

Trong bản Hòa Tán, quốc bảo của quốc gia, “Trí Tuệ của lòng tin” được giải thích thêm rằng: “Tiếp xúc với trí tuệ Phật A Di Đà ngay khi niềm tin vừa phát lên, trí tuệ liền phát triển”.Bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà biểu hiện trí tuệ giác ngộ. Khi có niềm tin vững chắc, không còn nghi ngờ về lời dạy của bổn nguyện ấy chính là lúc tâm đã giống với trí tuệ Như Lai. Thân Loan cho tín tâm đối với Như Lai nầy biểu hiện tâm tìm cầu giác ngộ, tâm Bồ Đề, tâm Phật vậy.

Bổn nguyện phát lên từ trí tuệ, chỗ hướng đến của chúng sanh trong mười phương thế giới, là lời nguyện rằng: “chí tâm tín nhạo, nếu ai muốn sanh ở nước ta.....”. Điều nầy chẳng phải là từ giả cõi đời và vãng sanh như ta nghĩ, mà ngược lại không ai có thể hiểu được sống, chết bởi vì càng giải thích càng phân biệt. Song ở đây phải vượt trên phân biệt, vì với Phật, chứng được vô phân biệt trí, Hậu Đắc Trí, sanh tử nhứt như[104].

Ngài Thân Loan nói: “Vãng sanh, là niềm mong muốn (mệnh lệnh) của Như Lai muốn kêu gào chúng sanh về với Như Lai”. Lời kêu gọi “Nếu muốn sanh về nước ta.....”rõ ràng là ngôn ngữ ngời sáng như trí tuệ, vượt khỏi sanh tử. Sanh tử không chỉ tồn tại trong từng cá thể mà còn là lời nói thường tình trong thế gian, nhưng không thể diễn tả hết được.

I.2.9.2Tín Tâm Là Phật Trí

Lời kêu gọi của Đức Phật A Di Đà: “Chí tâm tín nhạo; nếu ai muốn sanh về nước ta”là lời nói xuất phát từ bổn nguyện, Phật trí bất tư nghì. Con đường duy nhất của chúng ta là chỉ nghe, tin tưởng và thọ nhận. Bởi vì suy nghĩ phân biệt của con người vốn cho rằng chúng ta phải vượt qua khỏi thế giới nầy, nhưng không sao lý giải bằng những phê phán thông thường. Lãnh thọ ý nghĩa lời dạy của Như Lai là hãy quên đi mọi tư duy bình thường của mình. Đó là cứu cánh cao cả của kính tin và thọ nhận chân thật lời dạy của Như Lai.

Lúc ấy, lãnh thọ lời khai thị xuất phát từ bổn nguyện ấy, trí tuệ chúng ta khai mở sanh tử, đạt được hiệu quả hành trì và tùy theo thọ nhận giáo lý trí tuệ của Như Lai, chúng ta vượt qua khỏi sự sanh tử, thể nhập lãnh vực siêu thoát chân thật, thoát khỏi mọi thương, ghét thông thường. Không có gì kỳ lạ về việc vượt qua sanh tử nầy. Không phải tưởng tượng mà chính là lời giáo huấn của Như Lai. Giáo lý bổn nguyện của Như Lai cũng chính là lòng tin nơi mỗi chúng ta, cho nên có thể nói rằng bản thể của niềm tin là trí huệ Như Lai vậy.

I.2.9.3Tín Tâm Là Bồ Đề Tâm

Có đầy dẫy phiền não thương ghét trong thân ta được bao trùm bởi thế giới sanh tử không thật cho nên muốn xả bỏ phiền não cần phải vượt khỏi sự sanh tử kia; sanh vào cảnh Niết Bàn, oán thân bình đẳng và thành Phật. Thân Loan gọi là tâm nguyện tâm thành Phật[105], cũng gọi là Bồ Đề Tâm. Như vậy, bản chất của tín tâm là trí tuệ Như Lai, là tâm Bồ Đề giác ngộ. Tín tâm ấy là chánh nhơn chơn vãng sanh Tịnh Độ Niết Bàn.

Bồ Đề Tâm nghĩa là cái tâm tìm cầu trí tuệ giác ngộ. Với tâm ấy chúng sanh hoàn thành tự lợi[106]và lợi tha[107]. Theo Đàm Loan, Bồ Đề Tâm có nghĩa là tâm nguyện làm Phật[108], và nguyện độ chúng sanh[109].

Bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà là điển hình của Bồ Đề Tâm. “Muốn vãng sanh, thành chánh giác”vừa là lời ước nguyện vãng sanh, vừa là cầu thành tựu Chánh giác của tất cả chúng sanh, còn là tâm nguyện làm Phật và cứu độ chúng sanh của Đức Phật A Di Đà. Với chúng ta, nghe đến tâm cứu độ chúng sanh của Như Lai thường hiểu rằng tâm nguyện của Như Lai mong muốn chúng ta thành Phật và niềm tin của chúng ta là nguyện mang tâm Phật. Như vậy, tâm nguyện làm Phật của chúng ta vừa chiêu cảm tâm độ sanh và hoan hỷ đợi chờ cứu độ chúng sanh của Như Lai, vừa cụ thể hóa mọi hoạt động của tâm từ, mà “Chánh Tượng Mạt Tán” ca ngợi tâm ấy như sau:

“Hướng đến Như Lai là quay về

Tâm này nếu muốn nguyện làm Phật,

Phải hồi hướng tất cả tự lực

Để làm lợi ích mọi hữu tình”[110].

I.2.10Sự Chướng Ngại Nương Vào Nơi Đức

Băng càng nhiều thì nước càng thêm. Chướng ngại càng nhiều thì Đức phải lớn.

(Lược bớt phần chú thích theo lối văn Hán-Nhật).

Phòng ngừa tội ác và khai mở giác ngộ, cả hai việc ấy đều không khác nhau, mà cùng bản thể công đức của chư Phật. Vì bản thể của một tảng băng lớn là nước cho nên băng sẽ tan thành nước khi nhiệt độ lên cao. Tảng băng càng lớn, nước càng nhiều. Giống vậy, khi trí tuệ chân thật được khai mở, bao nhiêu tội chướng, phiền não là bấy nhiêu công đức. Tội chướng càng nhiều, công đức càng đầy. (Cao Tăng Hòa Tán – Thánh Điển – trang 585).

Giải thích:

I.2.10.1Vô Ngại Quang Như Lai

Phần “Đàm Loan Tán” trong “Cao Tăng Hòa Tán”, “Hòa Tán”tán dương công đức của Vô Ngại Quang Như Lai trong mười phương. Chữ “Vô Ngại”không phải phòng ngừa phiền não ác nghiệp của phàm phu, mà là biểu hiện năng lực cứu độ tuyệt đối và bình đẳng cứu độ của Như Lai. Hơn nữa, bất cứ ai, dù kẻ ác người lành, nghe được danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai nầy, sẽ được Như Lai dùng ánh sáng nhiếp thủ và cứu độ. Người ấy sẽ không có tâm lo lắng việc ác, không khoa trương việc lành, tinh thần tự tại, bình đẳng và tinh tấn.

“Thán Dị Sao”cho rằng: “Người niệm Phật sẽ tạo con đường vô ngại”. Với niềm tin, hành giả được đi trên con đường vô ngại “không nghĩ đến tội ác hay nghiệp báo, cũng không để ý đến việc lành”. Bổn nguyện dành cho người niệm Phật là được Vô Ngại Quang Như Lai dùng ánh sáng để cứu độ, hộ trì, che chở và làm cho tâm sanh hoan hỷ.

I.2.10.2Chướng Ngại Nương Vào Đức

Gọi là Vô Ngại Quang, không phải chỉ đơn giản vì không có chướng ngại, mà vì chướng ngại đã được chuyển hóa thành những công đức như Thân Loan giải thích. Đầu tiên xin đơn cử về Hòa Tán như sau:

Lợi lạc nhận được từ Vô Ngại Quang

Có thể nói nhờ vào niềm tin uy đức quảng đại

Chắc chắn rằng phiền não sẽ tan đi

Và Bồ Đề Tâm sẽ tăng trưởng[111].

Nếu không có nhiệt năng, băng tuyết vẫn là băng tuyết, cũng vậy phiền não vẫn là phiền não khi tâm con người thô thiển cạn cợt. Dưới ánh sáng chói chang của mặt trời, băng tuyết sẽ tan thành nước, cũng vậy nhờ bổn nguyện trí tuệ của Như Lai, phiền não chuyển thành Bồ Đề. Bao nhiêu phiền não tương ưng bấy nhiêu công đức là biểu hiện ánh quang minh và trí tuệ viên dung vô ngại của Như Lai. Niềm tin vào bổn nguyện chuyển phiền não thành trí tuệ, chuyển tội chướng biến thành những công đức như dưới ánh nắng mặt trời, băng tan thành nước.

Phần tổng quát của “Giáo Hạnh Chứng Văn Loại”cho rằng: “Viên dung công đức chính là tăng thêm sức trì Phật hiệu để chuyển ác nghiệp thành công đức trí tuệ chân chánh”.

I.2.10.3Trí Tuệ Phát Trong Nghịch Cảnh

Ai ai cũng muốn bẻ gãy những chướng ngại, nhưng một khi vào đời phải thọ nhận muôn thứ: nào già, nào bệnh, nào chết, nào ái biệt ly, nào oán tắng hội v.v.., dẫu muốn chạy khỏi cũng không làm sao được. Không ai không mong cuộc sống của mình bình an vô sự, thế nhưng phải làm kẻ bị sống trong cuộc sống bất ổn, nên cầu nguyện Thánh, Thần, và chư Phật. Càng tìm cách chạy, càng không thoát và càng lo sợ nhiều hơn. Khổ đau ngày càng chất chồng lên cao nhưng không biết cách nào giải khổ. Dẫu lưu tâm vào cuộc sống cẩn thận đến bao nhiêu, vẫn không biết được việc gì sẽ đến. Dẫu biết việc gì sẽ đến đi nữa cũng không thể giữ tâm bất động.

Thế nhưng, đứng trước những sự chướng ngại và muốn bẻ gãy sự khổ não ấy rốt cuộc rồi cũng không có được một phương cách nào. Vả lại sự khổ nạn ấy và những nguy cơ con người có thật sự muốn vượt qua khỏi để sống như là một cơ duyên chăng? Hay vẫn còn khăng khăng cự tuyệt? Ở đó ta có thể rõ do lập trường của mỗi người hướng đến mà có sự sai biệt. Cũng có thể có người muốn nương theo trí tuệ để vượt ra khỏi kiếp sống của nhân sinh hiện tại.

Nếu đời sống hằng ngày mãi thuận buồm xuôi gió thì cuộc sống chẳng có gì đáng sợ, như thế không bao giờ khởi tâm cần cầu nghe Pháp, mà con người ngày càng lười biếng và cuộc sống không phát triển bao nhiêu. Mấy ai cảm nhận được cuộc sống là bất khả tư nghì! Nghịch cảnh là trợ duyên trở về với Phật Pháp. Kinh nghiệm của một số người cho biết chính khổ đau là trợ duyên thúc đẩy nhiều người niệm Phật. Khi đối diện với nguy cơ của mình hay của người thân, ai cảm nhận cuộc đời là bất tư nghì, người ấy sẽ cảm được giá trị bất tư nghì của cuộc sống ngày càng phát triển, không hạn định.

I.2.10.4Cuộc Sống là Đạo Tràng

Kinh Duy Ma Cật cho rằng “Phiền não tức là đạo tràng”hay “Tam giới là đạo tràng”. Bởi muốn phiền não thương ghét, ngu muội giảm thiểu phải đến giáo lý Phật Đà, để tìm ra con đường chân thật đó là ý nghĩa phiền não là Đạo Tràng. Mọi người ai cũng muốn thoát khỏi tam giới khổ não; nhưng chỉ có chân thật quy hướng Tịnh Độ là cơ duyên ra khỏi tam giới khổ não mà thôi, cho nên tam giới là Đạo Tràng. Giáo lý Phật Đà là những lời giáo lý đưa người vào đạo tràng, xây dựng cuộc sống chân thật của con người. Dẫu kẻ nào xấu đến mức nào đi nữa vẫn có thể tăng trưởng trí tuệ, qua sự giáo huấn của Như Lai.

Đã có thuận cảnh, chắc chắn có nghịch cảnh. Cuộc sống của con người chỉ có ý nghĩa khi vượt khỏi những khó khăn, nhờ tin tưởng và thực hành pháp Phật. Đó chính là đạo tràng rộng mở đón nhận mọi nguồn tâm vào. Không phải là đồ phế thải, cũng không phải không có ý nghĩa khi trong cuộc sống có sự hiện hữu của Như Lai.

Như được biết: “Như Lai hiện hữu trong từng vi trần của thế giới”. Khi mọi việc được lắng nghe một cách chân thành, khiêm cung và tin tưởng, những ngoại đạo tà giáo cũng chuyển thành những thiện hữu tri thức, bởi vì dưới ánh mắt của Như Lai, ngoại đạo tà giáo vẫn hiện hữu bên trong chất liệu trí tuệ của Như Lai, cho nên với Tịnh Độ Chơn Tông, cuộc sống con người không phải chỉ kỳ nguyện sao cho không có nạn tai xảy ra, mà Đức Phật A Di Đà kiên nhẫn dùng năng lực từ bi để hoán chuyển nạn tai biến thành công đức và dùng trí tuệ cứu độ chúng sanh.

I.3LỜI DẠY CỦA HÒA NGỮ THÁNH GIÁO

I.3.1Pháp Tánh, Pháp Thân Và Phương Tiện Pháp Thân

Đức Phật có hai loại Pháp Thân. Một là Pháp Tánh Pháp Thân và hai là Phương Tiện Pháp Thân.

(Lược bớt phần giải thích theo lối văn Hán-Nhật)

Đức Phật A Di Đà có hai loại Pháp Thân đó là: Pháp Tánh Pháp Thân và Phương Tiện Pháp Thân. Pháp Tánh Pháp Thân vượt lên trên thức phân biệt để trở thành Vô Phân Biệt Trí, không thể so sánh, khó có thể rõ biết hình dạng và màu sắc, cũng không thể phân biệt rõ biết. Ở đây, không thể dùng ngôn từ diễn tả sự giác ngộ ấy. Lãnh vực giác ngộ nầy là “Vạn Vật Nhứt Như” chỉ cho Pháp Tánh Pháp Thân.

Hơn nữa, với lòng đại bi, Phật A Di Đà dùng phương tiện Pháp Thân cứu độ, mà cứu độ chúng sanh có thể nhận được biết đầu tiên Tỳ Kheo Pháp Tạng phát ra 48 lời nguyện vượt trên mọi suy nghĩ con người. (Duy Tín Sao Văn Ý – Chơn Tông Thánh Giáo Toàn Thơ – trang 630).

Giải thích:

I.3.1.1Pháp Tánh Pháp Thân

Đàm Loan cho rằng Phật A Di Đà có hai loại Pháp Thân, đó là: Pháp Tánh Pháp Thân và Phương Tiện Pháp Thân. Phật Giáo lấy con người làm trung tâm nhận thức nên phân ra hai loại đó là thế giới Hư Cấu và thế giới Chân Thật. Còn Trí vô phân biệt là đạo giác ngộ vượt trên những ngôn ngữ sai biệt, thiện - ác, giận - thương, sanh - tử và tự - tha v.v…, những nhận thức phân biệt của con người, nhận thấy tất cả mọi vật đều như chính nó.

Như vậy, có thể nói đây là Pháp tánh, sự tồn tại bổn tánh nhứt như (pháp, cũng là Niết Bàn tịch tịnh, hoàn toàn vắng lặng và không còn phiền não nữa, cũng biểu hiện các tánh: Nhứt Như, Thật Tướng, Pháp Tánh, Niết Bàn v.v… mà theo Thân Loan ý nghĩa của những thuật từ trên giống nhau, đều chỉ cho lãnh vực hoàn toàn vượt khỏi phân biệt.

Dĩ nhiên, trí giác ngộ và chân như là một, hoàn toàn không khác. Ở đây cũng có thể nói là nguồn gốc của trí giác ngộ là trí vô phân biệt. Như vậy hầu như giáo pháp cũng chỉ có một, có thể gọi chung là Pháp Tánh Pháp Thân cũng được. Pháp Tánh ấy chính là Pháp Thân vậy.

Pháp Tánh Pháp Thân vốn “không màu sắc, không hình tướng, không phân biệt và không ngôn ngữ”. là lãnh vực Vô Phân Biệt Trí, hoàn toàn vượt khỏi mọi đối đãi có tính cách nhị nguyên.

I.3.1.2Phương Tiện Pháp Thân

Ở đây, một khi đã liễu đạt trí vô phân biệt, ai dựa vào tự mình cho là chân thật là kẻ sống không chân thật. Bởi vì, như chư Phật không có phân biệt tự - tha cho nên điều hẳn nhiên chúng ta, những kẻ sống một cách khổ não mê lầm sẽ được cảm thông và được chư Phật cứu độ. Chư Phật đem tâm đại từ tiếp dẫn và dựa vào lý chân như, thiết lập phương pháp hóa độ kỳ diệu để tiếp dẫn mọi người. Phương pháp nầy còn gọi là Vô Phân Biệt Hậu Đắc Trí[112]. Hoạt động trí tuệ ấy được xem là những phương tiện được thiếp lập, bằng phương pháp cứu độ rất cụ thể.

Tiếng gốc của thuật từ “phương tiện” là Upaya. Chữ nầy có nghĩa là “từ từ đến gần” chúng sanh, cũng có nghĩa là từ từ đến gần quả vị Phật. Bằng phương tiện thiện xảo thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, đức Phật vừa mở cửa giác ngộ cho chúng sanh mê muội từ từ đến gần, vừa từ từ đến gần địa vị giác ngộ của chư Phật. Đức Phật dùng trí tuệ và lòng từ bi thiết lập phương pháp kỳ diệu cứu độ chúng sanh, phương pháp ấy còn gọi là “phương tiện thiện xảo”.

Trong chữ Phương Tiện Pháp Thân, chữ Phương tiện nghĩa là phương tiện lấy từ bi làm thiện xảo. Trong “Luận Chú”Đàm Loan gọi Phương Ti���n là “chánh trực” và “ngoại kỷ”. Chánh trực nghĩa là bình đẳng, không thiên vị trở thành một, Bình đẳng lân mẫn với mọi người. Ngoại kỷ nghĩa là loại bỏ, chỉ dùng tâm đại bi cứu độ tất cả chúng sanh.

I.3.1.3Nói Về Phương Tiện

Phương Tiện (Upaya) khiến cho ta chú ý về cách dùng phương tiện thiện xảo. Ví dụ, người nghe lời giáo huấn và tu hành theo lời giáo huấn từ từ đến quả vị giác ngộ là phương tiện. Việc tu hành là phương tiện nên cũng có thể nói tu hành phương tiện.

Hơn nữa, giáo lý Phật Đà nói về việc cứu độ chúng sanh có sự phân biệt giữa giáo huấn phương tiện và giáo huấn chân thật. Cũng có thể nói khác, bổn ý của Phật là dành giáo huấn chân thật cho chúng sanh. Nhưng bởi con người chưa thành thục, không thể thọ nhận chân ý cao siêu của Phật Đà, Phật phải dùng phương tiện giáo huấn trong mọi trường hợp. Đây chính là giả định có tính cách phương tiện, mà trong giáo dục phương diện giáo dục cũng đã được dùng đến. Nhưng cuối cùng phải loại bỏ tất cả để trở về với ý chính của Phật. Phương diện giáo dục gọi là quyền giả phương tiện để dạy dỗ có tính cách giai đoạn vậy.

Như vậy, dựa vào Nhứt Như để tồn tại, nhưng trước khổ đau, con người không nhận ra được. Tuy nhiên, Nhứt Như vẫn là Nhứt Như, bởi vì bản chất của sự vật là Nhứt Như bình đẳng. Liễu ngộ bản chất Nhứt Như cộng với tâm đại bi Nhứt Như, Phật vượt qua hạn định của ngôn ngữ, kêu gọi, cứu độ chúng sanh, cũng nhờ đó mà chúng sanh được giác ngộ. Việc nầy gọi là Phương Tiện Pháp Thân. Pháp Thân cũng chính là danh hiệu bổn nguyện của Phật A Di Đà, qua lời gọi mời mong muốn chúng ta đến gần với Ngài.

I.3.2Lắng Nghe Danh Hiệu

Lắng nghe là nghe bổn nguyện và khi nghe không còn tâm nghi nữa.

(Lược bớt phần giải thích theo lối văn Hán-Nhật)

Nghe danh hiệu nghĩa là trở về tánh nghe để nghe bổn nguyện. Chữ “nghe” nghĩa là nghe bổn nguyện với tâm không nghi ngờ; nên gọi là nghe. Hơn nữa, nghe nghĩa là dùng lời nói để biểu hiện đặc sắc của lòng tin về bổn nguyện. (Nhứt Niệm Đa Niệm Văn Ý. Thánh Điển – trong 678).

Giải thích:

I.3.2.1Sự Nghe Như Thật

Trong quyển hạ kinh “ Đại Thừa Vô Lượng Thọ” nói về sự hoàn thành nguyện thứ 18, có câu văn rằng: “Khi nghe được danh hiệu tín tâm hoan hỷ, cho dù chỉ một niệm”.Vấn đề đặt ra ở đây là “khi nghe danh hiệu”.

Nguyện thứ 17 cũng nói về nguyện thành tựu của chư Phật khi nói về danh hiệu của Đức Phật A Di Đà; và đã đặc biệt ngợi khen ý nghĩa thù thắng khi nghe đến bổn nguyện cứu độ vạn người bình đẳng.

Thế nhưng “nghe danh hiệu” ở đây vừa là cách nghe vừa là thật nghe danh hiệu ấy. Khi nghe Danh hiệu mà không chú tâm, cái nghe ấy gọi là không như thật. Chữ “nghe” trong nguyện thứ 18 cho là “nghe danh hiệu ấy”là nghe không suy tính và lãnh thọ danh hiệu như thật, sự nghe ấy chính là “Không sanh lòng nghi khi nghe bổn nguyện”.

“Không sanh lòng nghi khi nghe bổn nguyện ”nghĩa là tín tâm mà nghe bổn nguyện “danh hiệu khi nghe”. Đây không phải chỉ dùng lỗ tai nghe, cũng không phải là nghe trong sự phân biệt, nghi ngờ, mà nghe và thọ trì không nghi ngờ danh hiệu ấy. Ở đây giải thích rằng sự nghe ấy phải qua niềm tin.

I.3.2.2Nghe Chẳng Như Thật

Đơn cử ở nguyện thứ 20 nói về việc nghe chẳng như thật rằng: “Mười phương chúng sanh khi nghe đến danh hiệu Ta và nhớ về nước của ta, là trồng được gốc của công đức và nếu muốn sanh về nước Ta nên chí tâm hồi hướng”[113]. Sự nghe trong nguyện thứ 20 nghĩa là đối với danh hiệu có nhiều công đức. Với tâm tỉnh lặng, ai xưng niệm từ nhỏ đến lớn, dần dần trở thành công đức lớn lao. Cho rằng ta vãng sanh khi nghe ấy là sự sai lầm về cái nghe. Giống vậy cũng cùng việc nghe về danh hiệu của Đức Phật A Di Đà, nhưng với lòng đại bi, Phật A Di Đà dùng lời kêu gọi cứu độ, khiến chúng ta nương vào cách nghe danh hiệu một cách chân thật. Ngược lại, không nghe danh hiệu qua lời nói, mà tự đo lường lý luận của mình là hiểu sai. Điều nầy, Thân Loan nói nơi mục “nghi về bổn nguyện”.

Như vậy, tự lực cố gắng và nghe với tâm nghi ngờ gọi là nghe chẳng như thật. Thật là uổng phí! so với bổn nguyện tha lực về việc nghe danh hiệu. Xưng niệm nhằm tích chứa công đức, nguyện được vãng sanh là nghe không như thật. Niệm Phật bằng tự lực của chính mình là tu hành bất như thật.

I.3.2.3Nghe Tức Tin

Nói cách khác, câu văn ở nguyện thứ 18 rằng:“khi nghe danh hiệu nầy”. Chữ “nghe”ở đây nghĩa là “khi tụng danh hiệu Ta (Nam Mô), tất nhiên sẽ được cứu độ (Phật A Di Đà)”. Đó là việc quy ngưỡng về bổn nguyện. Khi nghe, không so đo tính toán, không nghi ngờ, gọi là nghe chân thật. “Tín Văn Loại”giải thích về sự nghe như sau:

Kinh Điển cho biết“nghe” nghĩa là chúng sanh đối với Phật, nguyện khi nghe không khởi tâm nghi chính là sự nghe[114].

“Phát nguyện sanh khởi bổn mạt”là Bồ Tát Pháp Tạng phát khởi thệ nguyện từ tâm đại bi, bình đẳng cứu độ tất cả chúng sanh dù lành - dữ, hiền – ngu, và nguyện ấy trở thành bổn nguyện tha lực của Đức Phật A Di Đà cứu độ tất cả chúng sanh. Vì vậy, chúng sanh nên giao phó (phú thác) cho bổn nguyện lực của Như Lai, chắc chắn nhờ bổn nguyện ấy sẽ được cứu độ. Như thế, Như Lai cứu độ không tính toán, tất cả những ai nhớ đến danh hiệu bổn nguyện “Nam Mô A Di Đà Phật”.Việc nầy được giảng giải rõ ràng hơn trong “Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ”.

Đồng thời, Như Lai không phân biệt khi nghe danh hiệu “tất cả đều được cứu”,chúng sanh phải không nghi ngờ lúc nghe. Đây mới chính là nghe chân thật, gọi là “Văn Tức Tín”[115]. Nghe được gọi là nghe chân thật chính là nương tựa vào lòng tin như thế.

I.3.2.4Tin Tức Nghe

Tiếp theo “hơn nữa nghe trở thành lòng tin”.Sự nghe nầy ở nguyện thứ 18 giải thích như biểu hiện đặc sắc về tín tâm đối với tha lực. Hơn nữa, niềm tin nơi bổn nguyện tha lực chính là sự thọ nhận khi nghe danh hiệu không so đo. Niềm tin khi nghe bổn nguyện hay nói khác là lòng tin nơi bổn nguyện được giải thích một cách rõ ràng không phải sự suy nghĩ đóng khung bởi chính mình về lòng tin, mà lòng tin ấy quy ngưỡng về: “xưng danh hiệu ta, tất nhiên ta sẽ cứu độ”.

Khi nghe danh hiệu với tín tâm không so sánh là biểu thị đặc thù của tín tâm về bổn nguyện cũng chính là: “Tín tức Văn”[116]. Niềm tin ấy là sự nghe lời dạy của Như Lai, chứ thật ra không có gì khác hơn cả.

Từ trước đến nay, nói về lòng tin tức nói về hình thức ảnh hiện nơi tâm ta về danh hiệu. Ảnh hiện ấy nghĩa như những chữ phía dưới được chạm nổi có hình tượng và in trên giấy, mà Kagai Senmyo viết như sau:

Nếu viết chữ bên trái thì chữ bên phải sẽ được cứu.

Ngoài ra, được trợ lực bởi niềm tin.

Khi nghe “Niệm danh hiệu Ta tất nhiên được cứu độ (Nam Mô A Di Đà Phật)”không cần so đo suy nghĩ, “chắc chắn yêu cầu được cứu độ (Nam Mô A Di Đà Phật)”bởi vì niềm tin ấy như là ấn hiện, mà tồn tại của niềm tin về bổn nguyện lực hồi hướng, như trước đã nói “Ngoài cái sắc lệnh ra không cần giải thích”. Nói khác hơn Nam Mô A Di Đà Phật chính là sắc lệnh kêu gọi của bổn nguyện hội tụ lại trong niềm tin và đầy đủ tất cả.

I.3.3Lòng Tin Là Gì?

Lòng tin chính là sự lắng nghe lời thệ nguyện của Như Lai với tâm không nghi hoặc.

(Lược bớt phần giải thích theo lối văn Hán-Nhật)

Quyển hạ Kinh Vô Lượng Thọ đề cập về câu văn của lời nguyện thứ 18 nói rằng: “Tín tâm hoan hỷ cho đến một niệm”. Tín tâm ở đây có nghĩa là khi nghe đến bổn nguyện của Như Lai, không có tâm nghi ngờ gì cả. (Nhứt Niệm Đa Niệm Ý – Thánh Điển – trang 678).

Giải thích:

I.3.3.1Ngôn Ngữ Của Lòng Tin

Thân Loan định nghĩa tín tâm là “tâm không nghi ngờ về bổn nguyện”, nói cách khác là không có tâm nghi. Giống như thế trong “Tín Văn Loại”giải thích rất rõ về chữ và nghĩa của các pháp, gọi là: “Không nghi tầm bậy, chỉ một lòng tin tưởng” mà phải thật sự vui vẻ, tin tưởng nơi bổn nguyện thành tựu. Cả tín tâm và tín nhạo tiếng Phạn gọi là Purasada, cũng được dịch là lòng tin thanh tịnh, tịnh hóa tâm. Thông thường, tùy theo tiếp nhận lý giải thích lời dạy của Phật một cách chánh đáng, tâm ta trở nên thanh tịnh, trong tâm ấy niềm tin được hình thành.

Nhưng Thân Loan cho rằng: “Không nghi tầm bậy gọi là tín nhạo”. “Nghi”còn gọi là“nghi cái”nghi ngờ, che lấp, chỉ cho phiền não, chỉ cho chân lý bị che khuất, đặc biệt chỉ cho tâm nghi bổn nguyện cứu độ, chỉ cho bổn nguyện cứu độ bị che khuất.Chữ “cái” có nghĩa là “đậy lên, phủ lên cái gì đó”.Tâm nghi ngờ bổn nguyện, giống như ly nước bị đậy, làm cho nguyện lực không thể đến với tâm bị so đo tính toán che khuất. Điều đó được dạy rằng:

“Nghi ngờ che khuất trạng thái niềm tin giữa Như Lai và chúng ta”.

Như vậy tín tâm nơi lời nguyện thứ 18 là trạng thái “tâm không có nghi ngờ về bổn nguyện”.Bổn nguyện ấy là pháp chân thật[117]. Được vậy, tín tâm sẽ tỏ thông, hồi hướng đến Như Lai. Thật vậy, tín tâm chính là phần trên của tâm được mở rộng, không phải do tưởng tượng, mà xuất phát từ lòng đại bi Như Lai mong ta sanh về Tịnh Độ. Nhờ giáo lý bổn nguyện đi sâu vào tâm thức, từ đó ảnh hiện lên trí tuệ, con đường Tịnh Độ và Niết Bàn.

I.3.3.2Đo Lường về Tự Lực

Thân Loan cho rằng sở dĩ nghi ngờ bổn nguyện vì “đo lường tự lực”. Đo lường nghĩa là: “phân biệt, phán đoán”hoặc “chính mình suy nghĩ về mình như thế như thế!”cũng gọi “xử trí cho thích nghi”. Với Thân Loan đo lường theo cách dùng thông thường là xử trí một cách thích nghi. Hơn nữa như nói “đo lường về Như Lai” dùng chữ nầy với ý nghĩa có tính khẳng định. Từ kẻ phàm phu cho đến Bồ Tát Di Lặc “chẳng có ai là đo lường về bổn nguyện bất tư nghì nầy cả”.“tất cả đều lìa sự đo lường”.Đây chính là cách phân chia để sử dụng ba loại phủ định như trên.

“Nghi ngờ về bổn nguyện” đồng nghĩa với “tính toán về sự gặp gỡ”.Trong trường hợp không nói sự đo lường nằm ở ý thứ ba theo cách lý giải thông thường sanh và tử, thiện và ác…, là những sự phân biệt lý giải cố hữu. Thật ra, thiện ác không còn, tất cả chúng sanh đều được cứu độ một cách bình đẳng. Cho nên nói: “hãy sanh về Tịnh Độ”vượt lên khỏi suy nghĩ của con người và lời dạy của bổn nguyện. Còn suy nghĩ của mình, phê phán, xử trí cho thích nghi v.v.. tất cả đều là đo lường của tự lực. Còn bổn nguyện bất khả tư nghì không còn nghi ngờ xuất hiện vây quanh cũng như không còn những sự giải thích riêng lẽ về tự lực của mình, đây chính là cái nghi bị che đậy lên hay nói đây là nghi hoặc.

Thông thường theo Phật Giáo, nghi nghĩa là năng lực phán đoán về sự vật không đích xác, còn do dự và suy nghĩ không quyết định, cũng là ý nghĩa phán đoán của con người chưa đầy đủ. Thế nhưng, nghi hoặc bổn nguyện biểu hiện trạng huống vô hiệu về năng lực phán đoán, năng lực lý giải của con người. Nghi hoặc bổn nguyện nếu nói theo lối thông thường, là sai ngay từ ban đầu. Ngược lại nghi ngờ là niềm tin. Người không có tín tâm đương nhiên bị người đời phê phán không có niềm tin. Nói chung, Phật Giáo cho rằng đây là sự sai trái nhất thuộc về lãnh vực niềm tin vậy.

I.3.3.3Tâm Mệnh Chung và Thân Mệnh Chung

Nghe lời thệ nguyện bất khả tư nghì như thế, không cần dùng đến năng lực của chính mình để phê phán và suy nghĩ nữa, hãy dùng tâm trống rỗng thọ nhận, quy ngưỡng về bổn nguyện của Phật A Di Đà, mà Thân Loan gọi là không nghi ngờ nữa, hoặc cho là lìa khỏi sự tính toán. Trước bổn nguyện của Phật A Di Đà, chúng ta tự mình xả bỏ tất cả những hý luận, lý giải, mà sự xả bỏ ấy nghĩa là chỉ nghĩ về bổn nguyện mà thôi. Với ý nghĩa ấy, hơn một lần chính mình đi tìm tâm mình khi chết, mà bằng tự lực đơn độc, con đường thoát khổ vẫn không mở ra.

Trong phần đầu của tác phẩm “Ngu Ngốc Sao”Thân Loan cho rằng: “Tín nhận bổn nguyện, trước khi lâm chung (lược bớt) niệm danh hiệu, sẽ được vãng sanh, ngay tức khắc được sanh về”[118]. Phút lâm chung, tin tưởng và thọ nhận bổn nguyện nghĩa là đo lường sự chết. Còn tức đắc vãng sanh và hậu niệm tức sanh nghĩa là được Như Lai dùng bổn nguyện tha lực hộ niệm và chiếu ánh quang minh nhiếp thủ bất xả. Thế thì thành Phật là đương nhiên và sẽ nhập vào Chánh-định Tụ[119]sống một đời sống mới của Như Lai.

Dựa theo ý đó, trong “Tối Yếu Sao”[120]Giác Như cho rằng phải lìa khỏi sự tính toán của tự lực gọi là “tâm mệnh chung”. Khi lâm chung xả bỏ uế thân. Đây gọi là “thân mệnh chung”. Trong một ý nghĩa nào đó về tôn giáo còn gọi là sự chết là tâm mệnh chung, bởi vì lúc ấy chúng ta nhập vào lãnh vực Chánh định Tụ và có một cuộc sống mới khác[121].

I.3.3.4Quy Ngưỡng Về

Nghe sắc mệnh lời gọi bổn nguyện nầy, tâm không nghi ngờ và cũng không tính toán, một lòng tùy thuận quy ngưỡng và nhờ lòng tin, tâm biểu hiện tùy thuận, như Thiện Đạo trong “Tín Văn Loại”, có “Lời Ví Dụ Về Nhị Hà Bạch Đạo” “bây giờ tùy thuận tin theo ý của hai Ngài”. Niềm tin là sự thuận tin theo cũng có nghĩa là tùy thuận. Nếu đi theo con đường nầy, theo lời chỉ dạy của Đức Thích Ca, con đường sẽ dẫn đến sự mời gọi của Phật A Di Đà, không tính toán mà tùy thuận. Nam Mô A Di Đà Phậtchính là con đường trắng của nguyện lực dẫn chúng ta trở về với niềm tin.

Trong: “Tôn Hiệu Chơn Tượng Minh Văn”Thân Loan cho rằng: “hãy trở về với sắc mệnh của Như Lai”rõ ràng là sự tùy thuận không so đo và quy mệnh đúng nghĩa về lời dạy của Như Lai. Nguyên ngữ của chữ tín tâm là Purada. Còn chữ quy mệnh là Namu. Nguyên thủy hai chữ nầy riêng biệt, nhưng theo Thân Loan cả hai đều “quy ngưỡng về Đức Như Lai”, mà Thân Loan dùng hai từ nầy cùng một ý nghĩa giống nhau.

I.3.3.5Sự Yêu Cầu

Hơn nữa, đôi khi Thân Loan dùng chữ tín tâm theo văn Nhật Ngữ, là yêu cầu, mong muốn. Đầu tiên “Duy Tín Sao Văn Ý” cho niềm tin là “mong muốn nơi bổn nguyện tha lực và lìa khỏi tự lực”. Ở đó, tín tâm là xả bỏ mọi toan tính của tự lực và nương nhờ vào (yêu cầu đến) bổn nguyện tha lực. Hơn nữa, “Hành Văn Loại”giải thích ý nghĩa sáu chữ là trở về. Chữ “quy thuyết giả”là trở nên, mong muốn quay về, cũng có nghĩa là toan tính, đo lường. Theo “Bổn Nguyện Chiêu Hoán Sắc Mệnh”niềm tin là sự biểu hiện trạng thái giao phó trọn vẹn thân ta.

Chữ “yêu cầu”theo từ điển hiện thời định nghĩa là “từ đó làm thành, làm cho, tạo niềm tin, nương thân vào đó, khẩn nguyện”. Theo cách dùng của Thân Loan, trong trường hợp nầy hầu như không có nghĩa khẩn nguyện. Có thể ông ta dùng theo cách hướng về và giao trọn vẹn, cũng có thể là giao thân mạng nầy hết cho Như Lai, hay là với ta không có Phật trí nên cầu xin cái bất tư nghì của Phật trí, hoặc là xả bỏ tâm yêu cầu, vì nơi tự thân tích chứa nhiều căn lành phước đức; hay cũng có nghĩa là yêu cầu nương nhờ về bổn nguyện lực. Dẫu Thân Loan có so sánh ý nghĩa của tôn giáo đi chăng nữa, sự cứu độ của Như Lai theo lời nguyện cầu ấy, rõ ràng không phải là tín tâm.

Chỉ có như thế sao? Pháp Nhiên cũng đã tin như vậy. Nhưng Thân Loan chắc chắn dùng chữ yêu cầu theo chữ Hán nghĩa là “bằng”, nghĩa là nương tựa, nhờ cậy, cho nên nói: “nhờ cậy, nương tựa vào hoằng thệ của Đại Bi”.Ngoài chữ nầy ra, không có chữ nào khác có thể thay thế cho đủ nghĩa hơn. Chữ bằngnghĩa là người ấy ở trạng thái không thể rời khỏi được mà phải cần nương tựa, như “xin nương tựa vào đó, giao hết thân mệnh cho đó, giao trọn vẹn”, mà ý nghĩa khẩn nguyện hoàn toàn không dùng đến. Trong khi đó, Liên Như cho rằng tín tâm là “mong mỏi nơi Phật A Di Đà”, cũng là cách dùng chữ theo lối cũ mà thôi.

I.3.3.6Niềm Tin Là Sự Chân Thật

Hơn nữa, Thân Loan cho rằng niềm tin là chân thật. Phần đầu của “Tín Văn Loại”giải thích rằng “Tín có nghĩa là trở thành chơn, trở thành thật”. Nguyên ngữ, theo tiếng Trung Hoa, là lìa nói dối, hư ngụy gọi là chơn. Chơn có nghĩa là thật. Tín được hiểu là chân thật. Với Thân Loan, niềm tin thường liên hệ chặt chẽ với chân thật. Chân thật của Như Lai là Trí Tuệ. Nếu niềm tin không đồng nghĩa như thật không phải là niềm tin. Nguyên thủy chữ tín nghĩa là chơn chánh.

Nói khác hơn, theo Thân Loan tín tâm nghĩa là “nương vào bổn nguyện tha lực”, mà bổn nguyện ấy chính là sự chân thật, tuyệt hảo vậy. Không nghi ngờ gì nữa để nương tựa và thiết lập niềm tin nơi ấy.

“Đạo Hiệu Chơn Tượng Minh Văn”giải thích nguyện thứ 18 phần chí tâm tín nhạo rằng “Chí tâm làm cho chân thật mà sự chân thật ấy là sự gần gũi Đức Như Lai, để chí tâm trở thành chân thật, bởi vì chúng sanh dẫy đầy phiền não không có tâm chân thật, không có tâm thanh tịnh, chỉ có những ác trược, tà kiến. Tín nhạo nghĩa là tiến đến bổn nguyện chân thật của Như Lai, không khác, có niềm tin sâu sắc, không nghi ngờ là tín nhạo”[122]. Đây chính là sự biểu hiện của tâm vậy.

I.3.4Hiện Sanh Chánh Định Tụ

Người có tín tâm chân thật, sẽ được nhiếp thủ bất xả và ở vào ngôi Chánh Định Tụ.

(Lược bớt phần giải thích theo lối văn Hán-Nhật)

Kẻ có lòng tin chân thật, được nương cậy vào bổn nguyện tha lực của Đức Phật A Di Đà, được lợi ích nhiếp thủ bất xả chắc chắn sẽ thành Phật và ở vào ngôi Chánh Đinh Tụ. Hơn nữa, khi lâm chung chờ đợi được đón về. Với niềm tin ấy, quyết định sẽ được vãng sanh. Ngoài ra lúc lâm chung sẽ được đón rước là điều cảm nhận được, chứ không cần thiết là một nghi thức phải có khi lâm chung. (Thân Loan Thánh Nhơn Ngự Tiêu Tức – Thánh Điển – trang 735).

Giải thích:

I.3.4.1Nói Về Nghiệp Lúc Lâm Chung

Qua lời dạy của Thân Loan, có một chỗ đáng lưu ý là với những ai không nghi và tin tưởng nơi bổn nguyện, được lợi ích liền đó, được nhiếp thủ bất xả. Niềm tin lúc bình thường là vãng sanh thành Phật, thân nầy nhứt định trở thành Hiện Sanh Chánh Định Tụ thuyết và dùng năng lực ấy để thuyết pháp. Điều nầy từ xưa đã là suy nghĩ bình thường của giáo lý Tịnh Độ. Khi lâm chung nhất định được tiếp dẫn vãng sanh là phủ định tư tưởng đặc thù của thuyết hoán chuyển.

Thân Loan, những người bình thường theo Tịnh Độ Giáo và hầu như tất cả môn hạ của Pháp Nhiên đều tin chắc rằng được vãng sanh ngay trong đời nầy và rất ít người tin thuyết về “Hiện Sanh Bất Thoái”[123], bởi vì không ai cho rằng trong đời nầy quyết định vãng sanh thành Phật, chứng vào ngôi vị Chánh Định Tụ. Những người ấy tin nương vào tự lực niệm Phật, xác định chỉ thực hành như thế mới có thể được.

Như vậy giữa cả hai điều tin tưởng ấy, điều nào là đáng tin hơn? Đây là điều mà con người để niềm tin của mình ở bên ngoài công kích và bẻ cong niềm tin. Hoặc tự mình tạo tội, bị dao động trước việc tin tưởng chính xác kia, hoặc có trường hợp bị bệnh, nhưng không tin nên không niệm Phật. Trong cuộc sống giới hạn nầy, khó nói được làm thể nào để có thể bất thoái chuyển, cho nên đến khi lâm chung như vết dầu loan không gián đoạn phải niệm Phật, nhờ không mất chánh niệm lúc lâm chung vì luôn luôn niệm Phật, cuối cùng cảm nhận ánh sáng của Như Lai chiếu đến nghinh tiếp và nghĩ rằng đây là vãng sanh nhưng vẫn phải mang theo nhơn nghiệp của mình, gọi là thuyết “Lâm Chung Nghiệp Thành”vậy.

Đối với thuyết “Lâm Chung Nghiệp Thành”nầy, Thân Loan cho rằng thuyết “Hiện Sanh Chánh Định Tụ” hơn, vì không chờ lúc lâm chung mà với niềm tin lúc bình sanh cũng có thể quyết định vãng sanh, do cái nghiệp vẫn còn làm nhơn. Đây là chủ trương của Giác Như và Trưởng Nam, Tồn Giác gọi là thuyết “Bình Sanh Nghiệp Thành”.

I.3.4.2Chánh Định Tụ Nghĩa Là Gì?

Có nhiều ý nghĩa giải thích về Chánh Đinh Tụ. Căn cứ theo Thân Loan, từng bộ phận được giác ngộ lý Chân Như và khai mở Trí Tuệ Vô Lậu, vượt khỏi Tam Giới[124], đoạn trừ hết tất cả mê hoặc phiền não thương ghét, chứng địa vị Sơ Địa trở lên của Bồ Tát, gọi là những bậc Thánh, với chân lý là bậc Chánh Trí[125], quyết định thành Phật, làm bạn với các bậc Thánh, nhập vào Chánh Định Tụ nghĩa là đã vãng sanh về Tịnh Độ. Thật khó mà thực hiện trong một đời được!

Thế nhưng, khi nói về tín tâm của các hành giả ở vào ngôi vị Chánh Định Tụ, Thân Loan cho rằng ngay cả những kẻ phàm phu hay vừa vào hàng Thánh cũng có thể thành tựu vì nương vào ân đức Phật, bởi vì giống như “lửa phiền não thiêu đốt, nhưng lửa ấy sẽ tiêu đi”. Như vậy, Thân Loan khẳng định rằng trong ngôi Chánh Định Tụ vẫn có những phàm phu như thường, bởi vì phàm phu lấy tín tâm để hồi hướng đến Như Lai, tâm Phật ấy ở vào vị trí trí tuệ vô lậu. Nhờ lòng tin bổn nguyện mà kẻ ấy khi chết dầu ngu si hay còn phàm phu đầy phiền não vẫn có cơ duyên ở vào ngôi Chánh Định Tụ và Vô Lậu Trí, nhờ thọ nhận ân đức Phật. Kẻ phàm phu ấy cũng đồng là bậc Thánh, vì nương vào ân đức vậy.

I.3.4.3Sự Lợi Ích của Nhiếp Thủ Bất Xả

Một lần nữa nói về Chánh Định Tụ, Thân Loan lại chủ trương rằng ai có niềm tin hiện đời được lợi ích. Đơn cử kẻ có niềm tin được lợi ích bằng nhiếp thủ bất xả rằng: “Ai chân thật tín tâm sẽ được nhiếp thủ bất xả, sẽ ở ngôi Chánh Định Tụ”mà điều nầy thỉnh thoảng vẫn được nhắc đi nhắc lại.

Lợi ích của nhiếp thủ bất xả là với tâm vượn lên, tin tưởng bổn nguyện niệm Phật vãng sanh, liền lúc ấy Như Lai dùng ánh quang minh chiếu đến nhiếp thủ và hộ niệm, nhờ vậy được lợi ích nhiếp thủ. Thân Loan cho việc nầy là “nắm chặt lấy người, không hề buông bỏ”.Đối với hành giả có tín tâm, thấy không bị bỏ rơi và quyết định khi lâm chung trong một niệm, tiếp tục giữ gìn và chắc chắn nhờ tín tâm như thế quyết định không thoái chuyển. Vãng sanh thành Phật là cái nhơn, mà với niềm tin không thoái chuyển ấy, kẻ có niềm tin sẽ ở vào nơi bất thoái chuyển, nhập vào Chánh Định Tụ.

I.3.4.4Trật Tự Của Như Lai

Những chúng sanh niệm Phật được nhiếp thủ bởi ánh quang minh và lòng từ bi trí tuệ của Phật A Di Đà nghĩa là cội nguồn căn bản của trí tuệ từ bi của Như Lai rất trật tự. Những kẻ với phiền não dẫy đầy vẫn là phàm phu và ở dưới trật tự của Như Lai, nghĩa là tồn tại của mỗi cá thể phải được đặt đúng vị trí. Hay nói khác hơn, với lòng từ bi trí tuệ của Phật A Di Đà, vô minh và phiền não đóng lại. Nhưng nếu sống trong đời sống không có ý nghĩa, không có phương hướng, chúng ta trở nên hổn loạn, vô trật tự. Do vậy, phải cần có ý nghĩa mới về cách sống ấy, đó chính là việc khai mở cảnh giới, an trụ có trật tự trong lãnh vực tinh thần. Biến hổn tạp thành trật tự chính là cứu độ. Với ý nghĩa đó, Phật A Di Đà là chỗ nương tựa chân thật và có trật tự tuyệt đối. Như vậy, giáo hóa chúng sanh trong mười phương niệm Phật nghĩa là chỉ (dạy) cho họ một tinh thần mới về trật tự, mà Như Lai che chở trong trật tự của Như Lai vậy. Đây chính là hình ảnh của Phật A Di Đà “Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai”.

Chúng sanh trong mười phương theo ánh sáng và lời nói chân thật ấy được vãng sanh Tịnh Độ (vãng tướng). Nếu chân thật đến vô cùng, nguyện lực của hoại tướng biến khắp mười phương thế giới. Hoặc hình ảnh của Đức Phật, hoặc kẻ sẽ thành Bồ Tát, được nghe lời dạy từ thiên biến vạn hóa, từ đó tạo ra một phương hướng mới cho những chúng sanh vẫn còn hổn tạp bởi vô minh, phiền não. Với lòng từ bi trí tuệ, Như Lai tạo cho họ một đời sống mới có trật tự. Đây chính là sự giáo dục cho những hành giả thuộc về vãng tướng, cũng gọi là hoại tướng.

Những hành giả có tín tâm mà thân vẫn đầy dẫy phiền não được Đức Phật A Di Đà dùng ánh sáng nhiếp thủ và quyết định thành Phật chính là hình ảnh nhiếp thủ vĩ đại trong trật tự của Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai. Trong sự giác ngộ cũng có trật tự, đây chính là ý nghĩa của tồn tại của mỗi người qua phương hướng của Như Lai, mà Thân Loan gọi là “Lợi ích không lường của Chánh Định Tụ”.

I.3.4.5Vào Trong Chúng Hội

Trong “Tịnh Độ Luận”“Luận Chú”Thân Loan nói về những hành giả niệm Phật, gọi họ là những người trong đời “đang nhập chúng đại hội”. Chúng đại hội là những thính chúng ở Tịnh Độ, tề tựu tại giảng đường lớn, nghe Phật A Di Đà thuyết pháp. Trong “Chánh Tín Kệ”gọi là “nếu quy nhập về công đức đại bảo hải, chắc chắn bao gồm trong chúng hội”.Công đức đại bảo hải là thế giới bổn nguyện, mà gởi thân vào đó là những người đang sanh và được ngồi nghe Phật A Di Đà thuyết pháp cho đại chúng. Tuy rằng, còn là phàm phu dẫy đầy phiền não, nhưng nhờ sự hộ trì phóng ánh quang minh chiếu dọi nhiếp thủ của Phật A Di Đà, hành giả vẫn luôn luôn tiếp tục được nghe lời chỉ dẫn cũng như gọi mời thuộc về bổn nguyện của Phật A Di Đà, ngay bây giờ được Phật A Di Đà rước vào chỗ ngồi. Đây là điều có thể, mặc dầu vẫn còn ở nơi uế độ vừa vãng sanh, nhưng vẫn có thể nhập vào trong đại chúng của Tịnh Độ nghe pháp.


I.3.5Giống Như Đức Như Lai

Đồng với Phật Di Lặc và người đã nhập Chánh Định Tụ ngang hàng với Như Lai

(Lược bớt phần chú thích theo lối Hán-Nhật).

Bồ Tát Di Lặc sẽ thành Phật, có nhơn hạnh viên mãn, gần địa vị của Phật. Ngài cũng là Bồ Tát Đẳng giác, có Đức hoàn toàn giống như Phật. Là một vị Phật trong tương lai, Ngài có hiệu là Di Lặc. Ở đây, những hành giả có niềm tin, với nhơn thành Phật đầy đủ, chắc chắn sẽ thành Phật như địa vị của Phật Di Lặc. Hành giả tín tâm đang ở vào vị trí Chánh Định Tụ và giống với các vị Đẳng giác Bồ Tát, được gọi là “giống như Như Lai”.

Hành giả tin tưởng Tịnh Độ cho đến khi chết, những phiền não dày mỏng được hộ niệm, tuy vẫn còn tiếp tục với thân phàm phu dẫy đầy ác nghiệp đã tạo; nhưng Đức Như Lai dùng trí tuệ từ bi chở che cho những người có niềm tin ấy, cho nên tâm họ giống với tâm Như Lai. Ngoài ra, nên biết rằng tín tâm của hành giả ấy là “những người giống với Như Lai”. (Thân Loan Thánh Nhơn Ngự Tiêu Tức – Thánh Điển – trang 758).

Giải thích:

I.3.5.1Giống Như Đức Di Lặc

Thân Loan cho rằng những chúng sanh niệm Phật nhờ vào ân đức Trí Tuệ của Như Lai, có được niềm tin như Kim Cang, tạo nhân thành Phật, như Bồ Tát ở địa vị Nhất Sanh Bổ Xứ. Nhất Sanh Bổ Xứ có nghĩa là hết đời bây giờ rồi, sẽ thành Phật ở đời sau, mà địa vị ấy gọi là Bồ Tát ở giai đoạn cuối cùng trước khi thành Phật. Điển hình Bồ Tát Di Lặc, vị kế tục Phật Thích Ca, cho nên gọi là Nhất Sanh Bổ Xứ hay Bổ Xứ Di Lặc, mà danh hiệu thường được gọi dành cho vị Phật tương lai nầy là Phật Di Lặc. Hành giả tín tâm kia cùng đồng với địa vị của Đức Di Lặc vậy.

Bây giờ, Bồ Tát Di Lặc vẫn còn ở cõi Trời Đẩu Suất sẽ thành Phật sau một đời, gồm năm mươi sáu ức bảy ngàn vạn năm nữa.[126]Như vậy, những chúng sanh niệm Phật chỉ cần một đời nữa thôi sau khi mạng chung sẽ trở thành Phật. Sự thành Phật nầy so với Đức Di Lặc Bồ Tát còn nhanh hơn nữa. “Chánh Tượng Mạt Hòa Tán”có thơ rằng:

Năm sáu ức bảy ngàn năm

Bồ Tát Di Lặc ra đời

Ai tín tâm đầy đủ

Lúc ấy thành giác ngộ[127].

Thật là sự tường thuật từ đáy lòng vậy!

I.3.5.2Đẳng Và Đồng

Thân Loan cho rằng nơi đến của những hành giả tín tâm giống với địa vị Bồ Tát Di Lặc, nhưng không thể nói chắc là giống với Như Lai. Trong Phật Giáo, thường hay dùng chữ đẳngvà chữ đồngvới những trường hợp có ý nghĩa giống nhau. Chữ đẳng nghĩa là có khác biệt, điển hình như Đẳng giác, khi nói đến Phật. Trường hợp Đẳng Giáchay Đẳng Chánh Giácnghĩa là “theo chân lý, người bình đẳng với vạn vật”. Trong trường hợp nầy, đẳng bình đẳnglại giống nhau, song trường hợp ngôi vị tối cao của Bồ Tát, Đẳng Giác Chánh Đẳng Giácnghĩa là: “Đức của bậc Chánh Giác (quả vị) là Phật Đà hoàn toàn giống như Bồ Tát (nhơn vị)”. Chữ đẳng nghĩa là hoàn toàn giống. Song khi biểu thị hành vi của Bồ Tát, có sự phân biệt rõ ràng Đẳng Giác là địa vị tối cao của Bồ Tát; còn Diệu Giác là địa vị của Phật Đà.

I.3.5.3Như Lai và Sự Bình Đẳng

Những người niệm Phật được gọi giống địa vị Đẳng giác của Bồ Tát Di Lặc và cũng gọi giống Như Lai, nhưng chắc chắn là không đồng với Như Lai. Người niệm Phật một khi nhơn viên mãn, chỉ thành tựu nhơn vị tối cao của Bồ Tát mà thôi, đó là Đẳng Giác, Bồ Tát Nhứt Sanh Bổ Xứ. Dẫu sao, đó chỉ là nhơn ban đầu, chứ không phải là quả vị Phật.

Ai hoàn thành công đức xưng danh hiệu Phật đi nữa, nhưng vẫn còn phiền não vô minh sót lại làm sao được chấp nhận là Phật. Chúng ta những người dẫy đầy phiền não, sống trong cuộc đời nầy vốn là phàm phu, may mắn biết niệm Phật, được Phật cứu độ, nhưng vẫn không phải là người cứu độ được. Bất cứ giá nào, cũng niệm Phật, quy ngưỡng, tán dương công đức của Phật cho nên với ý nghĩa đó, khi ta niệm danh hiệu Phật, biết rõ giáo huấn nghiêm khắc của Thân Loan về lập trường của người cứu độ[128].

Người niệm Phật được Như Lai nâng lên cao, mặc dầu vẫn là còn phàm phu dẫy đầy phiền não, chắc chắn thân nầy sẽ được vãng sanh với sự giúp đỡ che chở của trí tuệ Như Lai. Công đức trí tuệ ấy có thể được gọi là công đức Phật, không sai chút nào. Thế nhưng, người niệm Phật là nhơn thành Phật, được đưa lên cao, nhờ công đức của Phật. Ví dụ như hạt giống đậu nành kết quả thu hoạch được từ năm trước nhưng lại là nhơn của việc gieo hạt vào đất trong năm nay. Nếu không gieo đậu nành, không thu được đậu nành. Nếu không có nhơn từ bi và trí tuệ của Phật Đà, chắc rằng ta không thành Phật được. Người niệm Phật nhờ quả công đức của Như Lai tạo ra nhơn thành Phật cho mình về sau.

I.3.5.4Trở Thành Bậc Trang Nghiêm

Nếu không phải là Phật, sẽ không cho ta trí tuệ Phật, bởi vì không phải là người phàm phu, cho nên Phật trụ trong Tịnh Độ Niết Bàn, chỗ trang nghiêm tốt đẹp nhất, thực hiện lời hứa dành cho các Bồ Tát Nhứt Sanh Bổ Xứ. “Quán Kinh”dùng hoa Phân Đà Lợi (hoa sen trắng) làm từ hình tượng dùng để tán dương công đức của Phật, còn tán dương người niệm Phật, ngài Thiện Đạo gọi là chơn Phật Tử. Trong “Thân Loan Thánh Nhơn Ngự Tiêu Tức”[129]Thân Loan tán dương người niệm Phật một cách tương đối, bằng kệ tôn kính rằng: “đó là những kẻ đồng hành, không nghèo khó”. Lại còn cho rằng: “chính là những kẻ đồng minh với tấm lòng rộng mở, trong cuộc đời nầy có người rõ biết như thế”. Như vậy đồng hành không phải là người bị khinh miệt, mà chính là người bạn đạo trở nên thân thiết khi tu học.


I.3.6Trừ Những Kẻ Ngũ Nghịch Hủy Báng Chánh Pháp

Nghi ngờ với người mang tội ngũ nghịch và nặng nhất là sự hủy báng chánh pháp.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật)

Phần sau của lời nguyện thứ 18 viết rằng“chỉ trừ kẻ tạo tội ngũ nghịch và người hủy báng Chánh pháp, không cứu được". Ở đây thấy chữ “duy trừ” có nghĩa là “chỉ trừ” và nghi ngờ kẻ tạo tội ngũ nghịch và kẻ hủy báng Chánh pháp. Bởi vì đây là những tội rất nặng. Như vậy, tội ngũ nghịch và hủy báng là những trọng tội phải biết rõ. Nhưng nếu chính mình thừa nhận tội của mình làm, có sự hồi tâm sẽ được cứu độ vì tất cả chúng sanh trong mười phương thế giới đều được cứu độ, không bỏ sót một người nào cả. (Tôn Hiệu Chơn Tượng Minh Văn – Thánh Điển – trang 644).

Giải thích:

I.3.6.1Tội Ngũ Nghịch

Thiện Đạo cho rằng câu văn trong lời nguyện thứ 18 là câu văn gò ép, bởi vì ai có niềm tin niệm Phật tất nhiên sẽ được đón về Tịnh Độ, tại sao loại trừ những kẻ tạo tội ngũ nghịch và những kẻ hủy báng Chánh pháp, như vậy có sự giới hạn trong việc vãng sanh. Tội ngũ nghịch là năm loại tội phản nghịch có ác ý như: giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, có ác ý làm thân Phật ra máu và phá hòa hợp Tăng. Như thế, ân nghĩa sâu xa nhất trong đời mà ta không quên là cha và mẹ mà còn phản nghịch, bội ân đúng là tội nghịch. Còn A La Hán, Phật và Tăng Đoàn là chỗ dựa an lạc vĩnh viễn cho mình, không chỉ riêng mình mà tất cả mọi người ai ai cũng tôn kính tha thiết quý trọng, nhưng lại có ác ý muốn giết, làm bị thương và phá hòa hợp. Do vậy, dù là mạt sát mình hay người khác cũng phạm tội phản nghịch, nói gọn là nghịch tội.

Nếu ai phạm vào tội ngũ nghịch tức là tự tay mình cắt đứt lấy mạng sống mình và chính mình phá hoại tâm của mình cho nên vĩnh viễn không được an ổn. Theo kinh luận, những ai phạm tội ngũ nghịch nghĩa là phải đọa lạc vào vô gián địa ngục[130]bị treo chúc đầu xuống và chân ngược lên. Tự mình đi tìm cầu an ổn mà cũng tự mình có những hành động phá hoại an ổn ấy.

I.3.6.2Phỉ Báng Chánh Pháp

Hủy báng Chánh pháp có nghĩa là hủy báng Phật-pháp. Phủ định tính cách chân lý. Thân Loan nói rằng: “Phủ nhận Phật; phủ nhận giáo lý cao siêu của Phật; phủ nhận những người vâng theo lời dạy của Phật, sống thực hành con đường Bồ Tát đạo; phủ nhận cách sống của Bồ Tát theo chơn lý, gọi là hủy báng”. So với tội ngũ nghịch, tội phủ nhận Chánh pháp thuộc về tội báng pháp nặng hơn.

Đức Phật được dịch là người giác ngộ, bậc Chánh Giác. Chính tự mình tỏ ngộ, giúp những người mê muội giác ngộ chân thật. Liễu ngộ chơn lý chân chánh, vượt khỏi sanh tử, cũng như chỉ rõ cho con người biết về sự sống, chết[131]. Những lời dạy của Phật gọi là Phật-pháp. Cả hàng vạn người tùy theo từng hoàn cảnh tự - tha, thực hiện giáo lý chơn chánh được an lạc. Bồ Tát có nghĩa là những vị tuân theo lời dạy của Phật, tu hành theo con đường Bồ Tát đầy thiết thực và thực tiễn, mà đại diện cho thực tiển ấy là những Bồ Tát gồm đủ bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ[132], sáu pháp Ba La Mật, điển hình về những phương pháp thực tiển. Đây chính là nội dung tu hành của Bồ Tát Pháp Tạng, trong “Đại Kinh” có nói rõ, mà Phật Thích Ca tán dương công hạnh ấy, song ai hủy báng pháp nầy là những người phủ định pháp của Bồ Tát.

Những kẻ hủy báng Chánh pháp không những chỉ là những người tự mình làm mất đạo lý, mà mê hoặc ngày càng dày hơn, căn bản tâm chơn chánh của con người bị đoạt mất, nghĩa là người đánh mất căn bản đạo lý. Đánh mất căn bản đạo lý, không còn hiểu biết thế nào là sống đúng tư cách của một con người, phá hoại thế quân bình của tay lái, đứt thắng xe khi có nguy cơ tuột dốc. Chấp ngã làm cho mình bị tuột dốc khó quay trở lại, đồng thời làm cho những kẻ khác phá hoại tự - tha trên con đường đang bước tới.

Như vậy, tội ngũ nghịch là trọng tội, trời không dung, đất không tha, nặng nhất chính là tội hủy báng Chánh pháp, Đàm Loan nói như thế. Thật ra, chẳng còn gì và chẳng có gì để nói nữa, bởi vì đối với những lời dạy về đạo lý như thế mà không còn cảm nhận quả là phủ định đạo lý, dường như cảm giác đã bị tê liệt, kiến giải đã trở thành cực đoan trong quan niệm đúng - sai rồi. Đó là tội ngũ nghịch. Như vậy những ai tạo tội hủy báng Chánh pháp và tội ngũ nghịch sẽ sống cô độc trong thế giới không có Phật-pháp, cho nên không biết nguyện sanh về Tịnh Độ, không nhận được cứu độ của Chư Phật. Nghĩa chữ “ngoại trừ”rõ như vậy.

I.3.6.3Nếu Hồi Tâm Sẽ Được Vãng Sanh

Cũng trong giới hạn của lời nguyện thứ 18 nói rằng: “Chỉ trừ những người tạo tội ngũ nghịch và kẻ hủy báng Chánh pháp không cứu được”. Đây chính là ý nghĩa trọng đại mà Phật muốn nhấn mạnh, như Thân Loan đã cho thấy. Chữ trừ nầy có nghĩa là “Phật chê trách kẻ tạo tội ngũ nghịch và hủy báng Chánh pháp là một tội trọng chăng? Nên rõ biết điều nầy”.

Đành rằng kẻ hủy báng Chánh pháp, tạo tội ngũ nghịch là kẻ hoàn toàn phi đạo và ác hạnh, nhất là những người hủy báng Phật Giáo, nhưng phải xem ngoại lệ đối với những kẻ tin lời nói của chính mình là đúng, chỉ phạm vào một loại xác tín khác, vì họ biết phạm vào tội nặng, bởi vì “ngoại trừ”chỉ cho khi thay đổi ý thức, tội kia vẫn được Phật A Di Đà cứu độ.

Như vậy, chính mình ý thức về tội ngũ nghịch và nhận biết tội là người nhận rõ giáo lý Phật Đà, nhờ Phật-pháp từ từ chuyển hóa bên trong, nhận thức tội lỗi sâu xa của chính mình. Người biết hổ thẹn, dẫu tội lỗi có tràn đầy đi chăng nữa, một khi đích thân người ấy chuyển hóa tội chướng cũng được Phật A Di Đà dùng bổn nguyện đại bi mà cứu độ. Ngài Thiện Đạo cho rằng việc nầy là “do nguyện lực của Phật, tội ngũ nghịch và thập ác sẽ mất hẳn, ngay cả Nhứt Xiển Đề[133], biết hồi tâm được vãng sanh”.Việc nầy Thân Loan cho rằng: “Nguời phạm hai tội nặng ấy, khi đã biết hồi tâm, sẽ được thừa nhận như tất cả chúng sanh trong mười phương, chắc chắn sẽ được vãng sanh”.

Cứu độ người xấu ác chỉ khi việc ác được người tạo ác chấp nhận, biết hổ thẹn sâu xa về tội lỗi của mình và chính mình vướng vào, xả bỏ tâm tự lực, hồi tâm biết rằng mình sẽ được bổn nguyện Phật che chở. Có một giá trị nhất định đối với trường hợp hồi tâm ấy chỉ khi con người chấp nhận lời dạy của Như Lai, để chuyển đổi mình. Cứu độ chỉ là tạo ra một giá trị mới thiết lập một nhân sinh quan mới thôi.

Thân Loan nghiêm khắc lột trần chữ “ngoại trừ”trong nguyện thứ 18 nầy và đả phá tâm kiêu mạn của chúng ta. Dẫu có tội chướng nhưng mình có sự hồi tâm, sẽ nhận được cứu độ, một sự cứu độ kỳ diệu từ bàn tay của Phật A Di Đà, để xác nhận có sự hồi tâm.


I.3.7Thang Thuốc của Đức Phật A Di Đà

Mỗi lần tam độc[134]nhích một chút, chỉ có thuốc của A Di Đà mới cứu chữa thân tâm nầy được.

(Lược bớt phần chú thích theo lối Hán - Nhật)

Trước hết, từ xa xưa chưa biết lời thệ nguyện của Phật A Di Đà, chẳng niệm danh hiệu Ngài, cho nên chúng ta bị phiền não vùi dập qua nhiều năm tháng. Phật Thích Ca và Phật A Di Đà dùng phương tiện tiếp dẫn hộ niệm, nay chúng ta mới bắt đầu nghe được lời nguyện của Phật A Di Đà từ chính bản thân mình.

Vì say sưa nên đánh mất bản tâm, càng ngày độc tố càng thấm sâu vào thân thể, không ai để ý tới. Từ trước vì vô minh che lấp, cho nên chúng ta hiểu sai sự thật. Tham dục, sân nhuế và ngu si là ba chất độc mà vẫn ham thích. Bắt đầu từ đây nghe lời thệ nguyện của Phật, chúng ta sẽ tỉnh ngộ từng phần, từng phần. Sau cơn say ấy, chúng ta sẽ lưu tâm từng chút, từng chút về những suy nghĩ đã qua mà nương dựa vào sự thật. Nên biết rõ phiền não tam độc phải được giảm thiểu và không còn luyến lưu chúng nữa, phải thích thú với việc niệm Phật là một diệu dược, theo bổn nguyện của Đức Phật A Di Đà; việc cần thiết là luôn luôn phải xưng tụng ngay nơi mỗi tự thân của mình. (Thân Loan Thánh Nhơn Ngự Tiêu Tức[135]– Thánh Điển – trang 738).

Giải thích:

I.3.7.1Tạo Ác Vô Ngại

Trang thơ ấy Thân Loan viết ngày 24 tháng 2 năm Kiến Trường thứ 4, lúc đã 80 tuổi khi Ngài nhận được bức chân dung mà môn đồ ở Thường Lục gởi tặng. Lúc ấy, trong số những người niệm Phật ở Thường Lục có dị nghị về việc “tạo ác vô ngại”.Có nhiều người nổi loạn vì quá hoang mang lo ngại. “Tạo ác vô ngại”nghĩa là “suy nghĩ về tạo ác như thế nhưng không bị trở ngại”, một chủ trương có tính cách phản luân lý, phản lại xã hội của môn phái lúc bấy giờ. Bởi vì, Phật A Di Đà cứu độ tất cả những người ác, tạo ra chướng ngại nếu họ biết quy ngưỡng về. Như vậy, chúng ta phải suy nghĩ ra sao và sống như thế nào về sự răn cấm việc ác và thực hành điều thiện?

Đó là sự nghi ngờ tự lực của hành giả về cứu độ vô ngại của Đức A Di Đà. Với chúng ta cho đến khi chết vẫn còn mang theo những phiền não của phàm phu, chẳng có việc nào hoàn toàn thiện, phải ngăn chận việc ác, phải tạo ra việc thiện như thế nào, để nhờ tha lực được nhiếp thọ. Như thế chẳng phải là một thái độ sao?

Trước tiên, đối trước tấm lòng từ bi của Phật A Di Đà, chúng ta có nhiều mong ước nhưng trong tự ngã vẫn còn tà kiến, lo sợ cho nên Pháp Nhiên nói rằng: “Kẻ tạo ác tự thân vẫn có thể niệm Phật. Thật ra, nếu không có chất liệu tạo ác, không ham muốn niệm Phật, tâm trở nên rỗng tuếch”[136]. Với chúng ta, những chúng sanh phàm phu đầy phiền não, tiếp xúc ác duyên, phạm ác nghiệp, sống khổ đau, mình và người đắm chìm trong khổ não. Do vậy Đức Như Lai phát nguyện cứu độ những kẻ phàm phu ngu ngốc, chỉ cho một con đường chân thật đã được chọn lựa đó là niệm Phật. Ai nhận ra được con người ngu ác nầy, tự xấu hổ và dành hết khả năng của mình, tinh tấn đi theo con đường thênh thanh rộng được được chở che bởi Bổn Nguyện Niệm Phật của Như Lai. Thật là cảm động trước hình ảnh Đức Như Lai với bổn nguyện đại bi dang bàn tay ấm áp mà tiếp độ, nuôi dưỡng chúng sanh niệm Phật. Chính nhờ niệm Phật, mọi ác nghiệp sẽ tiêu tan. Thế nhưng cũng có người quan niệm sai lầm rằng niệm Phật chính là những hành động để cho an tâm về những ác nghiệp ấy. Đây chính là một nổi buồn, mà Pháp Nhiên đã thốt lên như vậy.

I.3.7.2Niệm Phật Chẳng Phải là cái Bùa để được miễn Tội

Bổn nguyện niệm Phật chính là xưng danh hiệu để tội lỗi được tiêu trừ, chẳng phải là cái bùa để miễn tội. Thường thì theo như lời nguyện thứ 18, được trình bày ngoại trừ những kẻ phạm tội ngũ nghịch và tội hủy báng Chánh pháp, tất cả đều được cứu độ, nghĩa là Đức Như Lai loại những người phạm tội ngũ nghịch và tội hủy báng Chánh pháp, bởi vì đối với chúng ta đó là tội nặng. Việc đó cho thấy Đức Như Lai nghiêm khắc chỉ trích lối sống tội lỗi, nhưng nếu xấu hổ khi biết rõ tội và hồi tâm, bước lên con đường Phật Đạo, đây chính là giai đoạn thoát chết sống lại[137]. Con đường Phật Đạo tuyệt vời từ lâu chúng ta quên bẳng cho nên gây ra những tội nghiệp của kẻ phàm phu, song lúc nhận chân rõ ràng tội lỗi ấy, khởi niềm tin Phật pháp một cách chân thành, chúng ta là một người Phật Tử chơn chánh đầy đủ từ bi trí tuệ của Như Lai. Từ đó phải nói rằng: “Suy nghĩ việc ác là điều chấn động”,chứ không phải tư tưởng cũng như hành động của việc tạo ác vô ngại.

Tóm lại, “Dẫu cho có thuốc nhưng vẫn uống độc dược”là chuyện của những người ngu, Thân Loan nói như thế. Cũng giống vậy trong “Ngự Tiêu Tức”có nói: “Người say càng uống càng say, chẳng giảm chút nào. Giống vậy, càng uống thuốc độc, độc hại càng gia tăng. Tuy rằng có thuốc bổ, nhưng vẫn cứ muốn uống chất độc, bệnh càng ngày càng nặng. Do vậy, ai niệm đến danh hiệu của Phật một cách lâu dài, chắc chắn đời sau sáng sủa hơn và thân nầy sẽ được che chở”.

Ở đây nói rằng: “Có thuốc hay” nhưng vẫn dùng chất độc. Chất độc sinh ra não phiền nhưng nào có hay biết, làm tổn hại đến mình và người, vì chất độc ấy làm cho thân đau đớn và nếu biết thuốc hay, phải chân thành cảm ơn món thuốc hay đó. Hãy cẩn thận với chất độc, đừng đụng đến, chỉ một ly thôi, giới cấm cũng không cho phép.

I.3.7.3Luân Lý Tánh của Người Niệm Phật

Ai có lòng tin nơi bổn nguyện và niệm Phật phải chân thành cảm niệm tâm đại bi của Phật A Di Đà, bởi vì Ngài đã đánh thức chúng ta thức tỉnh biết tàm quý và ra khỏi ngu si. Tâm Đại Bi Phật là nguyên động lực chân thành cảm tạ và tàm quý xấu hổ. Đáp ứng tâm đại bi Như Lai, chúng ta cẩn trọng với năng lực giới hạn của mình và bắt đầu đời sống mới. Từ đó, luân lý của người Niệm Phật được phát sinh, như Thân Loan nói trong “Ngự Tiêu Tức”rằng:

“Ai có niềm tin tha thiết với Phật, sẽ được lưu chuyển cả thân nầy. Ai có lòng tin chân thành gần gũi, người ấy được Phật A Di Đà quý thương. Tấm lòng chân thật từ ban sơ ấy sẽ rộng mở, tăng trưởng. Được che chở dưới bóng mát từ bi, cuộc đời có ý nghĩa hơn, được Phật Thích Ca và Phật A Di Đà khơi động niềm tin vãng sanh. Chắc chắn giác ngộ sẽ không còn xa nữa, nếu chí tâm tin tưởng và niệm Phật”.

Trước hết, những người mới nghe bổn nguyện niệm Phật, tự thân mình để ý những tội lỗi, nghi ngờ cứu độ, cũng như người được cứu độ, bởi vì vốn còn là phàm phu, dẫu có ngưỡng vọng bổn nguyện mong được cứu độ, nhưng phiền não còn dẫy đầy cho nên không thể nhận rõ tâm nầy là thiện hay ác, chỉ tin lời và chấp nhận Phật dạy sẽ được cứu độ mà thôi.

Thế nhưng “những ai có lòng tin chân thành với bổn nguyện Phật, lo sợ phiền não của mình ngày càng dày hơn và buồn cho nghiệp ác tiếp diễn mãi mãi lôi kéo thân nầy, tuy nhiên tin tưởng bổn nguyện Phật A Di Đà một cách chân thành và hoan hỷ niệm danh hiệu Ngài, tâm sẽ thuần thục. Trước khi nghe bổn nguyện, có thể suy nghĩ tâm phiền não vẫn y nguyên, không làm thiện, không an với những việc ác, sau khi nghe bổn nguyện, xả bỏ tâm ấy, xa lìa cuộc sống yếu đuối nầy và lấy tâm để minh chứng. Hơn nữa, tin rằng lúc vãng sanh sẽ có Phật Thích Ca và Phật A Di Đà khuyên bảo, tâm chân thật khởi lên. Sau khi tâm chân thật khởi lên, bất cứ việc gì từ xa xưa như thế nào đi chăng nữa vẫn thành tựu như thường”.Như vậy có rất nhiều đổi thay trong tình trạng tinh thần trước khi nghe Bổn Nguyện, nhờ bổn nguyện mà tinh thần những người Niệm Phật chuyển biến nhiều hơn. Có thể nói rằng thay đổi ngay từ những sai sót căn bản ban đầu.

Suy nghĩ qua tự ngã của chúng ta trong cuộc sống thường nhật luôn có tính cách chủ quan, và chi phối tất cả. Thật đáng buồn tâm con người chỉ thấy rõ khi được yêu hay khi bị giận. Người niệm Phật có tâm xấu hổ, nhờ tâm đại bi đại trí của Như Lai, tự chuyển đổi tâm mình cho chân chánh. Với Đức Như Lai, tất cả đều là những người Phật Tử quan trọng, bình đẳng dưới cái nhìn của Ngài. Từ phương diện ấy, tất cả chúng ta đều là huynh đệ, là đồng minh với nhau. Ngoài ra nếu ai lấy tự ngã làm chuẩn mực, sớm muộn gì cũng sẽ ý thức xa rời phiền não. Dùng tâm của Như Lai, nhìn sự vật sẽ nỗ lực hơn với phương pháp sống ấy, mà Thân Loan dạy ở trong “Ngự Tiêu Tức” rằng:

“Ai có lòng tin niệm Phật, cầu vãng sanh phải mở rộng tấm lòng cùng với những người bạn dốc lòng niệm Phật, cuộc sống nầy có ý nghĩa nhiều hơn”[138].

Người niệm Phật phải tha thiết tìm cầu và thật ấn tượng.


I.3.8Pháp Tự Nhiên Như Thế

Điều tự nhiên là những lời nói vốn tự nhiên.

(Lược bớt phần bình chú theo lối Hán - Nhật)

“Tự nhiên”[139]có nghĩa là những động tĩnh từ xa xưa cứ như vậy mà biểu hiện qua lời nói[140]. Sự cứu độ chúng sanh của Phật A Di Đà rất gần gũi. Không phải chờ chúng sanh cầu nguyện mới khởi tâm, mà chính Như Lai tự khởi tâm vậy. Phật A Di Đà dùng bổn nguyện tha lực tiếp dẫn người cầu nguyện về Tịnh Độ là việc tự nhiên. Còn chúng ta, những hành giả niệm Phật dù tốt hay xấu, không cần biết, cứ nghe một cách tự nhiên như vậy. (Thân Loan Thánh Nhơn Ngự Tiêu Tức – Thánh Điển – trang 768).

Giải thích:

I.3.8.1Chương Nói về Pháp Nhĩ Tự Nhiên

Chương Pháp ngữ nói về “Pháp Nhĩ Tự Nhiên” thuộc điều thứ 14 trong “Thân Loan Thánh Nhơn Ngự Tiêu Tức”và điều thứ 15 trong “Mạt Đăng Sao”chép rằng: “Căn cứ bản“Hiển Trí Thơ Tả”lưu truyền từ chùa Tổ Chuyên Tu thuộc phái Takada của Chơn Ngôn. Vào tháng 12 năm Chánh Gia[141]thứ 2, Hiển Trí ở Shimotsuke No Kuni Takada lên Kinh Đô (Kyoto) đến chỗ ở của Thiện Pháp[142]tại đường Tâm Điều Phú Tiểu, tình cờ gặp Thân Loan được nghe pháp ngữ trực tiếp, nên Hiển Trí tự ghi lại.

Lúc ấy, Thân Loan đã 86 tuổi. Những câu hỏi của Hiển Trí được trả lời bằng những pháp ngữ rành mạch. Bản của Hiển Trí giống như nguyên bản ghi là chương “Tự Nhiên Pháp Nhĩ”cũng như phần sau của “Tam Thiếp Hòa Tán” thuộc bản của “Văn Minh” đã sao lục lại. Thế nhưng ở đây ghi rằng: “Đây là bút tích của Thân Loan lúc 88 tuổi”. Cũng có thể đây là nét bút pháp ngữ cuối đời vì Thân Loan đã 88 tuổi.

Căn cứ theo hai bản của Hiển Trí và của Văn Minh, đầu tiên đều có giải thích “Hoạch Đắc Danh Hiệu”tiếp theo giải thích chữ “Tự Nhiên”. Theo tìm hiểu của Hiển Trí “Hoạch Đắc Danh Hiệu Tự Nhiên”;hoặc “Hoạch Đắc Danh Hiệu Tự Nhiên Pháp Nhĩ”là những chữ dường như đã có trước đó. Thế nhưng không rõ những từ ấy xuất xứ từ đâu. Bản “Mạt Đăng Sao” giải thích rằng: “Hoạch Đắc Danh Hiệu”là tỉnh lượt một phần. Rồi giải thích nội dung phần “Tự Nhiên Pháp Nhĩ” cũng không có gì thay đổi mấy. Thế nhưng về chữ nghĩa có mất mát ít nhiều. Vì đây là hình thức mà các môn đệ đã nhận được phần viết tay của Thầy mình. Không những chỉ có thế, khi về già Thân Loan có những lời pháp, được xem như những châu ngọc đáng giữ gìn hơn.

I.3.8.2Tự Chính Là Như Nhiên

Chữ “tự nhiên” nguyên thủy ở Trung Hoa, Lão Trang thường hay thích dùng, ví dụ như Lão Tử cho rằng: “Đạo chính là pháp tự nhiên”. Trang Tử thì gọi rằng: “Thuận theo tự nhiên của mọi vật để dung chứa cái không, để trị thiên hạ”.Không cần thêm bàn tay con người vào, nguyên thỉ của sự vật vốn như vậy. Khi Phật Giáo du nhập vào Trung Hoa, mượn thuật từ nầy để dùng với những thuật từ Chân Như, Niết Bàn, vốn biểu hiện sự vượt ra và thoát khỏi mọi trói buộc, nhưng lại thuộc lãnh vực Vô Phân Biệt Trí. Hơn nữa “tự nhiên” nghĩa là ngôn ngữ biểu hiện vượt lên trên mọi suy nghĩ phân biệt của con người, có tính cách tuyệt đối chân thật.

Phần nửa sau chương “Tự Nhiên Pháp Nhĩ”có nói: “Gọi Vô Thượng Phật là không hình tướng, không hình dạng, chỉ tự nhiên như vậy”. Vô Thượng Phật có nghĩa là Vô Phân Biệt Trí, hoàn thành và đối lập với lý nhị nguyên, giác ngộ cao tột. Với chúng ta, với suy nghĩ lấy chủ thể làm trung tâm, cho nên có hư vọng phân biệt và vẻ vời ra, thực tế không có hình tướng. Ta và người; sanh và tử; thiện và ác; tịnh và uế v.v.., là những hình thức hạn định, phải vượt lên khỏi hình thức ấy, đó mới chính là cảnh giới của Vô Thượng Phật, mà việc nầy đã có từ thưở ban sơ, cũng còn gọi là Chân Như[143]. Lại cũng nói là Pháp Nhĩ hay còn gọi là Pháp Nhĩ Đạo Lý.Đây là cách dùng những danh từ chuyên môn Phật học. Pháp, tự nó là như vậy, nên gọi là Pháp Nhĩ. Hầu như tất cả mọi sự mọi vật trên đời, nguyên thỉ của nó vốn là như vậy, tồn tại với lý tánh cố hữu của vạn vật. Đồng thời, Tự Nhiên cũng như Pháp Nhĩ, dẫu cho gọi cách nào đi chăng nữa, con người phải vượt qua khỏi sự đo lường ấy, để đi vào thế giới chân thật mà ngôn ngữ biểu đạt rằng: “tự chính là như nhiên”“pháp ấy là như vậy”[144].

I.3.8.3Nên Rõ Biết về Tự Nhiên

Thân Loan gọi lãnh vực của tự nhiên là Vô Thượng Phật hoặc Vô Thượng Niết Bàn, mà Phật A Di Đà thị hiện hình dáng là Phật để cho chúng ta thấy. Tiếp theo câu văn phần trước gọi là “Không hình thức, đầu tiên chỉ nguyện với Phật rồi nghe được. Phật A Di Đà là tự nhiên như thế”.Theo Thân Loan, đó là một thế giới chân thật, dựa vào chân thật ấy, chúng ta được tỏ ngộ và tuyệt nhiên không có gì khác hơn.

Vì vậy, lãnh vực kỳ diệu được biểu hiện vượt lên khỏi phạm vi của ngôn ngữ. Cảnh giới Tịnh Độ của Phật A Di Đà được biểu hiện qua hình thức vi diệu vượt lên trên mọi hình thức bình thường của thế giới. Sự cứu độ hàng vạn người, một cách không phân biệt, khi được nghe danh hiệu, vượt lên trên mọi suy tính đo lường của con người, đó là sanh tử nhứt như, oán thân bình đẳng, cũng còn gọi là tự nhiên, chân như. Qua các hoạt động, chúng ta biết những biểu hiện trên. Riêng chúng ta, những chúng sanh chỉ cần niệm Phật, sẽ được Phật duỗi tay tiếp dẫn về thế giới kỳ diệu khác. Việc nầy Thân Loan gọi là tự nhiên của bổn nguyện lực, qua những việc làm như thế.

I.3.8.4Từ Tự Đến Nhiên

Để rõ biết điều nầy, Thân Loan giải thích về sự tự nhiên. Hơn nữa, chữ “tự” là bổn nguyện của Phật A Di Đà hiển hiện. Không phải dùng để chỉ cho việc thiết lập cứu độ đối với những hành giả như chúng ta. Chữ “nhiên”nghĩa là tin tưởng vào bổn nguyện, niệm Phật vãng sanh, việc nầy cũng không phải vì hành giả, mà chính tự nơi bổn nguyện của Như Lai thành tựu như vậy; nên gọi đây là sự tự nhiên.

Điều đó giống như chữ “Pháp Nhĩ”bên trên đã đề cập. Pháp của “Pháp Nhĩ”là cứu độ hàng vạn người sanh về Tịnh Độ, gọi là pháp tắc bổn nguyện. Cứ như thế niệm Phật sẽ được thành Phật; nên gọi là “Pháp Nhĩ”[145]. Như vậy, Pháp Nhĩ là hoạt động về thệ nguyện của Như Lai, biểu thị pháp tắc cứu độ những hành giả niệm Phật, không ngoại trừ một ai. Tùy theo bổn nguyện lực và công đức của mình cứu độ cả vạn người được biểu hiện rõ. Điều nầy được Pháp Nhiên gọi là “Đến với tha lực thì sự không nghĩa ấy chính là nghĩa”. Ý nầy không khác với ý trên mấy. Khi tiếp nhận bổn nguyện tha lực, chúng ta, kẻ nghe pháp không cần so đo (không có nghĩa) là một đạo lý chơn chánh (ấy là nghĩa) vậy ư?

Tùy theo bổn nguyện lực của Phật A Di Đà, ta giao phó mình cho bổn nguyện Phật A Di Đà tiếp dẫn về Tịnh Độ, cho nên dẫu cho có thiện hay ác đi chăng nữa, các hành giả không cần suy tính, cứ để tự nhiên như vậy, khi ta được nghe như thế. Đó chính là điều nghe từ Pháp Nhiên.

Pháp Nhiên dùng lời dạy ấy để nói rằng: “Đây là đạo lý của Pháp Nhĩ”, còn là điều được truyền lại. Còn tự nhiên Pháp Nhĩ không thấy xuất hiện trong những văn hiến khác.

Như vậy, đây là lãnh vực không còn sự phán đoán, vừa vượt lên trên cả lý trí toan tính của con người, vừa vượt lên khỏi lãnh vực phê phán có tính cách luân lý về thiện ác nữa. “Thiện cũng không tính mà ác cũng không lo”. Chúng ta sẽ được bao dung trong trạng thái yên ổn, được ở yên như thế trong một thế giới tha lực bất tư nghì, mà Thân Loan gọi đây là “Tự Nhiên Pháp Nhĩ”.Đây chính là biểu hiện khái niệm của giáo nghĩa bổn nguyện lực hồi hướng.

I.4Lời dạy về “Giáo Hành Chứng Văn Loại”

I.4.1Pháp Tạng Bồ Tát

Khi còn là Bồ Tát Pháp Tạng đã được Đức Phật Thế Tự Tại Vương thừa nhận.

(Lược bớt phần chú giải theo lối Hán - Nhật)

Đức Phật A Di Đà khi còn tu hành với danh hiệu là Bồ Tát Pháp Tạng đã được Phật Thế Tự Tại Vương thừa nhận. Ngài phát tâm từ bi cứu độ tất cả chúng sanh không phân biệt một ai. Vì thấy phương pháp cứu độ ấy hy hữu, Chư Phật ở các quốc độ khác để ý xem xét đến.

Cứ mỗi một quốc độ như thế, với lời nguyện nào cũng hoàn thành, như vậy có đặc tính gì đặc biệt? Các vị Phật khác cũng quan sát việc cứu độ chúng sanh sẽ như thế nào? Chúng sanh được cứu độ sẽ ra sao? Thiết lập một cõi Tịnh Độ hoàn toàn thù thắng. Không có thế giới nào hơn thế giới nầy. Những gì khác không cần để ý đến như lời thệ nguyện quảng đại vô biên phát bên trên. (Hành Văn Loại – Thánh Điển – trang 203).

Giải thích:

I.4.1.1Thánh và Tục

Căn cứ Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, xưa có một vị Quốc Vương nghe Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai thuyết pháp, cảm động rời bỏ vương vị trở thành kẻ tu hành “thân vô nhứt vật”[146]. Pháp danh của Vua là Pháp Tạng. Từ đó, có hai vị Vua, một tiền thân làm Quốc Vương ở thế tục là Bồ Tát Pháp Tạng, một vị cứu độ những người thế tục khỏi khổ đau là bậc Thánh Vương Thế Tự Tại Phật. Vua của thế tục được giáo hóa của Thánh Vương xả bỏ thế tục chuyển hướng thành địa vị bậc Thánh, hình thức xuất hiện của Bồ Tát Pháp Tạng. Ý nghĩa cao siêu nằm ở điểm nầy.

Thời xưa, làm Vua là một danh dự, địa vị ấy cao tột, độc nhất thống lãnh mọi quyền lực và tài sản, chỗ nương tựa của mọi người, vì thế thân tâm đắm chìm trong danh dự dục và sở hữu dục, bị những thứ ấy chi phối hoàn toàn. Ngôi vị và trị vì của vị quốc vương ai ai cũng mong muốn. Chỉ như vậy thôi cũng đủ thấy rất nguy hiểm.

Quốc Vương khi nghe Phật-pháp rồi vứt bỏ, xem địa vị Vua Chúa như cỏ rác, xuất gia và không mang một vật gì cả. Điều thứ nhất, con đường mà Phật khai mở sẽ đưa đến thế giới chân thật, cho nên cần xả bỏ hết tất cả những gì thuộc thế tục mà không hối hận, để đi đến cảnh giới an lạc thật sự khác. Điều thứ hai, nếu không một lần phủ định giá trị căn bản của thế tục, không thể biểu hiện cách sống chân thật rõ ràng được. Do vậy, Bồ Tát Pháp Tạng thiết lập cõi Cực Lạc Tịnh Độ, nên phải biết rằng, chắc chắn không phải là đường dây nối dài dục vọng lên cao hơn của đời sống thế tục, mà Cực Lạc Tịnh Độ chính là thế giới chân thật không có dục vọng của con người, không có suy nghĩ có tính cách hư ngụy.

I.4.1.2Phật Thế Tự Tại Vương và Bồ Tát Pháp Tạng

Đại Kinh không đề cập tên của vị Vua kia, vì đã xả bỏ tên tuổi rồi, nhưng các Kinh khác có đề cập đến danh hiệu của Phật và Bồ Tát. Danh hiệu ấy khác với tên thông thường của chúng ta. Nên biết rằng danh xưng luôn luôn biểu hiện ý nghĩa Phật pháp nghĩa cao siêu. Danh hiệu của Quốc Vương lại không nói rõ, chỉ cho chúng ta biết danh hiệu của Phật Thế Tự Tại Vương, vị sư phụ của Bồ Tát Pháp Tạng. Quốc Vương thể hiện tính cách tự tại trong mọi Phật sự như người thế gian mê hoặc được Phật Tự Tại cứu độ.

Pháp Tạng theo tiếng Phạn là Dharmakala. Dharma có nghĩa là Pháp, biểu hiện đời sống vĩnh viễn với chơn lý. Akala có nghĩa là nơi sanh ra, chỗ khởi nguyên, chứa nhóm v.v… Như vậy, Dharmakala nghĩa là chứa nhóm chân lý, nguồn gốc chơn lý. Đồng thời, Pháp Tạng cũng có nghĩa không phải kẻ tu hành bình thường, mà bên trong tuyệt đối chứa đựng chơn lý. Từ bổn nguyện thuyết pháp khai mở và làm cho cả vạn người đạt đạo, tâm ấy biểu thị rõ ràng ý nghĩa cao siêu cứu độ hàng vạn người liễu tri chơn lý.

Nguyên ngữ của chữ Bồ Tát là Boddhisattva, phiên âm là Bồ Đề Tát Đỏa. Không phải chỉ có tự mình giác ngộ, mà còn giúp cho những người tu hành khác, nỗ lực không giới hạn, không ngừng nghỉ để giác ngộ giáo lý chân thật. Theo Đại Kinh, Bồ Tát Pháp Tạng hoàn thành tự giác và giác tha của con đường Bồ Tát. Động lực của Bồ Tát Đạo là bổn nguyện được biểu hiện qua thệ nguyện tạo thành 48 lời thệ. Trong đó điều thệ nguyện quan trọng, tất cả chúng sanh ai tín thọ và trì niệm danh hiệu của Ngài, được vãng sanh. Đây là phương pháp cứu độ độc nhất biểu thị qua lời nguyện niệm Phật vãng sanh (lời nguyện thứ 18).

I.4.1.3Chọn Lựa Tâm Nguyện

Pháp Nhiên cho rằng Bồ Tát Pháp Tạng, với tâm từ bi lập nguyện tiếp dẫn tất cả chúng sanh về Tịnh Độ, nơi giác ngộ thanh tịnh, bình đẳng không phân biệt người hiền, kẻ dữ; người lành, kẻ ác; xuất gia, tại gia; phá giới, trì giới; giàu, nghèo. Ở đó không có phân biệt người thiện đứng riêng, người ác ở riêng, mà kẻ ác người hiền, kẻ lành người dữ, kẻ trí người ngu, kẻ trì giới người phá giới…, đều vượt khỏi con đường chấp thủ ấy. Đó chính là xưng danh hiệu Niệm Phật được tuyển chọn qua tâm đại bi bình đẳng vậy.

Không cần phải là người có trí mới niệm Phật, con đường niệm Phật rất dễ dàng chung cho cả vạn người, ai cũng có thể thực hành được. Xưng tụng danh hiệu Phật A Di Đà không chỉ dễ dàng mà là pháp hành tối thắng. Vì dễ dàng và thực tế, dẫu người ngu cũng có thể thực hành được. Vì tối thắng cho nên kẻ tội nặng cũng được chuyển đổi và đạt đến chỗ giác ngộ tối cao, nhờ vào công đức của Phật.

Bồ Tát Pháp Tạng cho đến chư Phật đều trải qua con đường tu đạo vất vả và hành đạo vô cùng khó khăn của chính mình để được giác ngộ giải thoát, song với tâm đại bi, tất cả đều được bình đằng xả ly. Dù một người lậu tận chưa dứt, vẫn có thể cứu độ qua một niệm xưng danh và sẽ được tiếp dẫn vãng sanh. Từ đó, Pháp Nhiên gọi đây là “Tuyển Chọn Bổn Nguyện Niệm Phật” như thế “theo lời nguyện và niệm Phật sẽ được về Tịnh Độ”.Rồi hướng đến mười phương chúng sanh để cứu độ, đây là sự cứu độ cả hàng vạn người và cũng là chỗ giác ngộ cao tột, thành tựu sở nguyện Phật Đạo tối cao. Đây là lời nguyện Vô Thượng thù thắng cũng là đại hoằng thệ rất hi hữu, luôn luôn được tán dương.


I.4.2Vãng Tướng Hồi Hướng và Hoàn Tướng Hồi Hướng

Với sự cẩn trọng, Tịnh Độ Chơn Tông là sự chỉ dẫn. Có hai loại hồi hướng. Một là Vãng Tướng và hai là Hoàn Tướng.

(Lược bớt phần bình chú theo lối Hán - Nhật)

Với sự cẩn trọng, Tịnh Độ Chơn Tông chỉ dạy việc lễ bái có hai loại hồi hướng. Thứ nhứt, vãng sanh Tịnh Độ gọi là Vãng Sanh Tướng. Thứ hai, trở lại uế độ gọi là Hoàn Tướng. Đối với pháp nghi của Vãng Tướng có cho biết rõ; nhưng thật ra đó là Giáo, Hạnh, Tín và Chứng. (Giáo Văn Loại - Thánh Điển – trang 135).

Giải thích:

I.4.2.1Bổn Nguyện Lực Hồi Hướng

Căn Cứ Tịnh Độ Chơn Tông, lời nguyện thứ 18 của Phật A Di Đà, Thân Loan soạn “Giáo Hạnh Chứng Văn Loại”. Trong đó, định nghĩa Tịnh Độ Chơn Tông và đặc biệt ở quyển 6 có viết rõ về vấn đề nầy. Đầu tiên, hiển lộ cung cách về giáo nghi của Tịnh Độ Chơn Tông như câu văn trên. Căn cứ vào đó, Tịnh Độ Chơn Tông chính là Bổn Nguyện Hồi Hướng, mà cốt lõi pháp nghi là triển khai giáo pháp niệm Hồng Danh, đó là sự khai mở ra hai tướng Vãng Tướng và Hoàn Tướng. Theo Vãng Tướng có bốn pháp biểu hiện rõ. Đó là Giáo, Hạnh, Tín và Chứng. Căn cứ theo đó, Thân Loan chỉ dạy những điều đặc biệt. Từ đó, ta hiểu rằng biểu thị ngôn ngữ của Bổn Nguyện Lực Hồi Hướng chính là hoạt động cứu độ của Phật A Di Đà.

Bổn Nguyện Lực hồi hướng là lời thệ nguyện cứu độ chúng sanh, khi Phật A Di Đà còn ở nhơn vị Bồ Tát Pháp Tạng phát lên 48 lời nguyện căn bản. Đặc biệt lời nguyện thứ 18 như bổn nguyện lực thành tựu cứu độ tuyệt đối. Qua lời nguyện, Phật hoàn thành việc tu hành từ những kiếp xa xưa ấy.

Hồi hướng có nghĩa là tự thân tu hành, được những công đức, đem công đức ấy ứng dụng vào mục đích đặc biệt. Qua lời nguyện, công đức của chính mình sẽ cứu độ những kẻ khác. Những hành hoạt năng lực Bổn Nguyện của Phật A Di Đà là những ngôn ngữ biểu thị tánh cách cụ thể, quan trọng vẫn là Phật A Di Đà tự hoàn thành công đức Đại Trí Đại Bi cứu độ hàng vạn nguời xưng danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật. Đây chính là Bổn Nguyện Lực Hồi Hướng vậy.

I.4.2.2Vãng Tướng Hoàn Tướng

Qua Bổn Nguyện Tha Lực, hoạt động cứu độ thật cụ thể. “Người được vãng sanh” là chúng ta, những người được Như Lai cứu độ và được vãng sanh về Cực Lạc được thể hiện như ở trước, ta thấy có hai loại: Vãng Tướng. Vãng Tướng, theo kinh “Đại Thừa Vô Lượng Thọ” việc nghe tức là Giáo; xưng tụng danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật là Hạnh; không nghi ngờ về bổn nguyện Đại Bi của Phật, mà ta tuyển chọn là Tín. Cuối cùng được Như Lai tiếp dẫn, đưa người Niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ khi lâm chung một cách chắc chắn, rồi hoàn thành giác ngộ là Chứng. Như vậy, ngay cả chúng ta, những kẻ phàm phu đầy dẫy phiền não, được chỉ dạy phép Niệm Phật, hành trì pháp niệm Phật, phiền não sẽ hoàn toàn tiêu diệt, thẳng đến Niết Bàn chính là Vãng Tướng. Nhờ phương thức niệm Phật và bổn nguyện lực của Như Lai, hành giả được Như Lai cứu độ rất cụ thể nên được gọi là Vãng Tướng Hồi Hướng.

Hoàn Tướng nghĩa là “kẻ trở lại”. Sau khi liễu ngộ sự thật vãng sanh Tịnh Độ, trở thành Phật rồi, tâm Đại Bi khởi lên, quay trở lại với thế giới đầy dẫy phiền não nầy, để thực hiện hạnh cứu độ người mê, thế là Vãng Tướng chuyển thành Hoàn Tướng. Hoàn Tướng cũng là những việc làm qua Bổn Nguyện Lực của Như Lai. Chính nhờ Bổn Nguyện Lực của Như Lai, chúng ta được hồi hướng về Hoàn Tướng, còn gọi là Hoàn Tướng Hồi Hướng.

I.4.2.3Gặp Chơn Tông

Như thế lâu nay công việc Bổn Nguyện Lực của Như Lai là “việc sanh, tử”mà chúng ta bị cuốn hút trong ấy chỉ biết mình. Vì sanh tử vượt trên lãnh vực giác ngộ, cho nên có một phương hướng mới, được biết có ý nghĩa khác hơn. Tùy theo diệu dược của Bổn Nguyện Lực thuộc về Vãng Tướng và Hoàn Tướng đối với thân nầy, chúng ta nên tạo ra đạo tràng Niệm Phật trong cuộc sống hiện tại, để khi chết được tiếp dẫn vãng sanhTịnh Độ, hầu khai mở pháp duyên của sự giác ngộ. Ở đó, cuộc sống diệu dược không giới hạn với khai phá của Hoàn Tướng, có thể cảm nhận được, đó là gặp gỡ với Tịnh Độ Chơn Tông nên được cứu độ. Trong “Cao Tăng Hòa Tán”Thân Loan nói rằng:

Hồi hướng thành tựu nơi Đức A Di Đà,

Là hai loại Vãng Tướng và Hoàn Tướng,

Đối với hai loại hồi hướng nầy,

Trở thành nơi hội ngộ của tâm hạnh[147].

Tâm Hạnh ở đây là tín tâm Niệm Phật. Tự thể tin bổn nguyện và niệm Phật gọi là Vãng Tướng Hồi Hướng của Như Lai. Còn Hoàn Tướng là cứu độ chúng sanh của chư Bồ Tát. Như vậy, hoạt động cứu độ của Phật A Di Đà bao gồm tất cả những việc nầy.


I.4.3Lời Dạy Chân Thật

Lời dạy chân thật ấy rõ ràng nơi Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ.

(Lược bớt phần bình chú theo lối Hán - Nhật)

Nếu nói dạy dỗ chân thật rõ ràng, điều nầy có nơi Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ.

Nếu nói về yếu nghĩa và nội dung của Kinh nầy, A Di Đà Như Lai khởi phát lời thệ nguyện, khai mở và hàm chứa chân lý bình đẳng cứu độ rộng khắp mọi người. Dẫu cho kẻ phàm phu ngu si cũng không buồn khổ lo lắng, bởi vì có thể tuyển chọn thực hành vãng sanh bằng cách niệm danh hiệu, mà đó là ngọc công đức được sáng tỏ như thế.

Thích Tôn xuất hiện trong cuộc đời nầy nói nhiều loại Kinh Điển; nhưng đặc biệt Kinh nầy cho mọi người biết lợi ích của trí tuệ chân thật và bổn ý được thể hiện. Đặc biệt, trọng tâm của Kinh nói về bổn nguyện của Đức A Di Đà Như Lai. Kinh nầy là bản thể của danh hiệu Phật. (Giáo Văn Loại - Thánh Điển – trang 135).

Giải thích:

I.4.3.1Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ

Đặc biệt, Thân Loan chỉ giảng Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, mặc dầu Pháp Nhiên tuyển ra ba bộ Kinh cho tông Tịnh Độ đó là: Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ; Kinh Quán Vô Lượng Thọ và Kinh A Di Đà. Thế nhưng, kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ mang những lời giáo huấn chân thật nên Thân Loan chọn kinh nầy làm giáo pháp chính của Tịnh Độ Chơn Tông.

Phần đầu của “Giáo Hành Chứng Văn Loại”“Giáo Văn Loại” đều lấy kinh nầy làm tôn chỉ.

Giáo có nghĩa là chỉ cho mọi người đạo lý chơn chánh và hướng dẫn họ. Lời Phật dạy trong kinh điển biểu hiện ý nghĩa cao siêu của đạo lý (Giáo-pháp) chánh đáng gọi là Giáo, vì chữ Giáo có nghĩa là ngôn giáo. Phần đầu của “Giáo Văn Loại”cho rằng: “Nếu hiển lộ của lời dạy chân thật, chính là kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ”.

I.4.3.2Lấy Bổn Nguyện làm Tông Chỉ

Phần đầu “Giáo Văn Loại”tường thuật đại ý của kinh Vô Lượng Thọ. Nội dung được tóm lược rằng: “Đức Như Lai nói kinh nầy lấy Bổn Nguyện làm tông, cũng chính là bản thể niệm danh hiệu Phật”còn gọi là “Kinh Tông Trí”[148]; nghĩa là kinh dạy về những điều cương yếu, còn gọi là “Kinh Bản Thể”, nghĩa là bản thể của kinh chính là căn bản vậy, mà bản thể kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ là việc niệm danh hiệu Phật. Kinh được nói về những trọng tâm của pháp nghi thuộc về Bổn Nguyện của Phật A Di Đà.

Bổn Nguyện ấy là lời thệ nguyện bằng Trí Tuệ và Từ Bi vượt khỏi tất cả, làm cho tất cả chúng sanh thật được an ổn bởi Phật A Di Đà, nói rộng ra là 48 lời nguyện, đại biểu là nguyện thứ 18. Ở đây, chúng ta thấy Bổn Nguyện ấy trong lời nguyện thứ 18. Hơn nữa, “Giáo Hành Chứng Văn Loại”mở rộng nội dung lời nguyện thứ 17 thuộc về Giáo và Hạnh, thứ 18 thuộc về Tín; thứ 11 thuộc về Chứng; thứ 12, 13 thuộc về Chơn Phật và Chơn Độ. Ngôn ngữ của Bổn Nguyện rất là nghiêm mật, nhưng tổng quan năm nguyện là nguyện thứ 18.

I.4.3.3Lấy Danh Hiệu Làm Chủ Thể#

Danh Hiệu Phật: Nam Mô A Di Đà Phật. A Di Đà Phật, mà trong nguyện thứ 17 thệ rằng:

“Khi ta thành Phật, vô lượng chư Phật trong mười phương thế giới đều nhớ nghĩ và xưng tán đến danh hiệu ta, nếu không phải thế, ta không ở ngôi Chánh Giác”[149].

Chư Phật trong mười phương xưng dương tán thán danh hiệu, còn chúng sanh trong mười phương, ai niệm danh hiệu Phật A Di Đà sẽ được cứu độ, bởi vì thệ nguyện nầy phù hợp với bổn nguyện của Đức Thích Tôn khi giảng kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, kinh nói về việc niệm danh hiệu. Nói khác, kinh nầy phát ra từ bổn nguyện của Phật A Di Đà, là nhơn quả cứu độ. Tựu trung, kinh nói về “Phật Nguyện Sanh Khởi Bổn Mạt”[150]cho ta biết danh hiệu Phật A Di Đà.

Phật A Di Đà cứu độ tất cả chúng sanh một cách bình đẳng, mà ai cũng nghĩ rằng chính mình sẽ đến cảnh giới ấy và cùng giác ngộ, nhờ nương công đức cứu độ của Như Lai qua lời thệ nguyện niệm danh hiệu và thành tựu bổn nguyện từ danh hiệu ấy, mà kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ truyền trao giáo lý chân thật cho tất cả chúng sanh. Nhờ niềm tin và hành trì, chúng sanh được tiếp độ. Hơn nữa, nội dung nguyện thứ 18 chính là Giáo, Hạnh, Tín, Chứng, Chơn Phật, Chơn Độ, khai mở kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, trình bày phương pháp niệm danh hiệu Phật, mà bản thể của kinh chính là danh hiệu.

I.4.3.4Bổn Hoài Của Sự Xuất Thế

Dù giáo lý cũng chỉ là những lời dạy phương tiện, nhưng bổn ý của Phật được sáng tỏ trong kinh điển. Lời dạy phương tiện chỉ bày những người chưa thành thục tiếp nhận trực tiếp những chân ý chân chánh, cho nên Như Lai mới dùng phương tiện chỉ bày. Bổn hoài của Chư Phật truyền trao những lời dạy không cao xa khó hiểu mà quyền biến để phù hợp với trình độ căn cơ người nghe. Muốn hiểu rõ bổn ý của Phật qua lời dạy chân thật, phải từ bỏ những lời dạy quyền biến phương tiện. Bổn ý của Phật Thích Ca xuất hiện ra đời thể hiện trong các kinh, mà cũng chính trong các kinh ấy biểu hiện bổn hoài của việc xuất thế.

Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ hàm chứa những lời dạy chân thật, dù thật rõ ràng rằng kinh điển mà Đức Thế Tôn thuyết trong một đời rất nhiều, nhưng chỉ có kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ biểu hiện bổn ý của Thế Tôn và nói lên bản hoài xuất thế, bởi vì trong đó hiển bày những lời dạy cao siêu chân thật của giáo lý Bổn Nguyện. Ngoài kinh nầy ra, không còn bản kinh nào hơn kinh nầy cả, cũng chính là lời tuyên bố: “Nhứt Thừa Cứu Cánh Cực Thuyết”[151].

Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ khai mở phương tiện cho tất cả chúng sanh thành Phật một cách bình đẳng, dù người trí hay người ngu, trình bày bổn ý đại bi của Phật bình đẳng cứu độ chúng sanh hàng muôn vạn người, cho nên gọi là kinh chân thật khai thị hiển bày bổn ý của Đức Thế Tôn khi xuất hiện nơi đời.

I.4.3.5Sự Lợi Ích Chân Thật

Phần đầu kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ trình bày như vầy: “Trước khi thuyết kinh nầy, Thế Tôn đi vào sâu trong Thiền Định, toàn thân sáng ngời đẹp đẽ trang nghiêm”. Sau đó, Ngài A-Nan muốn biết rõ việc nầy nên hỏi rằng: “Lòng đại bi của Như Lai cảm thông nỗi khổ đau đang bao trùm tam giới nầy mà xuất hiện ra đời, mang ánh sáng Đạo giải thoát cứu vớt quần sanh[152]đem trí tuệ chân thật lợi ích chúng sanh”[153].

Điều nầy được biết rõ rằng: “Chư Như Lai đều có lòng Đại Bi vô hạn, không phân biệt chúng sanh ở những cảnh giới mê muội nào, lân mẫn nguyện đến cứu độ. Vì thế, ai có lòng đại bi như thế mới xuất hiện trong đời nầy. Kinh nầy nói về tất cả những sự lợi ích chân thật của trí tuệ”. Bổn Nguyện của Phật A Di Đà đem trí tuệ làm lợi ích chân thật cho cả vạn người[154]. Bổn ý của những lời dạy chân thật xuất phát từ việc Thế Tôn nhận thấy tất cả Như Lai xuất hiện ra đời, vì muốn cho chúng sanh ra khỏi cảnh giới mê muội, cho nên thuyết kinh nầy.

I.4.3.6Kinh để Hồi Hướng về Đức Phật A Di Đà

Thế Tôn thuyết kinh nầy, Thân Loan chuyển bổn nguyện của Phật A Di Đà Như Lai đến cho chúng ta. Phần đầu Phật Thích Ca thuyết kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ về nguyện lực thứ 17 của Phật A Di Đà. Vì nguyện thứ 17, Đức Thích Tôn vì mười phương chư Phật thuyết kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ. Như vậy, nói theo nguồn gốc, chúng ta dùng kinh nầy hồi hướng đến Phật A Di Đà, theo nguyện lực thứ 17.

Thứ hai, theo Thân Loan, “Từ xưa, đức Thích Tôn là Phật A Di Đà, nguyện vào đời ác năm trược[155]cứu độ chúng sanh, ứng hiện thành Phật bởi vì loài người trong đời nầy. Thực ra, đức Thích Tôn thuyết pháp mà Đức A Di Đà Như Lai đã thuyết, vì thế kinh nầy hồi hướng đến Đức A Di Đà Như Lai ”[156].


I.4.4Hạnh Chân Thật

Đại Hạnh chính là xưng tụng danh hiệu của Vô Ngại Quang Như Lai.

(Lược bớt phần bình chú theo lối Hán - Nhật).

Đại Hạnh nghĩa là xưng tụng danh hiệu Vô Ngại Quang Như Lai. Hạnh nầy dùng công đức tốt đẹp nhiếp hóa, hoàn thành tâm nguyện của Đức A Di Đà Như Lai. Điều thiện chính là điều căn bản bổ sung cho công đức. Ngoài ra, việc làm nầy khai mở và chuyển hóa kẻ mê mờ mau tỉnh ngộ. Bản thể chính là vượt khỏi tất cả những sự phân biệt hư vọng đạt đuợc chân như thật tướng. Ngọc quý công đức được ban bố rộng rãi không ngằn mé, như biển cả mênh mông, đuợc gọi tên là Đại Hạnh. Bởi vì, đây chính là tâm đại bi trong lời nguyện thứ 17 hồi hướng Phật sự Như Lai, mà Phật sự ấy không phát xuất từ tâm địa bình thường của con người. (Hạnh Văn Loại - Thánh Điển – trang 141).

Giải thích:

I.4.4.1Việc Làm Của Chơn Tông

Trong Tịnh Độ Chơn Tông, cũng có người không thực hành về Hạnh; nhưng trong Phật Giáo không ai không thực hành. Chơn Ngôn[157]không phải là ngoại lệ, chỉ phủ định việc làm của tự lực mà thôi. Nói khác, đó chính là hạnh nguyện của Như Lai, ứng hợp với việc làm của Bổn Nguyện niệm danh hiệu Phật, bởi vì đó chính là việc làm và sự che chở của Như Lai thuộc về Bổn Nguyện. Niệm Phật là sự hành trì, hành động rất vĩ đại, được tán thán như hành trì chân thật. Ngoài ra, cũng là pháp thệ nguyện nhứt thừa. Ngôn ngữ nầy dùng để tán thán việc làm cao cả đó.

I.4.4.2Đại Hạnh Nghĩa là Gì?

Trong Đại Hạnh chữ “Đại”có ba ý nghĩa đó là: lớn, nhiều, hơn, ở đây Thân Loan muốn dùng chữ Đại nầy trong nghĩa Quảng Đại. Giống như chân như, lãnh vực giác ngộ của Như Lai biến mãn khắp mọi nơi. Biểu hiện của chân như chính là công đức danh hiệu rộng lớn vô biên, che chở bao dung tất cả chúng sanh không phân biệt. Ở đây, được tán thán xưng tụng là “Chân Như Nhứt Thật và Công Đức Bảo Hải”, là bản thể của công đức danh hiệu ấy.

Đanghĩa là nhiều, bổ sung thêm cho công đức vô lượng, thành tựu qua danh hiệu Như Lai, “Nhiếp lấy những thiện pháp khác, đầy đủ công đức căn bản”, cũng xưng tán về công đức vô lượng về danh hiệu.

Thắngcó nghĩa là hơn, danh hiệu Phật khi được ai đó chấp nhận xưng tụng, tự thân người ấy sớm đầy đủ công đức, phá trừ mê muội hôn ám. Vãng sanh thành Phật là việc làm hơn tất cả, cũng nói là “Cực tối viên mãn”chỉ cho việc dùng công đức của danh hiệu. Như vậy, công đức của danh hiệu đối với chúng ta thật là diệu dụng cho nên gọi là Đại Hạnh.

Chữ “Hạnh”trong chữ“Đại Hạnh”nghĩa là việc làm. Trong “Duy Tín Sao Văn Ý”,Thân Loan giải thích thêm về chữ “Hạnh” nghĩa là đầy việc làm. Ở đây, ta thấy chữ “Hạnh” vừa có nghĩa là việc làm, vừa có nghĩa là những hành vi. Song Hạnh chính là việc xưng tụng danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, không chỉ là việc làm, mà là bổn nguyện niệm Phật, bản thể chân như, trong đó có công đức, mà chúng ta giải trừ vô minh, ra khỏi phiền não, đến cảnh giới Niết Bàn an lạc. Hành vi nầy chính là một việc làm vĩ đại, việc làm chân thật.

I.4.4.3Việc Làm Không Phải ở Tự Lực

Đồng thời, khi xưng tụng danh hiệu Phật, việc làm ấy không phải là việc làm của kẻ phàm phu. Nếu là việc làm của kẻ phàm phu, việc ấy chỉ toàn là phiền não. Ví dụ dẫu cho có Niệm Phật, nhưng chỉ là biến hình của ngã dục, thỏa mãn giận ghét, trở thành chấp thủ. Việc làm ấy không cắt được phiền não, đến Niết Bàn an lạc, không do công đức làm chủ thể. Do vậy, Thân Loan cảnh báo rằng “việc làm như thế không phát xuất từ lòng đại bi”. Với chúng ta, niệm Phật xuất phát từ miệng, không phát ra từ tâm phiền não vọng niệm, mà phát ra từ nguyện đại bi của Như Lai, được gọi là thanh tịnh chân thật.

Xưng danh không tác dụng đối với những kẻ phàm phu, mà chúng ta phải nương vào bổn nguyện lực của Như Lai, biểu lộ trong việc làm, cho nên trong “Hành Văn Loại” Thân Loan cho rằng “Điều ấy không phải là việc làm tự lực của Phàm Thánh”. Trong “Tịnh Độ Văn Loại Tụ Sao”[158]Ngài cho rằng: “Đây không phải là việc làm hồi hướng của phàm phu, mà là việc hồi hướng đến Đại Bi, không gọi là hồi hướng”.

Dĩ nhiên kẻ phàm phu, ngay cả những bậc Thánh đi nữa nếu so đo một ít tự lực của mình, thực hành niệm Phật cũng là giả trá, không gọi là Đại Hạnh, cũng chẳng phải chân thật. Nói khác, xưng danh hiệu ấy là biểu hiện âm thanh Như Lai, mỗi khi niệm Nam Mô A Di Đà Phật, phiền não sẽ đóng chặt, gọi ta tỉnh dậy để hướng tới thế giới giác ngộ. Do vậy, kẻ phàm phu biểu hiện Như Lai qua những việc làm ấy.

Việc xưng danh Vô Ngại Quang Như Lai, mà trong “Luận Chú”,Thân Loan cho rằng xưng tụng là “Quy Mệnh Tận Thập Phương Vô Ngại Quang Như Lai”. Danh hiệu 10 chữ nầy “đầy đủ tất cả Chư Phật trong mười phương thế giới, đời nầy đến đời khác, cứu độ rốt ráo tất cả những sự chướng ngại bằng năng lực cứu độ của Như Lai”.Xưng danh hiệu Phật A Di Đà như mời gọi đến nghe Như Lai thuyết pháp, mà những ai nghe lời gọi của Như Lai, sẽ được cứu độ trong từng niệm, từng niệm, không có gì chướng ngại. Nói khác, xưng danh hiệu cũng là việc làm của Như Lai[159]. Đồng thời, xưng danh hiệu là sự biểu hiện hạnh Như Lai của những người phàm phu. Trước đây, Như Lai cho rằng đây là ý nghĩa của những hành trì xưng danh, mà nguyện cũng chính là bổn nguyện của Như Lai vậy.


I.4.5Sắc Mệnh của Bổn Nguyện Mời Gọi

Quy Mệnh nghĩa là trở về với sắc mệnh Bổn Nguyện mời gọi.

(Lược bớt phần bình chú theo lối Hán - Nhật).

Chữ Nam Mô nghĩa là quy mệnh, mà quy mệnh với Bổn Nguyện Phật A Di Đà. Lời mời gọi chúng ta như một sắc mệnh quay về Bổn Nguyện Tha Lực. Còn phát nguyện hồi hướng nghĩa là Đức Như Lai từ xưa đã phát nguyện cứu độ chúng sanh. Bây giờ đối với chúng ta,làm sao được vãng sanh, chính là tâm nguyện từ bi vậy. “Tức Thị Kỳ Hạnh” nghĩa là Đức Như Lai chọn việc làm nầy như Bổn Nguyện. (Hành Văn Loại - Thánh Điển – trang 170).

Giải thích:

I.4.5.1Niệm Phật Biệt Thời Ý Thuyết

Trong “Quán Kinh Sớ”phần “Huyền Nghĩa”,Thiện Đạo nói về danh hiệu và chú thích về sáu chữ nầy rất rõ. Sau đó, Thân Loan bình luận và giải thích về sáu chữ nầy rộng hơn. Đầu tiên Thiện Đạo giải thích sáu chữ như vầy:

“Chữ Nam Mô vừa có nghĩa là quy mệnh, vừa có nghĩa là hạnh, mà ai thực hành việc nầy sẽ được vãng sanh[160]. Trong thế kỷ thứ 6, thứ 7, giới Phật Giáo Trung Hoa lưu hành “Niệm Phật Biệt Thời Ý Thuyết”phân tích, bình luận và giải thích những vấn đề luận nghị và ý nghĩa Niệm Phật của Ngài Thiện Đạo.

Theo Nhiếp Luận Tông[161]thuộc nhóm nghiên cứu về “Quán Kinh” cho rằng nếu chỉ cần xưng danh hiệu, mà được vãng sanh, thì không khác những kẻ lười biếng, cho nên đã dùng “Biệt Thời Ý”chủ trương về phương tiện thuyết. Vì sao vậy? Vì khi niệm Nam Mô A Di Đà Phật, chữ Nam Mô chính là biểu hiện sự cung kính Như Lai. Đồng thời, không thể biểu hiện được qua lời nguyện vãng sanh Tịnh Độ, không thể nói là Hạnh. Ngoài ra, dù cho có xưng danh đến bao nhiêu đi nữa, mà không có hành chắc chắn không phải là nhơn vãng sanh về Tịnh Độ.

Điều ấy cũng không sai với Phật duyên mấy. Xưng danh nghĩa là duyên vãng sanh trong một tương lai xa, cho nên nói rằng xưng danh hiệu không có giá trị vãng sanh Tịnh Độ (Báo Độ), lãnh vực của sự giác ngộ là không đúng, nhưng có thể nói xưng danh hiệu đưa đến quả vãng sanh trong tương lai xa thôi, phải chăng dành những kẻ lười biếng? Đây chính là nối kết Phật Duyên với phương tiện thuyết kinh. Phải chăng vì kết quả trong tương lai (biệt thời) xa xôi, nhưng ngay bây giờ phương tiện nói về biệt thời ý cũng chỉ là cách nói chăng? Đây cũng là giáo thuyết có tính cách điển hình về niệm Phật vãng sanh.

I.4.5.2Nguyện Hạnh Đầy Đủ

Thiện Đạo cho rằng niệm Phật là nghiệp nhơn vãng sanh, được định sẵn trong Bổn Nguyện Phật A Di Đà. Chính Đức Thích Tôn và mười phương chư Phật chứng minh điều nầy, không có nghi ngờ ở đây. Dẫu tính toán tính cách đạo lý đi chăng nữa, khi xưng danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, Nguyện và Hạnh vừa bổ túc cho nhau vừa chứng tỏ niệm Phật quyết định vãng sanh không phải là thuyết phương tiện biệt thời. Đạo lý thật rõ về lối giải thích sáu chữ nầy.

Chữ nam mô trong Nam Mô A Di Đà Phật nghĩa là quy mệnh, mà quy mệnh nghĩa là tâm tín thọ lời dạy của Như Lai. Quy mệnh cũng có nghĩa là hướng tâm nguyện vãng sanh về Tịnh Độ. Hơn nữa, được hiểu là phát nguyện hồi hướng trong nguyện thứ 18, bởi vì khi niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật nghĩa là quyết định được vãng sanh, cho nên danh hiệu A Di Đà Phật gọi là phát nguyện vãng sanh. Từ đó, khi xưng danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, hành giả phải đầy đủ Nguyện và Hạnh. Đó chính là nhơn vãng sanh có tính cách đạo lý vậy.

I.4.5.3Giải thích 6 Chữ Qua “Hành Văn Loại”

Trong “Hành Văn Loại”“Tôn Hiệu Chơn Tượng Minh Văn”, Thân Loan giải thích sáu chữ như là tin thuận, nguyện vãng sanh và vâng theo sắc mệnh của Như Lai. Còn hành giả xưng danh là người nương vào Bổn Nguyện Lực chắc chắn sẽ được sanh. Đó là sự hiển bày đạo lý. Hơn nữa, theo “Hành Văn Loại”danh hiệu biểu hiện sự cứu độ của Như Lai cho mọi người. Ở đây, dùng để giải thích cho pháp thể ấy[162]. Hơn nữa, theo Thiện Đạo quy mệnh nghĩa là phát nguyện hồi hướng, có ba nghĩa chánh. Nương theo những ý ấy, Bổn Nguyện danh hiệu hàm ý năng lực Bổn Nguyện hồi hướng cứu độ mọi người của Phật A Di Đà.

Hơn nữa, ví dụ quy mệnh có trường hợp cho rằng đó là sắc mệnh mời gọi thuộc Bổn Nguyện. Như vậy, chữ Nam Mô không chỉ có nghĩa là quy mệnh mà còn biểu thị toàn thể Bổn Nguyện mời gọi thuộc về sắc mệnh của Phật A Di Đà. Có trường hợp gọi phát nguyện hồi hướng là phát nguyện của Như Lai đối với hành trì của chúng sanh mà có tâm hồi thí ấy. Nam Mô A Di Đà Phật, chính là biểu thị toàn thể ý nghĩa về tâm nguyện Đại Bi hồi hướng của Như Lai. Hơn nữa, “Tức Thị Kỳ Hành”nghĩa là tuyển lựa Bổn Nguyện. Không phải đơn giản chỉ tuyển chọn Bổn Nguyện bốn chữ A Di Đà Phật qua hành trì mà ở đây phải biểu hiện một cách rõ ràng trong việc tuyển chọn Bổn Nguyện của sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật.

I.4.5.4Sắc Mệnh Mời Gọi Của Như Lai

Đầu tiên chữ nam mô theo Thân Loan có nghĩa là quy mệnh. Quy mệnh có nghĩa là sự lễ bái và quy thuận theo lời Phật dạy. Đặc biệt, quy mệnh vừa là phụng thừa sắc mệnh của Như Lai, vừa có ý không nghi ngờ và quy ngưỡng về Như Lai. Như vậy, cũng có nghĩa là tín thuận, tín tâm.

Theo “Hành Văn Loại”, quy mệnh nghĩa là sắc mệnh mời gọi thuộc về Bổn Nguyện. Có lối giải thích khác, quy mệnh có nghĩa là hướng về Phật A Di Đà niệm thật tha thiết và thật rõ chắc chắn sẽ được cứu.

Thứ nhất, nếu sự cứu độ của Như Lai thuộc về Bổn Nguyện Lực Hồi Hướng, Nam Mô A Di Đà Phật chính là tiếng mời gọi và tiếp dẫn chúng ta. Thứ hai, không nghi ngờ Bổn Nguyện, tin tưởng với năng lực Bổn Nguyện bao phủ, che chở tín tâm của ta, với tự lực của ta không thể tự khởi lên được, cho nên phải niệm Nam Mô A Di Đà Phật, tất nhiên sắc mệnh được truyền sẽ được cứu độ. Ngoài tín tâm, rõ ràng không có gì khác hơn nữa. Đó là một cách giải thích khá tuyệt diệu. Những bậc Tổ ngày xưa gọi đây là: “Có sắc mệnh ra không cần tín tâm”.Thứ ba, nếu khi nghe tiếng Nam Mô A Di Đà Phật, Như Lai làm cho ta tỏ ngộ, niệm Nam Mô A Di Đà Phật cứ như thế niệm, khi nghe được sắc mệnh mời gọi qua bổn nguyện ấy. Hơn nữa, phàm phu niệm Phật không thể qua khỏi lời dạy của Như Lai như Haraguchi nói rằng:

“Chúng ta niệm và nghe Nam Mô A Di Đà,

Theo tiếng gọi sẽ đưa về gần gũi”

Tâm ấy được biểu hiện qua những vần thơ trên.

I.4.5.5Phát Nguyện Của Như Lai

Sự phát nguyện hồi hướng nghĩa là Như Lai phát nguyện và hồi hướng đến các chúng sanh. Chỉ cần chúng ta niệm danh hiệu, Đức Như Lai tìm cầu cứu độ và chọn lựa phương pháp trì niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật tiếp dẫn vãng sanh về Tịnh Độ.

Tâm nguyện Đại Bi vượt lên trên suy nghĩ của chúng ta. Khi hành trì và hồi hướng, chúng ta được tâm nguyện Đại Bi che chở qua lời niệm Nam Mô A Di Đà Phật, được tuyển chọn của tâm nguyện.

Trong đời thế tục nầy, tâm ta bị cướp đoạt mất, việc nguyện sanh Tịnh Độ đối với ta cũng khó tự làm được, vì rất yếu đuối so với thế giới Tịnh Độ chân thật. Tuy nhiên, tâm ta khởi lên hoài vọng trở về sống ở cố hương, cho nên câu niệm Phật làm cho thân ta nghe và nhận được sự bất khả tư nghì của câu Nam Mô A Di Đà Phật. Nhờ câu Phật hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” được cứu độ, đó chính là Bổn Nguyện làm cho Thân Loan cảm động dõi theo pháp môn nầy.

I.4.5.6Sự Thực Hành Bổn Nguyện

Tâm Đại Bi của Như Lai che chở và hồi hướng. Pháp môn nầy là niệm câu Nam Mô A Di Đà Phật, mà Thiện Đạo gọi là: “A Di Đà Phật chính là pháp môn ấy”, xưng danh hiệu Phật. Không phải chính ta niệm Phật được vãng sanh, mà qua hành trì pháp vãng sanh, được Đức Phật A Di Đà tuyển chọn quyết định tiếp dẫn vãng sanh, mà đây là biểu hiện Chánh Định Nghiệp quyết định công đức vãng sanh.

Niệm Phật là tin tưởng vào hành trì vãng sanh. Niệm Phật chính là tin tưởng vào Bổn Nguyện, được lựa chọn qua hành trì vãng sanh. Thân Loan muốn làm sáng tỏ hơn nên nói rằng: “Tức Thị Kỳ Hànhchính là tuyển chọn Bổn Nguyện". Hơn nữa, xưng danh có nghĩa là hành giả tin vào sự chọn lựa Bổn Nguyện, hồi hướng pháp hành niệm Phật lên Phật. Thân Loan cho rằng đây là: “Chuyên Tâm Phụng Hành”.

Như thế, Như Lai lập nguyện cứu độ tất cả chúng sanh. Vì thực hiện lời nguyện đại bi ấy, quyết định tuyển chọn những pháp môn vãng sanh mà ban bố. Đó là pháp môn niệm Nam Mô A Di Đà Phật. Như vậy, sắc mệnh mời gọi của Như Lai là lời thuyết pháp. Hoạt động cứu độ từ năng lực Bổn Nguyện biểu hiện tính cách cấu tạo sáu chữ của “Hành Văn Loại” được giải thích.


I.4.6Sự Thực Hành Một Niệm

Thực hành một niệm nghĩa là xưng danh nhiều lần để phát triển việc chọn lựa pháp môn dễ dàng cho đến cuối cùng.

(Lược bớt phần bình chú theo lối Hán - Nhật).

Theo Đức Phật, vãng sanh thành Phật là nhơn hồi hướng Tín, Hạnh. Cả Tín lẫn Hạnh việc nào cũng chỉ một niệm. Một niệm của Hành là số lượng xưng danh tối thiểu một tiếng có đầy đủ vô lượng công đức. Tuyển chọn dễ dàng và đồng thời niệm A Di Đà Phật là pháp môn tối thắng, mang ý nghĩa cao siêu, chọn lựa Bổn Nguyện Niệm Phật, mà các Kinh đã nói.

Kinh cũng gọi đây vừa là đạt công đức đại lợi ích vô thượng, bởi vì Bổn Nguyện Niệm Phật không phân biệt chúng sanh cho đến khi tỏ ngộ, vừa là Pháp Chân thật Vô Nhứt Vô Nhị[163]. Rõ biết việc nầy qua ngôn ngữ là điều lợi ích vô cùng.

Bây giờ, Ngài Di Lặc Bồ Tát nương vào một niệm gọi là ý nghĩa xưng niệm. Một niệm nghĩa là một tiếng, một tiếng cũng là một niệm. Hơn nữa, một niệm là một hạnh, một pháp tu. Ngoài pháp tu ấy, không thể gì biểu hiện gọi là Nhứt Hạnh Chuyên Tu. (Hành Văn Loại - Thánh Điển – trang 187).

Giải thích:

I.4.6.1Một Niệm Xưng Danh

Câu “cho đến một niệm” ở trong nguyện thứ 18 của Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ có ba vấn đề đó là: câu văn thành tựu, câu văn thứ bậc và câu văn phụ thuộc. Song theo Pháp Nhiên, ba vấn đề ấy là một niệm, là tất cả pháp tu một niệm. Hơn nữa, khi xưng danh một niệm là được rõ biết. Với Thân Loan, câu văn theo thứ bậc nghĩa là không tiếp xúc với cái gì hết; câu văn thành tựu ở nguyện thứ 18 là nhứt niệm, chính là một niệm của lòng tin. Khi vừa phát nguyện, tín tâm đã biểu hiện. Còn câu văn phụ thuộc là nhứt niệm là một niệm của pháp tu.

Lần lượt, “Hành Văn Loại” “Tín Văn Loại”giải thích rõ về việc đó nghĩa là mỗi một niệm Phật đều gia bị cho Tín, Hạnh, không lìa bỏ những pháp tu căn bản cần yếu.

Còn ở quyển chót của Kinh nầy, căn cứ vào công đức ít nhiều của hành giả nguyện vãng sanh Tịnh Độ có chia ra Thượng Bối, Trung Bối và Hạ Bối[164]để biểu hiện. Hạ Bối, theo Thân Loan, kinh nầy nói về tự lực vãng sanh, cho nên nhứt niệm không đề cập đến ở đây.

Lúc nói gần xong kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ, Đức Thích Tôn ủy thác cho Bồ Tát Di Lặc là vị Giáo Chủ trong tương lai giải thích những ý nghĩa quan trọng trong kinh nầy với lời phó chúc như sau:

Phật hướng về Di Lặc bảo rằng:“Khi nghe danh hiệu của Phật nầy, cho đến một niệm sẽ hoan hỷ vô cùng. Nên biết đó là người có đại lợi. Hơn nữa, đây cũng là một công đức vô thượng viên mãn”[165].

Thế Tôn hướng về phía Ngài Di Lặc và bảo rằng:“Khi nghe danh hiệu Phật A Di Đà và tin sự cứu độ, cả tâm lẫn thân đều hoan hỷ. Bất cứ ai chỉ cần xưng danh hiệu một tiếng thôi, thân nầy sẽ có công đức vô thượng, chắc chắn sẽ vãng sanh và sẽ thành Phật. Lợi ích vô cùng!”Ở đây có nói: “Cho đến một niệm”, một niệm nghĩa là hành nhứt niệm, xưng danh hiệu trong một tiếng, đó là cách giải thích về hành nhứt niệm. Thân Loan giải thích về hành tướng và nhiều lần (biến số). Đây là hai sự giải thích vậy.

I.4.6.2Thực Hành Công Đức Vô Thượng

Biến số nghĩa là số lần xưng danh hiệu. Số lần xưng danh hiệu ấy tối thiểu là một tiếng. Đây là cách giải thích về biến số bằng công đức biểu hiện, thuộc về pháp tu. Theo như sự phó chúc trong kinh nói rằng: “Cho đến một niệm là pháp tu đầy đủ công đức vô lượng”, là xưng danh Bổn Nguyện, được chọn lựa về Đức A Di Đà Như Lai. Thật dễ dàng, chỉ cần một tiếng niệm mà lại có công đức vô thượng.

Nói khác, Thích Tôn trao truyền cương yếu của kinh cho Ngài Di Lặc. Một tiếng niệm Phật được nói đó, chính là pháp hành của Bổn Nguyện tuyển chọn. Ở đây, chính là để rõ nghĩa duy nhất tối cao của Phật-Pháp Nhứt Thừa, Giáo-pháp công đức vô thượng bình đẳng cứu độ tất cả mọi người.

“Hành Nhứt Niệm”là phương pháp có tính cách tuyệt đối về Bổn Nguyện tuyển chọn, được thể hiện qua giáo thuyết. Thân Loan cho rằng: “Danh xưng biến số ấy là sự khai mở pháp tu dễ dàng cho đến số nhiều vậy”.

I.4.6.3Pháp Hành Và Sự Tin Thọ

Việc lưu ý ở đây là “Hành Nhứt Niệm”,chỉ cần xưng danh một tiếng có đầy đủ công đức vô thượng là giáo thuyết chỉ cho pháp hành về Bổn Nguyện. Xưng một tiếng mà quyết định vãng sanh không phải là biểu hiện của giáo thuyết, bởi vì pháp ấy vượt khỏi thời gian và không gian, cho nên đối với pháp niệm Phật chăm chỉ, biểu hiện qua “không hỏi thời gian lâu hay mau”và cũng “không quyết định về thời gian và nơi chốn cũng như các duyên”.Quyết định vãng sanh qua chữ “thời”là Giáo Pháp, không nghi ngờ, tin tưởng và thọ nhận. Đó chính là “thời”vậy.

Biểu hiện chánh yếu công đức thuộc về pháp hành, mà trong đó niềm tin thọ nhận biểu hiện là chính. Tuy nhiên, nên hiểu Hành và Tín trong “Giáo Hành Chứng Văn Loại”là một biểu hiện tin vào “thời”quyết định vãng sanh. Ngoài ra, giáo thuyết của cả Pháp Nhiên lẫn Thân Loan đều không cho rằng xưng danh chỉ một lúc là được vãng sanh. Điều nầy phải nên lưu ý.

I.4.6.4Nhứt Hạnh Chuyên Tu

Hành nhứt niệm thuộc về hành tướng, nghĩa là nói rằng:“Bây giờ phó chúc cho Di Lặc một niệm và một tiếng hay nói cách khác một tiếng niệm nầy, hoặc một niệm thành một hành nầy”.Ở đây giải thích nhứt niệm là một việc làm, mà một việc làm có nghĩa là dẫn đến hai việc làm. Ngoài sự niệm Phật để được vãng sanh, không có việc làm nào như vậy, mà phải nhứt niệm chuyên tu và hành trì Bổn Nguyện Niệm Phật. Đây cũng gọi là Hành Tướng nữa.

Nguyên thủy của “một”nghĩa là “không hai”.Niệm là xưng niệm. Trong tâm của mình chỉ nhớ nghĩ việc trì danh khi hành trì tức là một hành. Như Lai hồi hướng tuyển chọn pháp môn xưng danh cho mình, trong khi đó, chính mình lại làm những công việc tạp nhạp, hành tạp hạnh và tu tạp tu thật là sai trái, cho nên cần phải quyết định. Nếu không, những việc làm như thế không thể vãng sanh được, cho nên “chỉ niệm Phật A Di Đà, Ngài sẽ cứu độ”. Chính là nhứt hạnh chuyên tu, là hình ảnh tiêu biểu có thể chấp nhận được.

Như vậy, Như Lai tuyển chọn pháp niệm Phật nhứt hạnh, không phân biệt thiện, ác, hiền, ngu, dễ dàng và bình đẳng cứu độ tất cả chúng sanh. Ngoài ra, đây cũng là hạnh cao cả, mà hạnh nầy vượt lên trên tất cả các hạnh khác gọi là Pháp Hành Nhứt Thừa Vô Thượng. Không còn hạnh nào hơn cả, chỉ chuyên tu niệm Phật Nhứt Hạnh mà thôi. Đại Hạnh là việc niệm Phật về Hành Đức và Hành Tướng, khai mở Hành Nhứt Niệm qua “Hành Văn Loại”vậy.


I.4.7Lòng Tin Nhứt Niệm

Nhứt Niệm là sự tin tưởng được khai bày tức khắc, hiển thị gấp rút, tâm vui vẻ không bị che khuất, rộng lớn khó suy tính.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật).

Tín tâm chân thật ấy là Nhứt Niệm. Nhứt Niệm nghĩa là lòng tin như trên khai mở rõ ràng ngay từ lúc bắt đầu.Khi nghe Bổn Nguyện bất khả tư nghì có tính cách rộng lớn ấy, lòng tin hoan hỷ không bị che khuất.

Hơn nữa trong “Bổn Nguyện Thành Tựu” có nói về Nhứt Niệm nghĩa là lòng tin về Bổn Nguyện, đối với tín tâm không có hai tâm và không có tâm nghi ngờ, cho nên gọi là Nhứt Niệm. Đây gọi là lòng tin. Nhứt tâm thanh tịnh và là hạt giống vãng sanh về Báo Độ, là cảnh giới giác ngộ. (Tín Văn Loại - Thánh Điển – trang 250).

Giải thích:

I.4.7.1Thời Khắc Gấp Rút

“Tín Văn Loại” giải thích về nhứt niệm là lòng tin đối lại với pháp tu thực hành một niệm, mà trong nguyện thứ 18, phần Thành Tựu Văn, ở phần đầu quyển hạ kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ cho rằng:

“Ai nghe danh hiệu, tín tâm hoan hỷ cho đến một niệm và chí tâm hồi hướng nguyện sanh về nước kia, liền được sanh và trụ ở bất thối chuyển”[166].

Nhứt Niệm, theo Thân Loan là lòng tin một niệm, được giải thích theo hai chữ “thời khắc”cũng như “tín tướng”.Thời khắc được giải thích như là một niệm theo ước tính thời gian. Hơn nữa, một niệm là ngay lúc đầu tiên tâm vừa khởi lên, tin tưởng, nghe nhận, không nghi ngờ về danh hiệu Bổn Nguyện. Điều nầy cũng giống như trong “Nhứt Niệm Đa Niệm Văn Ý”[167]định nghĩa rằng: “Nhứt Niệm nghĩa là lòng tin lúc ấy không nghi ngờ”.

“Thời Khắc Bức Thiết” hoặc “Thời Giờ Có Hạn”nghĩa là biểu hiện ngay lúc đầu khởi lên tín phải ứng liền (Nhứt Ứng), cũng chẳng phải là chỉ có thể. Chữ “thời”nghĩa là “thời giờ không có ranh giới”, lại cũng có nghĩa là “thời gian thật gấp”. Thật ra, chúng ta không thể tính toán chiều dài nầy và đó là biểu hiện của thời gian trôi qua nhanh, không thể rõ biết được. Hơn nữa, lòng tin một niệm không trải qua thời gian. Vì sao vậy? Vì nếu chính mình tự tạo nên niềm tin, thật mất thời gian để chờ đợi thành lập tín tâm, cho nên từ Như Lai chở che niềm tin và chỉ chấp nhận hoàn thành. Do vậy, không cần trải qua thời gian thành lập tín tâm.

I.4.7.2Vĩnh Viễn Của Bây Giờ

Như thế, lòng tin Nhứt Niệm không trải qua thời gian, không thể đo lường thời giờ lâu hay mau được. Không đo lường về độ dài của thời gian nghĩa là thật gấp rút không thể có đối tượng và tính cách khách quan đối với một niệm được, đó là sắc mệnh của Bổn Nguyện khi thọ nhận không tính toán về trạng huống có tính cách chủ thể, không quyết định khách quan. Nếu lòng tin Nhứt Niệm gấp rút có tính cách đối tượng, hành giả cũng không nghe Bổn Nguyện kịp. Đó chẳng phải là lòng tin Nhứt Niệm sao?

Hơn nữa, Bổn Nguyện của Phật A Di Đà bao gồm thời gian cả quá khứ, hiện tại và vị lai, cho nên lời thệ nguyện cứu độ tất cả chúng sanh, trải qua ba đời, thời gian vượt khỏi đo lường Bổn Nguyện lâu dài, không để ý đến thời gian khi nghe biết và thọ nhận. Cũng có thể chỉ trong một tia sáng nhỏ thôi đầy đủ nguyên vẹn vô lượng thời gian.

Như vậy, lòng tin được khai mở lúc ban đầu là lòng tin Nhứt Niệm, mà khi vừa khởi lên, vượt qua khỏi thời gian, bao trùm cả thời gian lâu xa của tâm Phật. Nhưng không phải trải qua thời gian mê vọng, bị đóng khung bởi chấp trước của tâm con người mà được khai mở rõ biết lãnh vực Bổn Nguyện ngay lúc ấy.

Đồng thời, lòng tin Nhứt Niệm không phải chỉ đơn giản nói về thời gian, mà ngay bây giờ cho đến ngàn sau vĩnh viễn là thời gian. Lúc ấy những kẻ phàm phu ngu muội đầy phiền não, được Như Lai dùng thứ lớp Bổn Nguyện giữ nguyên, che chở, được vãng sanh thành Phật, vào trong Chúng Hội, trụ ngôi Chánh Định Tụ. Nơi đó, vượt lên khỏi suy tính đo lường của con người, tâm vui mừng khai mở đón nhận Bổn Nguyện quảng đại vô biên của thế giới ấy. Điều nầy được gọi là niềm vui của tâm bao trùm rộng lớn khó thể nghĩ bàn.

I.4.7.3Tín Tâm Không Hai

Hơn nữa, “Tín Văn Loại”giải thích giống như “Văn Bổn Nguyện Th��nh Tựu” về nhứt niệm rằng: “Nhứt niệm nghĩa là lòng tin không hai, chỉ một niệm”.Thật ra, một niệm được giải thích niệm nghĩa là Tâm. Nhứt niệm cũng có nghĩa là nhứt tâm, không có hai tâm, không có tâm nghi ngờ.

Ở đây, nhứt niệm được biết là Tâm không nghi ngờ về Bổn Nguyện và giống như giải thích về tín tướng của tín nhứt niệm.

Trước đã nói về hành nhứt niệm. Một niệm là pháp tu niệm Phật và một hành được giải thích là chuyên tu hành tướng. Đó là cách giải thích phù hợp với phân tích về tín tướng, cụ thể Tín, Hành của Bổn Nguyện, mà đã làm rõ qua Hành Tướng và Tín Tướng, như mọi người đã biết.

Hơn nữa, Bổn Nguyện, thệ nguyện cho đến mười niệm xưng danh có nói về ba tâm: Chí Tâm, Tín Nhạo và Dục Sanh. Ba tâm không gặp chỗ nghi ngờ về Tín Tưởng, Nhứt Tâm và việc làm của mười niệm biểu hiện chuyên tu về Niệm Phật Nhứt Hạnh của mình. Ở đây, rõ ràng Hành và Tín của Bổn Nguyện là nhứt tâm, chuyên tu và chỉ làm có một việc, cũng là điểm đặc sắc, mà Thân Loan nơi “Hành Tín Luận” cho biết rõ ràng về Hành Tín của Bổn Nguyện chính là một hành và một tâm không khác.

Theo giải thích về biến số (số nhiều) của hành nhứt niệm nói về một tiếng xưng danh có vô lượng công đức. Thực hành xưng danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật biểu hiện công đức vô thượng. Điều nầy, giải thích về thời khắc của tin nhứt niệm gọi pháp nầy (danh hiệu Bổn Nguyện) là lãnh thọ, không nghi ngờ và nhứt niệm tức thời. Pháp vô thượng thuộc thân, nhập vào Chánh Định Tụ. Vãng sanh thành Phật là biểu hiện quyết định vãng sanh, mà chúng ta rõ về Hành Pháp (Pháp) là tín thọ (căn cơ) thực hành sự Niệm Phật là Hành và Tin (Tín Tâm) là xác định rõ ràng liên hệ biến số của Hành Nhứt Niệm và thời khắc của Tín Nhứt Niệm.


I.4.8Lòng Tin Chân Thật

Chơn Tâm như Kim Cang, gọi là Tín Tâm chân thật.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật).

Bổn Nguyện Chí Tâm, Tín Nhạo và Dục Sanh dù danh từ thệ nguyện có khác; nhưng tất cả đều cùng chung một ý nghĩa. Điều nầy ở phần “Tam Nhứt Vấn Đáp” đã biết rồi. Vì sao như vậy? Vì lẽ cả ba tâm ấy là tâm chân thật, không nghi ngờ. Nhứt Tâm như Kim Cang phá vỡ vô minh, công đức làm cho Trí Tuệ kiên cố, gọi là Chơn Tâm Kim Cang. Chơn Tâm Kim Cang là Tín Tâm chân thật. (Tín Văn Loại - Thánh Điển – trang 245).

Giải thích:

I.4.8.1Chí Tâm, Tín Nhạo, Dục Sanh

Liên Như cho rằng: “Dòng Thánh Nhơn chỉ là một, lòng tin, theo khuyến hóa, là căn bản nhất”.Đặc biệt, đây là điều cốt yếu theo lời dạy về tín tâm của Thân Loan. Ngoài ra, trong “Giáo Hành Chứng Văn Loại” nói rõ về Tín Tâm và phần sau của “Tín Văn Loại”cũng có đề cập. Dù cho, Phật A Di Đà thành tựu pháp cứu độ cho vạn người, nhưng với ta không có tín thọ, việc cứu độ ta không được thành tựu. Thật không sai, lòng tin chính là sự khai phát tâm, nhưng nếu chúng ta không suy nghĩ đến pháp tu, dù cho Bổn Nguyện Đại Bi Đại Trí tiếp dẫn vãng sanh Tịnh Độ của Phật A Di Đà thế nào đi nữa, cũng không ảnh hưởng và chẳng lợi ích gì. Thân Loan gọi điều này là hồi hướng Tín Tâm từ Như Lai.

Trong nguyện thứ 18, Tín Tâm nguyện rằng: “Chí tâm tín nhạo, dục sanh ngã quốc..”[168]. Thân Loan cho rằng có ba loại tâm là Chí Tâm, Tín Nhạo và Dục Sanh. Chí Tâm có nghĩa là tâm chân thật. Tín Nhạo là tâm không nghi ngờ và Dục Sanh là tâm chờ đợi nhứt định muốn vãng sanh về Tịnh Độ. Thân Loan cho rằng ba Tâm ấy là việc hoàn thành của Như Lai cho chúng ta, Tín Tâm ấy là năng lực Bổn Nguyện Hồi Hướng. Hơn nữa Chí Tâm nghĩa là Như Lai thành tựu Trí Tuệ công đức Chân Thật.

Dục Sanh nghĩa là Tâm Đại Từ, Đại Bi hồi hướng với cả một tấm lòng Từ Bi. Tín Nhạo là công đức Trí Tuệ chân thật, mà dùng công đức nầy hồi hướng về Đại Bi, chính là Tâm quyết định của Như Lai, không nghi ngờ cứu độ chúng sanh trong mười phương.

Ba Tâm ấy nghĩa là Như Lai với Đại Trí Đại Bi “quyết định sẽ nhiếp thủ chúng sanh”mà nội dung chính là sắc mệnh kêu gọi chúng ta trở về.

Hơn nữa, nghe sắc mệnh về Bổn Nguyện tiếp dẫn mà chúng ta không nghi “chắc chắn sẽ được nhiếp thủ”. Có niềm tin như vậy, Như Lai thành tựu cả hai phương diện Trí Tuệ và Từ Bi. Như vậy, ba Tâm tất nhiên được Như Lai trợ giúp không gì khác. Chắc chắn rằng nghe và ngưỡng vọng sẽ được giúp ��ỡ, cho nên nhứt tâm tin tưởng vui mừng. Thế nhưng, chúng ta, những người phàm phu, nhờ Trí Tuệ và Từ Bi bổ sung công đức viên mãn, mà nhứt tâm vãng sanh thành Phật. Đây là chánh nhơn vãng sanh thành Phật.

I.4.8.2Như Lai Thành Tựu Ba Tâm

Điều nầy, được giải thích tường tận trong “Tín Văn Loại”“Tịnh Độ Văn Loại Tụ Sao”. những vấn đề Nhứt Tâm, Ba Tâm được chứng minh và giải thích chỉ là một Tâm. Thật ra, “Bổn Nguyện Ba Tâm”được phân tích và chứng minh rõ ràng chỉ là “Một Tâm” mà đó là nghĩa của “Pháp”.

Như Lai giải thích về Pháp Ba Tâm, vì ta có Tâm hồi hướng cho nên thuật lại một cách rõ ràng: Khi nghe và lãnh thọ chúng ta không nghi ngờ và một lòng tin tưởng, không gì khác. Vấn đề ba Tâm chính là Một xác lập nghĩa của Pháp và là chánh nhơn của Tín Tâm, về vãng sanh thành Phật.

Căn cứ vào đây, từ vô thỉ đến nay, chúng ta bị phiền não và vọng niệm trói buộc cho nên không thể cảm nhận lãnh vực giác ngộ thanh tịnh, Tịnh Độ, Từ Bi Trí Tuệ. Ngay cả, lòng tin thanh tịnh cũng chưa thể khởi lên và không sao khởi lên trong ta cho nên nói rằng: “Kể từ vô thỉ đến nay, tất cả loài quần sanh không có tâm thanh tịnh và sống trong nhiễm ô xấu ác, chẳng có Tâm Chân thật, mà toàn là hư giả tà ngụy”[169].Như Lai cho thấy tiếp xúc chân thật đầu tiên là lời cảnh tỉnh nghiêm khắc đối với nội tâm của con người. Tịnh Độ được đo bằng niềm tin, chắc chắn không khởi lên bằng sự phê phán, mà Thân Loan đã nói như thế.

Như Lai lo lắng cho chúng ta, những kẻ phàm phu đầy phiền não, nguyện thay thế tất cả chúng sanh tích chứa công đức tu hành trong vô lượng kiếp, hoàn thành Ba Tâm Thanh Tịnh Chân Thật, đấy là nhơn vãng sanh thành Phật cho chúng ta. Nhờ chí tâm vào công đức trí tuệ mà chứng ngộ chân như thanh tịnh. Vì lòng Đại Bi đối với tất cả chúng sanh, Bồ Tát mong muốn đạt được công đức Từ Bi hồi hướng về Phật. Phật trang trải tâm Từ Bi và Trí Tuệ cứu độ tất cả chúng sanh. Song chúng sanh chắc chắn phải Tín Nhạo, phải có tâm quyết định, không nghi. Ba Tâm sẽ “quyết định nhiếp thủ chúng sanh”, mà Nhứt Tâm Tín Nhạo được thành tựu. Đây chính là nghĩa công đức, khi niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật.

I.4.8.3Ba Tâm Tức Một Tâm

Như Lai hoàn thành Ba Tâm như thế cho chúng ta thấy không phải ba Tâm khởi lên cứu những kẻ phàm phu phiền não hoàn thành Bổn Nguyện, mà Ba Tâm Như Lai hòan thành cũng chính là Ba Tâm chúng sanh hoàn thành. Hơn nữa ba Tâm Như Lai chỉ cần ba Tâm chúng sanh nương câu niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật chắc chắn sẽ được nhiếp thủ[170]. Tín tâm, tâm không nghi ngờ khi nghe và thọ nhận sắc mệnh đại bi mời gọi, chắc chắn nhiếp thủ khiến cho chúng sanh được Tín Nhạo. Như Lai hoàn thành Ba Tâm, trong đó Nhứt Tâm Tín Nhạo là Một Tâm.

Với Ba Tâm của Bổn Nguyện, trong đó Tín Nhạo là Một Tâm vừa dùng để nhiếp thủ vừa biểu hiện đạo lý của Ba Tâm tức Một Tâm. Ở đây giải thích pháp nầy rất rõ ràng chánh nhơn Tín Tâm và năng lực Bổn Nguyện che chở Tín Nhạo Nhứt Tâm để vãng sanh thành Phật. Đó là nhơn thêm vào công đức Đại Bi và Đại Trí. Đây cũng là lối giải thích thật tuyệt vời và rõ ràng về niềm tin nội tại của năng lực Bổn Nguyện Hồi Hướng.


I.4.9Hai Loại Tin Sâu

Chính ta trong hiện tại là phàm phu tạo nhiều tội chướng trong sanh tử từ nhiều kiếp trước, bị đắm chìm trôi lăn trong đó, chưa có nhân duyên ra khỏi.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật).

Có hai loại Tin Sâu, mà tin Sâu nghĩa là niềm tin tha thiết của tâm đó là:

Thứ nhất, tự biết mình là phàm phu, phạm trọng tội, hoặc đang thọ nhận kết quả của quá khứ mê muội chìm đắm trong biển khổ, trôi lăn trong kiếp luân hồi. Bây giờ có lòng tin tha thiết, mong mỏi nhất định lìa bỏ và vượt qua dòng sanh tử nhưng không có ai tiếp tay giúp đở.

Thứ hai, tin, không nghi và không cong quẹo Bổn Nguyện mà Phật A Di Đà đã phát khởi 48 lời nguyện cứu độ chúng sanh, sẽ đuợc thâu nhiếp. Cũng tin một cách chắn chắn vào năng lực Bổn Nguyện và giao hẳn cho Ngài, đương nhiên sẽ được vãng sanh. (Tín Văn Loại - Thánh Điển – trang 217).

Giải thích:

I.4.9.1Nội Dung Của Tâm Tin Sâu

Theo Quán Kinh, Tịnh Độ chính là nơi biểu hiện Ba Tâm của người muốn nguyện vãng sanh đó là: Tâm Chí Thành, Tâm Tin Sâu và Tâm Phát Nguyện Hồi Hướng. Thiện Đạo cũng giải thích một cách tường tận và rành mạch trong các kinh “Quán Kinh Sớ”, “Tán Thiện Nghĩa”“Vãng Sanh Lễ Tán”, trong đó giải thích rõ ràng tâm tin sâu, được xem như là pháp của Thiện Đạo.

Trước tiên, nên hiểu Thâm Tâm nghĩa là gì? Đó không phải là Tâm sâu, mà là người có tâm tin tha thiết. Chính mình tin, không nghi ngờ và biết rõ Bổn Nguyện cứu độ của Phật A Di Đà. Những ai tin tha thiết sự tồn tại của chính mình, pháp cứu độ của Phật, chắc chắn được khai ngộ.

Nhưng trước tiên phải hiểu và tin vào hai vấn đề đó là nhân duyên và Phật pháp. Thâm tín không phải hai loại tín ấy, mà bên trong tín tâm bao gồm cả hai loại, mở bày và làm cho ta sáng tỏ.

Ngài Thiện Đạo, Pháp Nhiên và Thân Loan trong sự truyền thừa, từng vị một có tín tâm Tịnh Độ Chơn Tông và trình bày rốt ráo hai loại Tin Sâu nầy.

Căn cứ “Ngu Ngốc Sao”, nói về hai loại thâm tín như vầy “Bấy giờ, tin sâu là tha lực vĩ đại của Tâm Kim Cang sẽ trở thành biển Nhứt Thừa Vô Thượng của lòng tin chân thật”[171].Ở đây, có thể biết thêm rằng: “Như bây giờ tường thuật về hai loại tin sâu được Như Lai che chở tín tâm kiên cố như Kim Cang, đây là Pháp duy nhứt vô nhị[172]tối cao, thực hiện cho ta thấy như bên trên, mang nội dung rộng rãi như biển cả, biểu hiện cho những người có tín tâm chân thật.

I.4.9.2Hai Loại Tin Sâu

Thứ nhứt, niềm tin vào cơ duyên. Tự mình biết mình những kẻ phàm phu đầy dẫy phiền não, tội chướng sâu dày, chính mình mong muốn thoát khỏi sanh tử. Dù niềm tin quyết định nhưng nếu không có sự giúp đỡ của bất cứ một cánh tay nào, tự mình không làm được, niềm tin ấy hoàn toàn đo lường chính mình. Thứ hai, niềm tin Phật pháp. Tin chắc vào năng lực Bổn Nguyện của Phật A Di Đà, những tội chướng của phàm phu như chúng ta sẽ được cứu độ, đương nhiên được vãng sanh Tịnh Độ, đem tất cả những phiền não của tự thân giao phó cho năng lực Bổn Nguyện ấy.

Ở đây, tự mình hướng về giác ngộ, nhưng biết rõ khả năng không đủ, mình là phàm phu, có đầy dẫy phiền não, không làm gì được với sức lực yếu kém của con người, rất cần đến năng lực cứu độ của Bổn Nguyện. Chúng ta, những người đang sống trong cơn mê muội, không sao biết hết tự thân, dĩ nhiên càng không biết được Tâm của Như Lai. Chính không biết rõ mình và cũng không rõ biết Như Lai, chỉ lo việc vào ra thế giới hỗn loạn hoang dã, cho nên hướng về kêu cầu “cứu độ những kẻ phàm phu phiền não”. Trước tiên, nghe bổn nguyện, nhận được Chơn Tướng ngay trong lòng, tiếp nhận Pháp Chơn Tướng cho nên chư Tổ xưa từng nói: “Cơ duyên được Trí Tuệ Phật chiếu sáng, các pháp sẽ tỏ tường”.

Trong “Vãng Sanh Lễ Tán”, Thiện Đạo nói rõ về hai loại tin sâu đó là: Chơn Tướng của tự thân, Chơn Tướng của Bổn Nguyện, điều căn bản của Tín, Tri, mà Tín, Tri có nghĩa là không thể dùng tri thức của chính mình biết được, nhưng đó chính là nghe và quy ngưỡng Như Lai, chắc chắn được tiếp nhận, đây là cái gốc của Tín Tri.

I.4.9.3Hai Loại Một Thứ Của Sự Tin Sâu

Không phải do ta suy nghĩ mà có hai loại tín tâm sâu xa, nhưng trước sau, cả hai Tâm không khởi lên riêng biệt. Khi nghe “cứu độ những kẻ phàm phu đầy phiền não”, không có tâm nghi ngờ về sắc mệnh Bổn Nguyện mời gọi, mà chỉ một lòng tin sẵn sàng khai mở, chính là Tín Tâm Bổn Nguyện, “tin sâu hai mà một”[173]rõ ràng như thế! Thật là khó nghĩ bàn, một khi tín tâm về Bổn Nguyện tha lực được khai mở, dù cho đang đầy phiền não nhưng vẫn được cứu độ như thường, đó chính là hai loại pháp cơ bản, cũng gọi là hai loại tin sâu, nhờ niềm tin, tự lực nương vào tha lực, chỉ bày rất rõ ràng.


I.4.10Sự Chứng Quả Chân Thật

Hiển lộ chứng quả Chân thật, viên mãn quả vị lợi tha, chứng đạt quả vị tối cao của Niết Bàn Vô Thượng.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật).

Tiếp theo, nói về chứng quả chân thật. Nhờ tha lực của Như Lai, chứng đắc quả Diệu Giác (Phật Đà), giác ngộ Phật quả, nhập cảnh giới Niết Bàn tối cao. Hơn nữa, đây là nguyện thứ 11 hồi hướng chứng quả Niết bàn. (Chứng Văn Loại - Thánh Điển – trang 307).

Giải thích:

I.4.10.1Vãng Sanh Có Tính Cách Chung Chung

Theo giải thích kinh điển Đại Thừa, vãng sanh thông thường là xả bỏ uế độ, sanh về Tịnh Độ của Phật A Di Đà. Còn Thiên Thai Tông, Tam Luận Tông và Chơn Ngôn Tông, cũng nói nhiều về vãng sanh Tịnh Độ của Phật A Di Đà, nhưng đa phần tin cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà là nơi có thọ mệnh lâu dài, một thế giới có môi trường dễ tu, nơi đó người tu hành không gặp chướng ngại ác duyên, thường nghe Phật A Di Đà thuyết pháp, được Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Đại Thế Chí cùng với những vị Bồ Tát khác hướng dẫn. Nói chung tin rằng khi tu hành Phật đạo, gặp những ác duyên, muốn xả bỏ những điều không thích hợp ở thế giới Ta Bà, vãng sanh Tịnh Độ, nơi ấy thực hành tu học đúng phương pháp, chắc chắn sẽ thành Phật. Trường hợp nầy ý nghĩa của việc tu hành nghĩa là chuyển đổi nơi chốn mà nguyện vãng sanh.

I.4.10.2Vãng Sanh Khó Nghĩ Bàn

Ở đây, theo Thân Loan, Tịnh Độ Chơn Tông không phải là nơi chốn tu hành một cách đơn giản, mà là cảnh giới của Chư Phật, cảnh giới hoàn toàn giác ngộ của Đại Niết Bàn. Vãng sanh Tịnh Độ nghĩa là tất cả phiền não hoàn toàn tiêu diệt, thực hiện ngộ nhập Niết Bàn. Phải biết rằng giữa người vãng sanh và Phật A Di Đà có vị trí giống nhau không khác. Thông thường gọi thuyết: “vãng sanh thành Phật”[174].

Môn hạ của Pháp Nhiên đặc biệt rất lưu tâm về bổn nguyện tha lực, trong đó Thân Loan cũng có ảnh hưởng rất nhiều của chư vị tiền bối như: Kosai[175], Ryukan[176]cho rằng vãng sanh Tịnh Độ, Vô Lậu Trí Tuệ được khai mở, phiền não đoạn diệt, trở thành một phần của Chân Như Pháp Tánh. Thành Phật chắc chắn đầu tiên ở vào Sơ Địa[177], trở thành Bồ Tát không có gì khác với việc trực tiếp vãng sanh, hoàn toàn giác ngộ, tiến lên quả vị Phật Đà ngay, mà theo Thân Loan, đây là thuyết “Vãng Sanh Thành Phật”.Thật ra, lời dạy nầy bàng bạc trong tai, mà với Thân Loan vãng sanh thành Phật còn gọi là “Vãng sanh khó nghĩ bàn”,phân biệt với những quan niệm vãng sanh lâu nay.

Nhờ vào công đức Như Lai, tất cả chư Phật đều hồi hướng đến chúng sanh, tiếp dẫn vãng sanh thành Phật, gọi là niềm tin Nhân Đức. Còn Quả Đức chính là biểu hiện việc vãng sanh. Thật khó có thể tư lương, vì vãng sanh khó nghĩ bàn vượt lên trên tất cả quả báo bất khả tư nghì. Không có hai với Nhơn ấy sanh làm Phật và không có hai với quả ấy cũng chính là sanh làm Phật.

Vãng sanh được biểu lộ, đầu tiên trong “Chứng Văn Loại”, gọi là chứng Phật quả chân thật và cứu cánh. Chứng quả chân thật gọi là viên mãn quả vị lợi tha, quả vị Vô Thượng Niết Bàn tối cao.

Chứng quả chân thật nghĩa là từ năng lực bổn nguyện của Như Lai, ta chứng được quả Diệu Giác[178], đồng với Phật quả. Hoàn toàn dứt sạch phiền não, chứng đắc Phật quả, giác ngộ rốt ráo, chứng nhập cảnh giới Niết Bàn tối cao. Đây chính là Chánh Định Tụ khi diệt độ, phù hợp với lời nguyện thứ 11, quả đức hồi hướng Đại Niết Bàn.

I.4.10.3Bồ Tát Nhứt Sanh Bổ Xứ

Thân Loan cho rằng vãng sanh về chân thật báo độ, có thể thành Phật. Thứ nhất, nhân thành Phật là tín tâm của hành giả cộng với công đức Từ Bi Trí Tuệ của Phật. Căn cứ vào “Tín Văn Loại”, Tín tâm của hành giả trong đời nầy quyết định thành Phật và trụ ngôi Chánh Định Tụ, một phần của bậc Thánh, giống như công đức của Bồ Tát Di Lặc.

Khi lâm chung, chúng sanh niệm Phật thuộc loại Hoành Siêu[179]có tâm Kim Cang sẽ siêu chứng Đại Bát Niết Bàn cũng giống như Đại sĩ Di Lặc có tâm Kim Cang, ở bậc Đẳng Giác, sẽ ra đời vào Tam hội Long Hoa, trụ ngôi vị Vô Thượng Giác.[180].

Bồ Tát Di Lặc là vị Phật kế tục Thế Tôn. Từ nhiều kiếp lâu xa, Bồ Tát tích phước tu hành, đoạn trừ phiền não, chỉ còn sót lại một ít vô minh căn bản, nhưng thật ra công đức ấy hầu như giống Như Lai, bởi vì Bồ Tát ở ngôi vị Đẳng Giác tối cao, hiện tại đang ở cõi trời Đâu Suất, đang chờ giáng trần, chỉ còn khoảng năm mươi ức, bảy ngàn vạn năm[181]nữa, Ngài sẽ xuất hiện ở thế gian nầy. Khi Tâm Kim Cang khởi lên dứt trừ những vô minh còn sót lại, thành tựu giác ngộ, thành Phật Di Lặc. Dưới gốc cây Long Hoa, Ngài chuyển pháp luân ba lần để độ tất cả chúng sanh. Như vậy, chỉ còn một đời nữa thôi, Bồ Tát Di Lặc quyết định ngồi chỗ Phật đã ngồi[182]cho nên Ngài được gọi là Bồ Tát Nhứt Sanh Bổ Xứ.

Bởi vì khi mạng chung, chúng sanh niệm Phật tiếp nhận được công đức Trí Tuệ Như Lai, cùng với niềm tin Kim Cang, chỉ cần một niệm chân thật vãng sanh Báo Độ, giống như địa vị của Bồ Tát Di Lặc Nhứt Sanh Bổ Xứ, cuối cùng giác ngộ nhập Đại Niết Bàn, nhứt định sẽ thành Phật giống như Đức Phật A Di Đà. Như thế, xong đời nầy, hoàn thành giác ngộ thành Phật.

Theo Đại Kinh, những chúng sanh niệm Phật giống như Đức Di Lặc. Đây cũng là thuyết nổi tiếng của Thân Loan về “Tiện Đồng Di Lặc”[183].

Dù cho, kẻ phàm phu có đầy phiền não, nhưng có tín tâm chân thật có thể đoạn trừ cội rễ vô minh, dùng Trí Tuệ Kim Cang dứt trừ phiền não, gọi là Bồ Tát ở ngôi vị Nhứt Sanh Bổ Xứ như Bồ Tát Di Lặc, gọi là vãng sanh thành Phật.

I.4.10.4Sự Vãng Sanh Cùng Một Thể Với Sự Vãng Sanh Chánh Giác

Thứ hai, những hành giả có tín tâm niệm Phật vãng sanh Chân thật Báo Độ, chứng ngộ Đại Niết Bàn của Phật A Di Đà, cảnh Chân Thật Báo Độ, như thệ nguyện của Bồ Tát Pháp Tạng rằng: “Nếu chúng sanh không được vãng sanh, Ta sẽ không ở ngôi Chánh Giác”. Ngôi Chánh Giác của Như Lai và thành tựu vãng sanh của chúng sanh là “Nhứt Thể Bất Nhị”[184]. Nói khác, tín tâm của hành giả được vãng sanh cõi Chánh Giác của Phật. Ở đây, theo quan điểm căn bản về Tịnh Độ, Thân Loan cho rằng kẻ cứu độ và người được cứu độ là chúng sanh vượt khỏi phân biệt, thành tựu một thế giới Tịnh Độ “Sanh Phật Nhứt Như”[185].

Mà bản thể Tịnh Độ của A Di Đà Như Lai là Tịnh Độ Nhứt Như, khỏi giới hạn phân biệt của Nhị Nguyên, hiện rõ Vô Phân Biệt Trí, vượt qua căn bản sanh tử ta, người, lìa thương, ghét, thậm chí không phân biệt Phật và chúng sanh, thể nhập cảnh giới vạn vật đồng nhất thể. Nếu vãng sanh về cảnh giới Vạn Pháp Nhứt Nhưnhư thế, dẫu nói là vãng, hay không vãng đi nữa, không sanh đi nữa, phải nói rằng chúng ta cần có tính cách thực thể về vãng cũng như sanh kia. Chính vì lo lắng vãng hay sanh, cho nên chúng ta lìa hư vọng phân biệt, mà đây chính là giáo thuyết Đại Bi.

I.4.10.5Như Sanh Từ Lai

Nhứt Như chính là thị hiện cảnh giới tối cao của A Di Đà Như Lai. Trong “Chứng Văn Loại”Thân Loan nêu lên chín loại Niết Bàn khác nhau như:

1.Diệt Độ,

2.Thường Lạc,

3.Cứu Cánh Tịch Diệt,

4.Vô Thượng Niết Bàn,

5.Vô Vi Pháp Thân,

6.Thật Tướng,

7.Pháp Tánh,

8.Chân Như,

9.Nhứt Như.

Nói khác, Đức A Di Đà Như Lai từ “Như”sanh ra và “Lai”bao gồm các thân thị hiện: Pháp thân, Báo thân và Ứng Hóa thân. Đây chính là sự giải thích về A Di Đà Như Lai vượt lên khỏi tất cả những hạn định mê hoặc của con người, đạt đến thế giới Nhứt Như, rồi Như Lai dùng phương tiện thị hiện Pháp Thân, mà trường hợp nầy được gọi “Như”từ “Lai”sanh của Phật A Di Đà, chính tự Phật A Di Đà thị hiện lãnh vực Nhứt Như, tiếp dẫn chúng ta vãng sanh, cuối cùng thành Phật, được gọi đây là Sanh Phật Nhứt Như.

I.4.10.6Sự Nhiếp Hóa Của Hoàn Tướng

Trí Vô Phân Biệt khai mở đạt đến cảnh giới Vạn Vật Nhứt Như cho nên nếu sự vãng sanh đồng nghĩa với giác ngộ của Phật A Di Đà, thì kẻ vãng sanh thành Phật, biểu hiện hoạt động của Đức A Di Đà. Từ Nhứt Như có tính cách tất nhiên ấy. Vì chúng sanh mê mờ cần cứu độ, mặc dầu Phật ở Tịnh Độ; nhưng biến hiện trong mười phương thế giới, trang trải tâm đại từ đại bi cứu độ chúng sanh, gọi là Hoàn Tướng, mà Thân Loan giải thích rõ ràng ở nửa phần sau của cuốn “Chứng Văn Loại”.Hoàn Tướng nghĩa là đem quả vị đã chứng đắc trang trải cho mọi người. Đây chính là nội dung của sự chứng quả chân thật ấy.

Như vậy, theo Thân Loan, Hoàn Tướng là những hành giả đã vãng sanh và giác ngộ thành Phật, nhưng tiếp tục thị hiện công đức tự lợi và lợi tha của chư vị Bồ Tát, như trong phẩm Phổ Môn, Bồ Tát Quan Thế Âm Bồ Tát, thuộc kinh Pháp Hoa cho biết Bồ Tát Quan Thế Âm thiên biến vạn hóa giáo hóa chúng sanh. Phổ Môn thị hiện vừa là ví dụ có tính cách cụ thể, vừa là vì cứu độ chúng sanh phải biến hóa ứng hợp với chúng sanh và dùng mọi phương cách để cứu độ.

Với chúng ta, Phật A Di Đà thị hiện là Phật Thích Ca trước tiên, sau đó thị hiện bảy vị cao tăng đó là: Long Thọ, Thế Thân, Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo, Nguyên Tín, Pháp Nhiên, mà theo Thân Loan và Liên Như, đó chính là những Hoàn Tướng, Bồ Tát hóa độ đang giáo huấn chúng sanh niệm Phật. Nói khác, chúng ta gặp Phật-pháp, tin tưởng vào Bổn Nguyện và hành trì pháp môn niệm Phật gọi là Vãng Tướng. Tuy nhiên, đồng thời có vô số Bồ Tát vì lòng Đại Bi, trở lại thế giới nầy gọi là Hoàn Tướng. Ngay cả, chúng ta và mọi người, thậm chí các loài động vật cũng không thể nói dứt khoát là không phải Hóa Thân của Chư Bồ Tát thuộc Hoàn Tướng. Chúng ta thường không để ý thôi, thật ra vẫn nghe được lời giáo hóa của chư Bồ Tát Hoàn Tướng chỉ dạy chúng ta Niệm Phật, giáo dục cho thân tâm chúng ta.


I.4.11Chuyển Nhập Tam Nguyện

Ra khỏi Phương Tiện chơn môn, thể nhập vào sự tuyển chọn của Nguyện Hải, mau lìa được Tâm Vãng Sanh khó nghĩ bàn, mong muốn nối theo Nan Tư Nghì Vãng Sanh.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật).

Theo cách hiểu ngu ngốc của Thân Loan, giải thích của Thiên Thân, Thiện Đạo và có nhiều vị Tổ Sư cho rằng tu hành làm các việc thiện, viên tịch dưới gốc cây Song Thọ gọi là Phương Tiện Hóa Độ Vãng Sanh, hoàn toàn khác xa giáo huấn phương tiện là nhờ tích chứa công đức Niệm Phật vãng sanh vào Chơn Môn. Tự mình niệm Phật cũng chưa đủ, phải nương nhờ công đức tha lực, gọi là Nan Tư Vãng Sanh, cho nên khởi tâm nguyện vãng sanh theo phương tiện hóa độ.

Ý nghĩa chân thật của Phật, hướng dẫn vãng sanh là hoàn toàn ra khỏi pháp môn phương tiện Chơn Môn, thể nhập Bổn Nguyện quảng đại vô biên. Tuyển chọn thế giới khỏi mọi tự lực tính toán, nguyện vãng sanh theo phương tiện hóa độ, vãng sanh về cõi chân thật Báo Độ, chờ đợi vãng sanh thành Phật, gọi là Nan Tư Nghì Vãng Sanh. Đó là nguyện thứ 20 đã phát và là nguyên nhân thâm sâu vậy. (Hóa Thân Độ Văn Loại - Thánh Điển – trang 412).

Giải thích:

I.4.11.1Lịch Trình Cầu Đạo

Theo truyền thuyết được tường thuật, hai mươi năm Thân Loan tu hành nghiêm mật tại Tỷ Duệ Sơn từ lúc xuất gia năm chín tuổi cho đến năm hai mươi tuổi chúng ta thấy sự tuân thủ giới luật, tịnh hóa phiền não, tu hành theo Thánh Đạo Môn, nhằm đạt ngộ Trí Tuệ đến chỗ Nhứt Như của Ngài. Thời gian ở tăng đường trong Tam Muội Đường, là lúc Ngài niệm Phật không ngớt, giữ gìn giới luật hay cũng có thể nghĩ rằng đó là việc phải làm mà hành giả muốn vãng sanh Tịnh Độ theo lời nguyện thứ 19. Công đức tu hành niệm Phật không gián đoạn đó là muốn sanh về cõi Tịnh Độ. Theo lời nguyện thứ 19, người phát Bồ Đề Tâm, nguyện vãng sanh Tịnh Độ, cần tích chứa công đức, khi lâm chung được Phật A Di Đà tiếp dẫn, bởi vì Ngài có lời thệ nguyện tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh Tịnh Độ. Thân Loan cho rằng đó là vãng sanh bằng tự lực chính mình thực hành muôn hạnh. Điều cần yếu ở đây, tư duy về vãng sanh theo phương tiện hóa độ như Phật viên tịch dưới gốc cây Song Thọ.

Thật ra, chín mươi ngày đêm thực hành pháp “Thường Hành Tam Muội”không chớp mắt là một trong những pháp tu quan trọng lấy Phật A Di Đà làm Bổn Tôn, xưng danh hiệu Ngài liên tục trong đạo tràng hành trì của Thiên Thai Tông, đó là thời gian khổ luyện của hành giả tịnh hóa tội chướng cũng là lúc thập phương Chư Phật ảnh hiện cho biết vấn đề vãng sanh thành Phật của hành giả. Hẳn nhiên, hành giả song song với việc xưng danh còn thực hiện pháp quán Phật nữa, đó chính là một trong những hạnh tự lực, Thân Loan thực hiện nguyện thứ 19, mong được vãng sanh. Dù cho pháp hành ấy thành tựu, Như Lai vẫn chỉ là vị hóa Phật và vãng sanh cũng chỉ là phương tiện hóa độ mà thôi.

Mãi năm 29 tuổi, Thân Loan cũng chưa biết rõ điều ấy, chỉ toàn dốc lực của mình tu hành, song lúc gặp Pháp Nhiên được nghe được pháp môn chuyên tu niệm Phật, tin vào Chánh Định nghiệp, hành trì pháp nhất hạnh xưng danh hiệu. Thế nhưng, “Huệ Tín Ni Tiêu Tức” thì cho rằng “trong 100 ngày có thiên cơ giáng xuống soi sáng, trở thành những việc quan trọng…”[186]. Ở đây, phải thấy điểm chính là khoảng khắc 100 ngày ấy Ngài quyết định chuyên tu niệm Phật, tha thiết nghe Pháp, nương công đức niệm Phật, đồng thời không hoàn toàn lìa bỏ tự lực, cho nên từ đó Ngài dừng lại tư duy tự lực Niệm Phật.

Thật ra, đó là công đức thù thắng của việc Niệm Phật Nhất Hạnh, Ngài chuyên niệm không chỉ khi tâm an lạc, mà ngay cả khi tâm không an, luôn nghĩ đến việc cứu độ, thậm chí đã tuyệt vọng, mà vẫn cứ Niệm Phật tới lui. Ngài bỏ những tạp hạnh của chính mình, với tâm quyết liệt khẳng định dù thiện hay ác, dù được hay không vẫn cứu độ, vì khi ấy trạng thái tự lực vẫn còn sót lại. Niệm Phật là căn bản của việc lành, khi xưng danh hiệu, tin rằng nhờ các pháp hành ấy mà có công đức. Nhờ tích chứa công đức xưng danh cho nên được vãng sanh, cũng chính là Chơn Tâm và Hồi Hướng Vãng Sanh, theo nguyện thứ 20 về việc Niệm Phật, Thân Loan gọi là Chơn Môn. Còn Nan Tư Nghì Vãng Sanh gọi là nhơn của Phương Tiện Hóa Độ.

I.4.11.2Trở Về Bổn Nguyện

“Giáo Hành Chứng Văn Loại”chép rằng: “Chỉ có kẻ ngu ngốc như Thân Loan nầy vào năm Tân Dậu niên hiệu Kiến Nhân đã bỏ những tạp hạnh, trở về với Bổn Nguyện”[187]. Từ bỏ tự lực nhỏ bé của mình, giao thân mệnh nầy cho tha lực để mong đạt được cảnh giới tín tâm chân thật. Bỏ các tạp hạnh trở về với Bổn Nguyện chính ám chỉ lời nguyện thứ 18 vậy. “Giáo Hành Chứng Văn Loại”gọi trường hợp nầy là “Bổn Nguyện”,lúc nào cũng dùng chỉ cho lời nguyện thứ 18 nầy. Thông thường, ngược lại của tạp hạnh là chánh hạnh, phải chăng đây là lìa bỏ tạp hạnh, trở về chánh hạnh? Đây chỉ là việc trở về pháp niệm Phật, cho nên nói rằng: “Trở về lại Bổn Nguyện”. Trở về với niệm Phật nghĩa là quyết định lựa chọn nguyện thứ 18, niệm Phật được Chánh Định Nghiệp. Hơn nữa, chọn Bổn Nguyện để thể nhập, không còn nghi ngờ gì nữa, đó là Phật ý. Ở đây, phải hiểu rằng việc nầy biểu hiện tính chất giao phó bổn mạng nầy vào Bổn Nguyện tha lực.

Đến năm Kiến Nhân nguyên niên[188]Ngài đúng 29 tuổi, xả bỏ tất cả những niềm tin và pháp tu thuộc tự lực chuyển nhập vào pháp môn tha lực của lời nguyện thứ 18[189]nầy.

I.4.11.3Cáo Bạch về Sự Chuyển Nhập của 3 Nguyện

Thân Loan là con người như thế, từ Thánh Đạo Môn qua lời nguyện thứ 19 (Yếu Môn) tiến tới lời nguyện thứ 20 (Chơn Môn) cuối cùng suy nghĩ chuyển lại lời nguyện thứ 18 (Hoằng Nguyện). Như được biết, việc chuyển đổi Ba Nguyện như sau: “Đã từ lâu, xem các thiện hạnh ấy là giả môn, phải vượt khỏi và hoàn thành, lìa sự vãng sanh dưới gốc cây Song Thọ”. Đây chính là biểu hiện lìa khỏi lập trường Yếu Môn của lời nguyện thứ 19. Còn lập trường của Thánh Đạo Môn là khuyên tu các hạnh lành, mà ở đây nói phải lìa khỏi.

Tiếp theo cho rằng: “Trở lại thể nhập vào gốc thiện và gốc công đức, phát khởi tâm Nan Tư Vãng Sanh cho mọi người”. Rời khỏi Yếu Môn, biểu hiện hội nhập vào lập trường của Chơn Môn là nguyện thứ 20. Thiện Bổn và Đức Bổn có nghĩa là tất cả công đức căn bản của việc xưng danh niệm Phật. Đặc biệt, việc xưng danh ấy tích chứa công đức biểu hiện qua ngôn ngữ của tha lực niệm Phật, như ta đã thấy qua sự lý giải của Thân Loan rằng: “Bây giờ, hãy rời khỏi phương tiện Chơn Môn, chuyển nhập vào Nguyện Hải Tuyển Chọn. Hãy mau lìa khỏi Nan Tư Vãng Sanh, nếu muốn tiến đến Nan Tư Nghì Vãng Sanh, phải theo kết quả của lời nguyện. Ngoài ra, không còn lý do nào khác nữa”.Bây giờ, chính là lúc mà ngay cả tự lực cũng phải xa rời, chuyển nhập vào pháp môn của lời nguyện thứ 18, mà lời nguyện thứ 20 chỉ cho ta thấy về phương tiện bày ra đó. Rồi nguyện thứ 18 chính là bóng mát vô cùng hoan hỷ về nhiếp hóa kỳ diệu được Phật A Di Đà hướng dẫn.

I.4.11.4Rõ Biết Ân Phật

Như thế, cuối cùng kết quả rằng: “Nhập Nguyện Hải, liễu tri ân Phật sâu xa, thệ báo đền ân đức cao cả, tạo những căn bản cho Chơn Tông, thường hoan hỷ xưng niệm công đức như biển Bất Khả Tư Nghì của Phật, chẳng bao lâu đến chỗ tối cao”,biết như vậy nhờ lòng tôn trọng Bổn Nguyện, nhờ nhận được tha lực tiếp sức mà phát sanh Bổn Nguyện rộng rãi vô biên. Thật khó lường ân đức sâu xa, quyết định báo ân, biểu hiện tâm thanh khiết đối với Tịnh Độ Chơn Tông. Thân Loan nhặt tất cả những lời giải thích quan trọng đó đây trong kinh biên tập thành “Giáo Hành Chứng Văn Loại”để cảm niệm công đức Phật dành cho người niệm Phật rộng sâu như biển cả. Ngài hoan hỷ tán thán cảm niệm và thừa nhận lời Phật dạy.

Như vậy, thông qua việc chuyển đổi tự thân, Thân Loan liễu đạt Bổn Nguyện Tha Lực. Trong 48 lời nguyện, không phải chỉ có nguyện thứ 18, mà lời nguyện thứ 19, lời nguyện thứ 20 là những pháp môn thệ nguyện tự lực, được tâm nguyện của Phật A Di Đà gia bị, mà “Giáo Hành Chứng Văn Loại”đặc biệt “Hóa Thân Độ Văn Loại”tường thuật và nêu rõ những lý do ấy.

Hơn nữa, Thân Loan thể nhập nguyện thứ 18 là lúc Ngài đúng 29 tuổi. Sự kiện nầy được xem như niềm tin tha thiết, mà mọi người trải qua thời gian dài kinh nghiệm và tư duy mới chấp nhận. Do vậy, thật rõ ràng đây là thể loại của ba nguyện chơn, giả, trung, mà nội dung là lời nguyện thứ 18, nguyện thứ 19 và nguyện thứ 20. Tóm lại “Giáo Hành Chứng Văn Loại”được trước tác và bình giải lúc Ngài 50 tuổi, không xa thời gian chuyển đổi ấy lắm.


I.4.12Vui Mừng Khi Gặp Pháp

Những gì muốn gặp nay đã gặp, những gì muốn nghe nay đã được nghe.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật).

Đầu tiên, tôi[190]tiếp xúc Thánh Điển nguyên bản từ Tây Vức, Ấn Độ, sau đó các tác phẩm chú giải của những bậc Tổ Sư Trung Quốc, Nhật Bản, bây giờ gặp được những điều muốn gặp và nghe được những việc muốn nghe, tâm rất hoan hỷ vui mừng, tôn kính và tin tưởng pháp tu Tịnh Độ Chơn Tông qua lời dạy Giáo, Hạnh, Chứng, xin hồi hướng lên Như Lai. Phải nói rằng nhờ ân đức Như Lai soi sáng, được tu học, rất vui mừng được nghe pháp, tự thân rộng mở, trân trọng ân Pháp và xin tán thán. Do vậy soạn ra “Giáo Hành Chứng Văn Loại” nầy. (Phần Đầu - Thánh Điển – trang 132).

Giải thích:

I.4.12.1Mừng Thay

Chữ “Khánh Tai”!bắt đầu ở trong “Giáo Hành Chứng Văn Loại"nghĩa là mừng thay! Tiếp theo, những giòng chữ của “Lời Nói Đầu”, “Lời Cuối” là hai phần có liên quan với nhau. Vui mừng thay! trong phần đầu được hiểu là lời khai thị của Thế Tôn về Bổn Nguyện trong kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ. Lời Phật A Di Đà dạy truyền thừa qua ba quốc gia: Ấn Độ, Trung Quốc Nhật Bản[191]. Tuy nhiên, áo nghĩa thâm sâu dường như còn ẩn chứa đâu đó, mãi cho đến Ngài khi gặp chư vị Tổ Sư dạy dỗ mới có niềm tin Bổn Nguyện Niệm Phật, vui mừng cảm niệm ân đức sâu dày của Phật. Nhờ duyên ấy Ngài tường thuật lại. Hơn nữa, đặc biệt phần sau sách nói về việc gặp ân sư Pháp Nhiên Thánh Nhơn và được truyền thừa, như trong “Tuyển Chọn Bổn Nguyện Niệm Phật”có những hình ảnh mừng vui được họa nên và nhận được. “Giáo Hành Chứng Văn Loại” diễn đạt thật rõ những tư tưởng thâm sâu; cho nên dùng chữ “Khánh Tai”diễn tả thật cảm động khi gặp được sự dạy dỗ của các vị Tổ. Không có bút mực nào diễn tả hết được lòng cảm niệm vô hạn đối với sự cứu độ về Bổn Nguyện muốn nghe và được nghe đó.

I.4.12.2Hoan Hỷ Và Khánh Hỷ

Ở đây nói đến Thân Loan vui vì cứu được tự thân và niềm vui ấy được chia làm hai phần: Hoan Hỷ và Khánh Hỷ. Dù cho cách nào đi nữa, cả hai từ nầy đều diễn tả trạng thái vui mừng của tâm và thân, song theo “Nhứt Niệm Đa Niệm Văn Ý”chữ “Hoan”có nghĩa là “Vui Mừng Khôn Xiết”[192]. Việc chưa thực hiện được thực hiện, nhất định vui mừng như trường hợp thỏa mãn uớc mong. Vấn đề vãng sanh Tịnh Độ là giác ngộ, cho nên không giới hạn trường hợp hoan hỷ, mà đổi chữ “Khánh”giống như sách đã dẫn, nghĩa là: “Mừng về một việc”[193]. Như vậy với Thân loan, vui vì cốt lõi mọi việc đều thực hiện. Hơn nữa, được nghe Phật Tổ giáo huấn, có niềm tin đối với Bổn Nguyện, đem cả thân và tâm niệm Phật, tất nhiên, phải dùng chữ “Khánh” mới bày tỏ hết. Cần nên lưu ý trong “Giáo Hành Chứng Văn Loại” Thân Loan vui tất nhiên dùng chữ “Khánh Hỷ” “vui thay!”hoặc chỉ dùng chữ “Khánh”bày tỏ việc nầy.

Với Thân Loan, không gì bằng niềm vui gặp được bậc Thầy muốn gặp và nghe được lời dạy muốn nghe. Tự mình muốn được nhưng không được, cho nên phải tin vào Như Lai, để được gia bị và cuối cùng vì chúng sanh cho nên tự mình phải thực hành pháp niệm Phật.


I.4.13Sự Thệ Nguyện Sâu Dày Của Tâm

Sự thệ nguyện sâu dày của tâm là trồng cây vào đất phật. Vui thay! Tâm ấy được trồng vào đất Phật, qua lời thệ nguyện rộng lớn. Niệm ấy chính là sự lưu lộ vào biển Giáo Pháp, thật khó nghĩ bàn.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật).

Bây giờ, chúng ta được sanh ra, tâm được gieo trồng vào mảnh đất Bổn Nguyện. Khi nghĩ đến, chúng ta thấy giống như nước chảy vào biển cả, chơn lý vượt lên trên mọi giới hạn. Phải biết rõ lòng thương của Như Lai làm cho chúng ta quy ngưỡng ân đức giáo dưỡng cao dày của các bậc Thầy nên rất vui mừng, luôn luôn tưởng nhớ ân đức sâu dày thật là thiết tha. (Phần Sau - Thánh Điển – trang 473).

Giải thích:

I.4.13.1Mừng Về Ân Sư

Phần sau “Giáo Hành Chứng Văn Loại” chép rằng: “Mừng thay”là lời nói về Ân Sư, đó là ân sư Pháp Nhiên, vào năm Nguyên Cửu[194]thứ 2, lúc Thân Loan 33 tuổi, bởi vì Ngài truyền thọ tập“Cách Tuyển Chọn Bổn Nguyện Niệm Phật”. Ngoài ra, nhận được bức họa của Thầy mình, tường thuật nhiều lần trong sách vở, chính là muốn báo ân một cách hoan hỷ về vấn đề Pháp Nhiên khai tâm cho Thân Loan nhập thế giới Bổn Nguyện Đại Bi, vốn bị sanh tử che lấp cho nên bị giới hạn. Tư tưởng ứng đáp với Ân Sư trong tác phẩm “Giáo Hành Chứng Văn Loại”là những lời Thánh Giáo như châu ngọc đã cho vào đó.

I.4.13.2Phật Địa và Pháp Hải (Đất Phật và Biển Pháp)

Ở đây có câu “Tâm trồng vào nơi đất Phật bằng lời thệ nguyện rộng lớn, niệm ấy lưu xuất vào biển pháp thật khó nghĩ bàn”, như trong quyển 3 của “Đại Đường Tây Vức Ký”[195]Ngài Huyền Trang nói rằng: “Tâm ấy trồng nơi đất Phật và tình nầy chảy vào biển pháp”. Chữ “Phật Địa”phù hợp với chữ “đứng”, nghĩa ấy dành cho chữ “cây”,nghĩa là trồng cây mà cây đó có gốc rễ ăn sâu vào lòng đất, đứng vững và tồn tại. Tâm của hành giả Niệm Phật giống như cây có gốc rễ ăn sâu vào lòng đất, không lay chuyển. Bổn Nguyện Như Lai cũng đứng vững trên mặt đất, có gốc rễ ăn sâu vào lòng đất và tiếp tục hấp thụ Từ Bi và Trí Tuệ Như Lai, cho nên nói rằng: “Tâm ấy trồng nơi Phật Địa bởi lời thệ nguyện rộng lớn” là vậy.

“Niệm ấy chảy vào biển pháp khó nghĩ bàn”, theo “Tịnh Độ Văn Loại Tụ Sao”thì “tình ấy chảy vào biển pháp thật khó nghĩ bàn”. Chữ “niệm” cũng như chữ “tình”đều có ý nghĩa giống nhau, vì chúng ta liên tục khởi lên vui lẫn buồn không dứt. “Pháp Hải”là ngôn ngữ biểu hiện lãnh vực chơn lý rộng khắp vô biên như biển cả. Song ở đây có ý nói về lãnh vực Bổn Nguyện của Phật A Di Đà cứu độ muôn người rộng rãi bao quát như vậy. Ngay cả lúc buồn, lúc chán, lúc giận ghét, thương hờn v.v..., chỉ cần niệm Phật, buồn bực ấy sẽ xua tan niệm tình thể nhập thế giới Bổn Nguyện tuôn chảy vào tâm bao la, khiến tự thân thanh tịnh an ổn, thật bất khả tư nghì. Hơn nữa, vui mừng vì đây là ân huệ an ổn dành cho người niệm Phật Bổn Nguyện.

I.4.14Buồn Thay!

Ngu Ngốc Thân Loan có phải là kẻ buồn rầu chăng? Vì vẫn đắm chìm trong biển ái dục và bị mê hoặc trong núi Thái Sơn danh lợi, chưa lần nào nhập vào Định Tụ một cách hoan hỷ.

(Lược bớt phần giải thích theo lối Hán - Nhật).

Thật buồn thay! kẻ dại khờ như Thân Loan nầy vẫn còn chìm đắm trong biển ái, bị chôn sâu trong núi danh dự, mê muội, chưa hoan hỷ tiếp cận giác ngộ chân thật, xấu hổ thay! bi thương thay! (Tín Văn Loại - Thánh Điển – trang 266).

Giải thích:

I.4.14.1Buồn Cho Phiền Não

Đây là những câu kết luận ở phần bình giải của “Tín Văn Loại”về đệ tử Phật chơn chánh. Ai tin Bổn Nguyện và Niệm Phật được ca ngợi và tán thán rằng sẽ chứng đạt vị Chánh Định Tụ, như địa vị chứng đắc của Bồ Tát Di Lặc, thường nghe những lời Phật dạy, dù cho có đầy đủ công đức vẫn tiếp tục nghe, bởi vì ta[196]là kẻ ngu muội, chỉ toàn những xấu hổ mà thôi.

Những câu văn ngày ấy vẫn hơn hẳn những câu nói theo phong vị nầy nay về ý nghĩa. Khi đọc những lời ấy thăng trầm nhiều lần, tâm ta cũng dao động không ít đến tâm lo nghĩ của Thân Loan.

Như vậy, những ai có niềm tin về lời Phật A Di Đà dạy về Bổn Nguyện không phải không còn tâm so đo của con người. Có thể nói rằng, Thân Loan là người được gia trì bảo bọc bởi Trí Tuệ của Như Lai, không chối từ lời nguyện của Như Lai, giao phó tự thân nầy cho Như Lai, tâm tự dưng đồng với tâm Như Lai. Ai có niềm tin vào Bổn Nguyện, được nói rằng, sẽ thể nhập Chánh Định Tụ. Mặc dù chúng ta, những kẻ phàm phu dẫy đầy phiền não, còn trong vòng sanh tử, nhưng nhờ ân đức Như Lai, được tiếp dẫn đến chỗ cao cả, được thâu nhận vào hàng Thánh, làm bạn với các b���c Thánh. Tuy nhiên, Chánh Định Tụ là địa vị mà hành giả Phật Tử chơn chánh tôn kính, biết rõ tự thân mình. Ngược lại là lời dụ đừng cho phiền não không khởi lên, tiếp tục tạo ác nghiệp. Với hiện thật tự thần, chẳng biết nơi chấm dứt phiền não, đánh thức tâm bi lụy. Từ đó lời than vãn “buồn thay! xấu hổ thay! thương thay!”khởi lên trong chính mình và xấu hổ thật nhiều.

I.4.14.2Xen Kẻ Giữa Buồn và Vui

Thế nhưng, nhìn kỹ lại, thật không phải là những câu văn tối nghĩa và tuyệt vọng, đó chỉ là lời thuật lại đáng lưu ý mà thôi. Thật xấu hổ vì tự thân bị chất độc ái dục và danh dự làm hoen ố rồi, tuy chưa vui để được nhập Chánh Định Tụ. Thật ra, chính không vui ấy là đang ở trong Chánh Định Tụ rồi, dù chưa vui nhưng được cận kề với Tịnh Độ Niết Bàn, điều mà chúng ta rất quan tâm trong cuộc sống và chấp nhận chưa vui từ năng lực Bổn Nguyện. Khi xác định gần kề Tịnh Độ rồi, biết rõ niềm vui mà văn chương chuyên chở, một cách tận tường. Ở đó, hiện lên và tỏa rộng ánh sáng hy vọng thật bất khả tư nghì.

Chú thích ở phía trước “Giáo Hành Chứng Văn Loại”cũng như phần Tam Mạt “Lục Yếu Sao ”giải thích lời dạy nầy như sau:

“Thành Tri”[197]chính ngôn từ than thở thảm thiết nhưng lại rất hoan hỷ, chỗ xen kẻ giữa buồn, vui. “Bất Hỉ” “Bất Khoái”[198]biểu hiện lòng thương hại, sự xấu hổ và liễu đạt Chánh Định Tụ nhiều lần, gần với chứng ngộ chân thật. Đó là biểu hiện bí mật tự chứng, không phải là không có niềm hỉ lạc[199].

Thật ra đây là ngôn ngữ than thở đau xót cho thân thể ngu muội của chúng ta, nhưng không phải không có niềm vui. Đây chính là sự biểu lộ tâm tình đang xen giữa buồn, vui, như ánh sáng chiếu vào tâm cảnh mờ. Cũng có người niệm Phật liên tục nhưng vẫn bị phiền não che lấp, gây ra tội chướng sanh tử, giống như ánh sáng của tấm kính chưa hẳn hoàn toàn sáng tỏ như ban ngày.

Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi định hướng vãng sanh Tịnh Độ, vì đó là cánh cửa căn bản mà con người phải đi qua, như ánh sáng chiếu soi vào cuộc sống của con người.

Hành giả Niệm Phật không những chỉ buồn vì kiếp nhân sinh chìm nổi, mà phải tống khứ nó đi; ngược lại trong cuộc sống hằng ngày không phải là niềm vui lúc nào cũng vọt lên mãi mãi. Khi nghe lời dạy của Như Lai, cứ nghe và đồng thời phải rõ biết biên giới của xấu hổ về tội chướng của mình sâu dày. Vì vậy, đây là phương diện khai mở thoáng dịu đầy hoan hỷ cho những ai ngưỡng vọng bi nguyện cứu độ kẻ dại khờ. Cả đời người Niệm Phật chẳng qua là đang xen giữa buồn, vui vậy.



[1]Nghĩa là thu nhiếp và giữ gìn

[2]Ngũ nghịch tức 5 tội: giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá hòa hợp Tăng và thân Phật chảy máu. Hủy báng Chánh-pháp dùng để chỉ cho “nhứt xiển đề” là những kẻ không có lòng tin Phật pháp.

[3]Chúng sanh niệm phật chắc chắn phật không bỏ

[4]Vasubandhu người Ấn Độ sống vào thế kỷ thứ V

[5]Sumo là một loại đấu vật theo kiểu Nhật Bản.

[6]Tôi đây chính là Thân Loan.

[7]Ý nói chùa Hưng Phước và các chùa lớn tại Nara.

[8]Chùa Diên Lịch thuộc Tỷ Duệ Sơn.

[9]Chữ địa phương ở đây có thể hiểu là những quận lỵ nhỏ ngày trước.

[10]Ý nói tác giả Kakehashi.

[11]Tôi ở đây ám chỉ cho Pháp Nhiên.

[12]Thánh Điển trang 899

[13]Tôi ở đây chỉ cho Thân Loan.

[14]Tôi ở đây chỉ cho tác giả Kakehashi.

[15]Sinh năm 150 và tịch năm 250

[16]Sinh năm 400 và tịch năm 542

[17]Sinh năm 476 và tịch năm 542

[18]Sinh năm 562 và tịch năm 645

[19]Sinh năm 613 và tịch năm 681

[20]Sinh năm 942 và tịch năm 1017

[21]Sinh năm 1133 và tịch năm 1222

[22]Tác giả Kakehashi

[23]Nghĩa là Thầy trò

[24]Tức cảnh giới Tịnh Độ hay còn gọi là Cực Lạc

[25]Có nghĩa là sự cứu độ người ác là đối tượng

[26]Ý nói những bậc Thánh và những người lành cũng được cứu độ

[27]Ý nói Ngài Nguyên Không

[28]Tín Văn Loại – Thánh Điển – trang 279

[29]Tức Jivaka, vị y sĩ của Đức Phật ở thành Vương Xá

[30]Có nghĩa là sự cần thiết

[31]Tôi đây ý chỉ cho Thân Loan

[32]Thánh Điển trang 873

[33]Theo Chánh Tượng Mạt Hòa Tán – Thánh điển – trang 622

[34]Tác giả Kakehashi

[35]Chánh Tượng Mạt Hòa Tán – Thánh Điển – trang 617

[36]Thánh điển trang 81

[37]Thánh điển trang 561

[38]Điều 9 – Thánh điển – trang 836

[39]Nghĩa là không thể nghĩ bàn

[40]Cũng còn có thể hiểu là người thế gian muốn xa rời cuộc sống thế tục và nguyện bỏ thế tục để sau được sanh về Tịnh Độ

[41]Ý nói cõi Ta Bà

[42]Ý nói tâm của những kẻ phàm phu

[43]Ám chỉ cho những tín đồ

[44]Ở phòng Thế Quán

[45]Ở phòng niệm Phật

[46]Thuộc phòng thiện tín

[47]Ý nói Phật A Di Đà và chư vị Thánh chúng

[48]Có nghĩa là anh, ngươi hay các anh, các ngươi

[49]Có nghĩa là hãy nhanh lên

[50]Xác chết của những người hủy báng

[51]Dùng để ví dụ cho 2 con sông và con đường trắng

[52]Trong “Thán Dị Sao”

[53]Chỉ cho hư vọng phân biệt

[54]Sanh và tử là một

[55]Tác giả Kakehashi

[56]Thánh Điển trang 693

[57]Hành Văn Loại – Thánh Điển – trang 141

[58]Hành Văn Loại – Thánh Điển – trang 170

[59]Thế Chí Hòa Tán – Thánh Điển – trang 577

[60]Sinh năm 400 và tịch năm 480

[61]Sinh năm 476 và tịch năm 542

[62]Ý nói cõi An Dưỡng, Cực Lạc

[63]Ý nói thế giới của những vị thần.

[64]với tâm nguyện hoàn thành khi giác ngộ

[65]Nguyện tác Phật tâm

[66]Độ chúng sanh tâm

[67]Đây chỉ về tánh tướng đều không của chư Phật

[68]Cách giải thích về ứng thân Phật theo Phật Giáo Nhựt Bản hơi khác về cách giải thích về ứng, hóa thân của Phật Giáo Việt Nam và ngay cả báo thân cũng giải thích khác nữa.

[69]Sinh năm 613 và tịch năm 681

[70]Nói rộng là 48 lời nguyện. Nói lược là lời nguyện thứ 18

[71]Do quả báo của việc làm lành dữ mà kết quả sẽ được vui hay khổ

[72]Kẻ phàm phu cũng được sanh ngay về báo độ

[73]Cực Lạc, An Dưỡng giới

[74]Vô Lượng quang

[75]Vô Lượng thọ

[76]Chính là ánh sáng từ bi

[77]Ý nói về mình và người

[78]Mình và người là một

[79]Xin tham khảo phần “phương tiện Pháp Thân của sách tiếng Nhật này – trang 150

[80]Thành Gaya ngày nay vẫn còn, gần Bồ Đề Đạo Tràng

[81]Phật lưu dấu tích lại thuộc về Tích Môn

[82]Bản Môn của Đức Phật Thích Ca

[83]Thực sự đã thành Phật từ lâu rồi

[84]Huệ quang chiếu vô lượng

[85]Thọ mạng vô số kiếp

[86]Thánh Điển – trang 566

[87]Chú thích bản Thánh Điển, biên về vị Tổ thứ 7, trang 956

[88]Chú thích theo bản Thánh Điển – biên về Tổ thứ 7 – trang 662

[89]Ý nói những tài liệu này thuộc loại tài sản của Quốc gia

[90]Thân Loan Thánh Nhơn chơn tích tập thành – trang 3.105

[91]Những người học Phật mà phủ định việc niệm Phật.

[92]Thánh Điển trang 1.133

[93]Chú thích bản Thánh Điển – biên về vị Tổ thứ 7 – trang 467

[94]Xem phần tiếng Nhật trang 103 và tiếng Việt trang…

[95]Thánh Điển – trang 655

[96]Chú thích bản Thánh Điển – biên về Tổ thứ 7 – trang 155

[97]Thánh Điển trang 190

[98]Thánh Điển trang 783

[99]Đây ám chỉ Pháp Nhiên

[100]Thánh Điển trang 746

[101]Tức Chơn Đế và Tục Đế

[102]Chơn lý cùng cực

[103]Ứng với Thế Tục Đế nói ra chân lý ấy

[104]Sanh tử là một không khác

[105]Nguyện tác Phật-tâm

[106]Tìm cầu tự giác trí tuệ đã hoàn thành

[107]Đối với tất cả chúng sanh ngoài tự giác ra phải dùng sự thực tiển của lòng từ bi.

[108]Cái tâm nguyện thành Phật.

[109]Cái tâm cứu độ tất cả chúng sanh.

[110]Thánh Điển trang 604

[111]Cao Tăng Hòa Tán – Thánh Điển – trang 585

[112]Đây chính là Trí Tuệ có được khi cứu độ chúng sanh sau khi đã có Vô Phân Biệt Trí.

[113]Thánh Điển trang 18

[114]Thánh Điển trang 251

[115]Nghe tức là tin

[116]Tin tức là Nghe

[117]Bổn nguyện chiêu hoán sắc mệnh

[118]Thánh Điển trang 509

[119]Tức là Chánh-định trong Bát Chánh Đạo

[120]Chơn Tông Thánh Giáo toàn thơ trang 352

[121]Xem thêm phần Chánh Định Tụ trong sách nầy trang 164 tiếng Nhật và tiếng Việt trang …

[122]Thánh Điển trang 643

[123]tức là thuyết nói rằng: trong một đời không thoái chuyển

[124]dục giới, sắc giới và vô sắc giới

[125]Trí tuệ vô lậu

[126]nếu dùng con số đếm thì phải viết là 5.670.000 năm

[127]Thánh Điển trang 604

[128]Tham chiếu sách tiếng Nhật trang 66

[129]Thánh Điển trang 740

[130]Đây là thế giới hoàn toàn khổ sở, một chút ánh sáng cũng không lọt vào.

[131]Dịch giả: tiếng Đức định nghĩa Phật là người giác ngộ, người tỉnh thức, lìa sanh tử, tự bừng tỉnh…

[132]Đây là Lục Độ Ba La Mật

[133]Tức những kẻ hoàn toàn không tin tưởng vào Tam Bảo và hoàn toàn không có chất thiện nơi người ấy

[134]Đó là tham, sân và si

[135]Tức cuộc đời của Thân Loan

[136]Theo bản Đề Hồ của Pháp Nhiên Thượng Nhơn truyện ký - Phần Ngữ Lục.

[137]Theo thuật ngữ “siêu tử hồi sanh”

[138]Thánh Điển trang 742

[139]Ở đây ý nói về Bổn Nguyện Lực

[140]Lấy Bổn Nguyện làm chỗ nương tựa và nhờ Bổn Nguyện mà chuyển hóa sự tồn tại.

[141]Nhằm năm 1258

[142]Tức nhà Tầm Hữu em của Thân Loan

[143]Tức là sự tự nhiên

[144]Đó là Tự Nhiên và Pháp Nhĩ

[145]Pháp tắc của bổn nguyện như thế ấy

[146]Ý nói không mang theo một vật gì cả.

[147]Thánh Điển trang 584

[148]Có nghĩa là Kinh gốc của Tông ấy

[149]Kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ - Thánh Điển – trang 18

[150]Nguyện của Phật được phát sanh và những điều căn bản

[151]Tức là Kinh nói về Nhứt Thừa cứu cánh cao cả.

[152]Ý nói chúng sanh như người đui mù

[153]Thánh Điển trang 9

[154]Ý nói về số nhiều

[155]Năm trược gồm: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược.

[156]Tham chiếu sách tiếng Nhựt nầy trang 123

[157]Tức Tịnh Độ Chơn Tông

[158]Thánh Điển trang 479

[159]Khẩu nghiệp công đức.

[160]Huyền Nghĩa Phân – chú thích bản Thánh Điển – biên về Tổ thứ 7- trang 325.

[161]Nhiếp Đại Thừa Luận

[162]Danh hiệu ấy được giải thích từ phía Đức Như Lai.

[163]Tiếng Việt và tiếng Hán gọi là độc nhất vô nhị.

[164]Chữ bối có nghĩa là bực.

[165]Thánh Điển trang 81.

[166]Thánh Điển trang 41. Muốn rõ ràng hơn nên xem lời văn nơi “Tín Văn Loại”.

[167]Thánh Điển trang 678

[168]Nghĩa là chí tâm tin tưởng, muốn sanh về nước ta ..

[169]Thánh Điển trang 231

[170]Nam Mô A Di Đà Phật tương đương với Ba Tâm của Như Lai.

[171]Thánh Điển trang 522

[172]Chỉ một không hai

[173]Hai loại tin sâu vào cơ duyên và pháp nghi và nội dung chỉ là một Tín Tâm.

[174]Tức là thuyết về việc vãng sanh liền thành Phật.

[175]Hạnh Tây

[176]Long Quán

[177]Thiên Thai Tông gọi là Sơ Trụ Vị

[178]Tức thành Phật

[179]Chứng ngộ ngay tức khắc

[180]Thánh Điển trang 264

[181]Tức 5.670.000 năm

[182]Ý nói nơi Đức Thích Ca đã thành đạo

[183]Nghĩa là liền giống như Đức Di Lặc.

[184]Cùng một thể chứ không hai

[185]Chúng sanh và Phật vốn đồng một thể

[186]Thánh Điển trang 811

[187]Thánh Điển trang 472

[188]Nhằm năm 1201

[189]Điều nầy có nghĩa là chuyển hoán thân tâm tự lực và quy nhập vào tha lực

[190]Ở đây ám chỉ Thân Loan là tác giả của Ngu Ngốc

[191]Dịch giả: Thật ra cả Việt Nam, Đai Hàn, Tây Tạng, Bhutan cũng đã có ảnh hưởng rất đậm nét về Tịnh Độ Tông.

[192]Thánh Điển trang 684

[193]Thánh Điển trang 685

[194]Nhằm năm 1205

[195]Xem thêm sách nầy của Dịch Giả, xuất bản năm 2004

[196]Ta đây ám chỉ cho Thân Loan

[197]Thành thật rõ biết.

[198]Chẳng vui và chẳng thích

[199]Chơn Tông Thánh Giáo Toàn Thơ – trang 2315

---o0o---

Vi tính: Hạnh Bổn

Trình bày: Vĩnh Thoại

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567