Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thử tìm hiểu ý nghĩa Niệm Phật trong Nam Truyền và Bắc Truyền.

17/05/202222:48(Xem: 2798)
Thử tìm hiểu ý nghĩa Niệm Phật trong Nam Truyền và Bắc Truyền.


Phat Di Da
Thử tìm hiểu ý nghĩa Niệm Phật trong Nam Truyền và Bắc Truyền.

Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản, và niệm Phật là con đường nhanh nhất để thoát khỏi vòng luân hồi đau khổ của cõi Ta Bà.
Thường thì bắt đầu vào tuổi thu đông nhiều người mới tập trung tinh thần vào Niệm Phật. Có người thường cho rằng pháp môn Tịnh Độ chỉ mới bắt đầu khi có kiết tập kinh điển lần thứ 3, 4 và về sau này khi Đại Thừa phát triển mạnh.
Nhưng Pháp môn niệm Phật đã được Đức Thế Tôn chỉ dạy lúc Ngài còn tại thế, và là một trong các pháp Tam niệm, Lục niệm, Thập niệm.
Kính trích đoạn …
Bấy giờ, Đức Phật đang ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ Đà, nước Xá Vệ, nói với các thầy Tỳ kheo: “Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Đã tu hành một pháp rồi, liền có danh dự, thành tựu quả báo lớn, các điều thiện đủ cả, được vị cam lồ, đến chỗ vô vi, liền được thần thông, trừ các loạn tưởng, được quả Sa môn, tự đến Niết bàn. Một pháp ấy là gì? Đó là niệm Phật” (Đại chính 2, tr. 532).
Bất cứ người học Phật nào đã kinh qua giáo lý thì đều hiểu rằng:
– Trong thời A Hàm, Đức Phật chủ trương nói pháp sanh diệt, tứ đế và nhân duyên cho các đệ tử tu thiền tứ niệm xứ và quán thập nhị nhân duyên (tiểu thừa hay phật giáo nguyên thủy) nhưng cũng giới thiệu pháp niệm Phật như một pháp tu thoát ly sinh tử đạt đến Niết bàn.
Trong kinh Tăng Nhất A Hàm Hán tạng và Nikàya (Pali tạng) Đức Phật khai mở dây sanh tử cho tất cả chúng sanh: Ngài đích thân đối với tứ chúng chỉ rõ pháp hiểu biết, khiến họ thấy hoặc nghe, đều được an tâm. Đức Phật thật là bậc Đạo nhơn, là Thiện nhơn, là Quyết định nhơn, là Vô lậu nhơn, vì Ngài thấu suốt thân mệnh, chính là bậc Đại nhơn trí tuệ cao cả vậy. (Kinh Tăng Nhứt A Hàm)
(Cũng kinh này) Tỳ kheo nương Phật pháp mà sanh lòng tin: tin rằng Đức Như Lai là: Thế Tôn, bậc Chánh đẳng Chánh giác, Chánh Biến Tri, Minh hạnh Túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng Phu, Thiên nhơn sư, Phật. Ngài chứng quả an lành không bệnh; tu nhẫn nại và tinh tấn mức trung đạo, chứng quả chẳng hư ngụy, chẳng mê hoặc. Đúng như thật đối trước các bậc sư chủ: Chỉ rõ đạo nghĩa, an trụ tinh tấn, bỏ pháp bất thiện, phát khởi thiện pháp, nương thiện pháp mà quyết định bền chắc. Thế mới thành tựu bậc trí huệ chứng Vô thượng trí vậy.
Vậy thì …hãy nghe Đức Phật giải thích thế nào là niệm Phật:
“Nếu có Tỳ kheo nào chánh thân, chánh ý, ngồi bắt tréo chân, chuyên tinh niệm Phật, không có niệm tưởng nào khác. Quán hình của Như Lai, mắt không hề rời. Trong khi mắt không rời, niệm tưởng công đức Như Lai” (sđd, tr.5)
Trong kinh Trì Trai - số 202, Trung A Hàm, tương đương kinh Visàkhà-sutta, Tăng Chi Bộ- Kinh này cho thấy nhờ niệm Phật mà tâm được tĩnh lặng và tất cả mọi nghiệp bất thiện đều được tiêu diệt,
Kinh này được thuyết cho cư sĩ Tỳ Xá Khư, khi Phật đang trú tại nước Xá Vệ, trong Đông viên, Lộc Tử Mẫu giảng đường.
“Này cư sĩ! Đa văn Thánh đệ tử khi trì trai niệm tưởng Như Lai rằng, Thế Tôn là Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Người ấy sau khi niệm tưởng Như Lai như vậy, ác tham nếu có liền bị tiêu diệt. Những pháp tạp uế, ác bất thiện, nếu có cũng bị diệt. Này cư sĩ, đa văn Thánh đệ tử duyên nơi Như Lai cho nên tâm tĩnh, được hỷ, ác tham lam nếu có liền bị diệt, pháp tạp uế, ác bất thiện nếu có cũng bị tiêu diệt”.
.Còn trong kinh Tăng Nhất A Hàm “Nếu có người dùng vật dụng cúng dường tất cả chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề thì phước đức rất lớn. Nhưng chẳng bằng người xưng niệm danh hiệu Phật trong một giây lát, công đức kia không thể nghĩ bàn.”
Rõ ràng cả tạng kinh điển Pali và Hán tạng đều ghi nhận pháp môn niệm Phật rất rõ ràng. Điều này chứng tỏ pháp môn này rất phổ biến trong thời Đức Phật, được đích thân Đức Thế Tôn chỉ dẫn, và xem nó như là một trong những con đường đi đến giác ngộ giải thoát.
Nếu đã nghiệm được pháp môn niệm Phật là một trong những con đường đi đến giác ngộ giải thoát thì lợi ích của việc niệm Phật đã được bao hàm trong Sự và Lý.
Nào …. cùng nhìn lại lợi ích về Sự :
1– tránh được phiền não ( một câu niệm Phật giải oan khiên).
Những người gặp các cảnh khổ, như tử biệt sanh ly, nhà tan cửa mất, tai nạn bất thường v.v ..sanh các phiền não, nếu biết chí tâm niệm Phật, thì các phiền não khỗ đau đần dần sẽ tiêu tan?
Nếu tâm ta chỉ nhớ nghĩ đến những tai nạn khổ đau, thì luôn luôn sẽ bị phiền não khuấy đục. Khi ta niệm Phật thì sẽ cố nhiên nhớ Phật, quên đau khổ. Đem sự nhớ Phật này thế cho cải hóa sự đau khổ; một giờ niệm Phật thì sẽ đổi được một giờ sầu khổ, một ngày niệm Phật thì đổi được một ngày khổ đau.
Cứ như thế, nếu niệm Phật được tăng chừng nào, thì sự buồn phiền đau khổ sẽ giảm đi chừng ấy.
2—Niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh.
Chúng sanh hằng ngày nhớ nghĩ đến những điều tội lỗi như tham, sân, si v.v ..miệng thốt ra những điều tội ác, thân làm những việc xấu xa. Đó là những ác nghiệp của chúng sanh. Nay nếu chúng ta niệm Phật, thì chúng ta không còn thì giờ để nhớ nghĩ việc tội lỗi nữa và thực hành những ác nghiệp trên nữa. Như thế là niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh.
Niệm Phật càng nhiều thì niệm chúng sanh càng ít. Niệm Phật hoàn toàn thì niệm chúng sanh dứt sạch.
3– Niệm Phật giúp tâm nhẹ nhàng thanh thản an ổn.
Bệnh tật của chúng ta, một phần do thể xác, nhưng một phần củng do ảnh hưởng của tinh thần. Nhiều người mất ăn bỏ ngủ vì uất hận, nhục nhã v.v.. Do đó, uất khí tích tụ lâu ngày trong người, mà sinh bệnh mất ăn bỏ ngủ. Gặp những trường hợp như vậy, nếu chúng ta niệm Phật cho ra tiếng, thì những nỗi uất hận đè nặng lên tâm can chúng ta sẽ như được trút ra cùng hơi thở, cùng tiếng niệm, và thâm tâm ta được nhẹ nhàng dễ chịu. Những người yếu tim, nếu biết niệm Phật sẽ mau bình phục. Vì bệnh yếu tim thường làm cho người bệnh hồi hộp, lo sợ; nay nhờ niệm Phật nên tâm định, tâm định thì những sự hồi hộp lo nghĩ giảm đi. Do đó mà ăn được, ngủ yên và bệnh mau bình phục.
4—Niệm Phật tâm trí sẽ sáng suốt, học hành mau nhớ.
Những người tâm trí loạn động thì tối tăm, như ngọn đèn bị gió, không sáng được. Nhờ niệm Phật, tâm trí sẽ định tĩnh, như ngọn đèn có ống khói, không lay động. Do đó tâm trí sẽ phát chiếu, như ngọn đèn tỏa ánh sáng vậy.
5—Niệm Phật khi lâm chung sẽ được sanh về Tịnh độ.
Như chúng ta đã thấy ở trên, niệm Phật đem lại cho chúng ta nhiều ích lợi thiết thực trong đời sống hiện tại, về phương diện thể chất lẫn tinh thần, về tính tình lẫn trí huệ. Nhưng cái lợi ích lớn nhất là ở đời sau. Nếu chúng ta thực hành pháp niệm Phật này, đúng như lời Phật dạy, cho đến “nhất tâm bất loạn” thì sau khi lâm chung, sẽ sanh về Tịnh độ, được luôn luôn thấy Phật nghe pháp, làm bạn với thánh hiền, và có đủ nhiều thiện duyên để tiếp tục tu hành cho đến quả Phật.
Riêng lợi ích về Lý có thể nhìn theo khía cạnh sau đây:
Ta thường nghe “Tự tánh Đi-Đà, duy tâm Tịnh độ” có nghĩa là người niệm Phật đến khi hết vọng, ngộ nhập được chân tâm rồi, thì Phật A-Di-Đà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nơi tâm mình hiện ra, chứ không phải đâu xa.
Đó là khi hành giả niệm Phật được “nhất tâm bất loạn”, thì các vọng tưởng hết, chân tâm thanh tịnh hiện ra. Chân tâm không sanh diệt hư hoại là “Thường”, chân tâm thanh tịnh vắng lặng là “Tịch”, chân tâm sáng suốt vô cùng là quang cảnh “Thường-Tịch-Quang Tịnh-độ” chỉ ở nơi chân tâm ta, chứ không nơi đâu khác.
Lại nữa, chân tâm không hoại diệt là ”Phật Vô-lượng-thọ”; chân tâm chiếu soi vô tận là “Phật Vô-lượng-quang” và đó cũng tức là “Thanh -tịnh diệu pháp thân của Phật A-Di-Đà”.
Nói tóm lại pháp niệm Phật được sự lợi ích vô cùng. Nếu những người không tin có Phật A-Di-Đà, có cảnh Tịnh độ mà chí tâm niệm Phật, thì cũng được nhiều lợi ích như thế.
(ST từ con đường tu tịnh độ).
Lại nữa trích đoạn trong tập của Pháp sư Ấn Quang:
Từ Vân Sám Chủ nói: "Tam giới đại sư, vạn đức từ phụ, quy y Ngài thời tội diệt; kính Ngài thời phước sanh. Các kinh đã nói đủ. Nếu có thể quy y Tam Bảo, thọ trì danh hiệu một vị Phật thì hiện đời sẽ được mười điều lợi thù thắng..."
1. Ngày đêm thường được hết thảy chư thiên, đại lực thần tướng ẩn hình thủ hộ.
2. Thường được hai mươi lăm vị Bồ Tát như Quán Thế Âm v.v… thủ hộ.
3. Thường được chư Phật ngày đêm hộ niệm, A Di Đà Phật thường phóng quang minh nhiếp thọ người ấy.
4. Hết thảy ác quỷ, dạ xoa, la sát đều chẳng hại được; rắn độc, thuốc độc thảy đều chẳng làm hại nổi.
5. Đều chẳng mắc nạn nước, lửa, oán tặc, đao, tên, gông cùm, tù ngục, chết ngang.
6. Những tội trước kia trót tạo đều sẽ tiêu diệt; mạng trót giết oan đều được giải thoát, chẳng còn đối chấp.
7. Đêm mộng điều tốt lành, thấy hình sắc tượng thắng diệu của Phật A Di Đà.
8. Tâm thường hoan hỉ, nhan sắc tươi nhuận, khí lực sung mãn, việc làm tốt lành.
9. Thường được hết thảy thế gian, nhân dân cung kính, lễ bái giống như kính Phật.
10. Lúc mạng chung, tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện tiền, A Di Đà Phật và các thánh chúng cầm đài kim cang tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc thế giới hưởng sự vui mầu nhiệm thù thắng đến cùng tột đời vị lai”. 
 
Từ khi tham khảo Kính Lời Vàng (Tác giả: Dương Tú Hạc- Dịch giả: HT Thích Trí Nghiêm) tôi thật thích thú khi được ghi lại thêm những trích yếu tuyệt vời như sau:
1– Đức Phật bảo Ngài Di Lặc rằng : Nghe danh hiệu Đức Phật kia, vui mừng nhảy nhót, cho đến một niệm. Phải biết người ấy ắt được lợi lớn. Ấy là đủ công Đức cao tột. (kinh Vô Lượng Thọ)
2– Đức Phật bảo Ca Diếp Bồ tát: "Nếu có trai lành gái thiện naò, thường hay chăm lòng chuyên cần niệm Phật, hoặc nơi núi rừng, hoặc nơi xóm làng, hoặc ngày đêm, hoặc ngồi nằm, các đức Phật Thế Tôn thường thấy người này như hiện trước mắt. (Kinh Niết Bàn)
3–Đức Phật bảo A Nan và bà Vi Đề Hy: "Các Phật Như Lai lấy pháp giới làm thân, cho nên vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh; vậy nên các ngươi mỗi khi tâm tưởng Phật, tâm nầy tức là 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Tâm này phải làm Phật vì tâm này là Phật. Các đức Phật là biển chánh biến tri, từ tâm tưởng mà sanh ra.
Nếu ai biết niệm Phật, thì phải biết người này là hoa sen báu trong loài người, Đức Quan Thế Âm Bồ tát, Đức Đại Thế Chí Bồ tát là bạn thù thắng của người ấy, và thường ở đạo tràng sanh trong nhà các đức Phật. (Kinh Quán Vô Lượng)
4–Nếu ai hay chăm lòng niệm Phật luôn, thẳng ngồi chánh định, quán tưởng sắc thân Phật, nên biết người này lòng như lòng Phật cùng Phật không khác. Tuy còn ở trong phiền não mà chẳng bị các điều ác che lấp, sang qua đời sau họ sẽ rưới những trận mưa đại pháp. (Kinh Quán Phật)
 5–Nếu người trì Phật danh, chẳng sanh tâm khiếp sợ, có trí huệ mà chẳng dua vậy, thường ở ngay trước các đức Phật. (Kinh Thập Nhị Phật Danh)
 6–Nếu có người, ngày ngày xưng tụng danh hiệu Như Lai, những chúng sanh ấy có thể xa lìa chốn tối tăm, lần lữa đốt được các phiền não. Như vậy xưng niệm nam mô Phật, thì ngữ nghiệp chẳng luống công. Như vậy ngữ nghiệp gọi là tay cầm cây đuốc lớn hay soi phá các phiền não tối tăm. (Kinh Bảo Tích)
 7– Quy y, cung kính nhớ tưởng Phật chắc được ra khỏi sanh tử, đến Niết bàn. Cho đến, hoặc có trai lành gái thiện, ít nhất một phen xưng: "nam mô Phật đà đại từ bi" thì trai lành gái thiện này hết ngằn mé sanh tử, căn lành không cùng tận, sanh ở trong cõi trời thường hưởng quả giàu vui. Cuối cùng vào cảnh giới Niết bàn. (Kinh Bát Nhã)
 8–.Vua Tịnh Phạn đại vương thưa Phật rằng: "Công đức niệm Phật tướng trạng ra sao?" Đức Phật thưa lại vua cha rằng: "Như đám rừng cây y lan, chu vi rộng chừng 40 do tuần mà chỉ có một cây ngưu đầu chiên đàn tuy đã có rễ, mộng mà chưa mọc khỏi đất. Loại y lan chỉ có hôi thúi mà không mùi thơm; nếu ai ăn phải hoa, trái nó thì phát cuồng mà chết mất. Về sau mộng rễ chiên đàn dần dần sanh trưởng thành cây, mùi thơm ngào ngạt liền át mùi thúi rừng y lan thảy đều thơm đẹp. Chúng sanh nghe thấy đều cho là hiếm có.
Đức Phật lại thưa với Phụ vương rằng: "Tất cả chúng sanh còn ở trong sanh tử, thành tâm niệm Phật cũng chính như thế. Chỉ hay chăm niệm luôn chẳng dứt, quyết định sanh ngay cõi Phật. Đã được vãng sanh tức có thể cải biến tất cả điều ác trở thành đại từ bi như gỗ trầm hương chiên đàn biến cải mùi hôi rừng y lan." (Kinh Quán Phật Tam Muội)
 9–Vua Di Lan hỏi ngài La Hớn Na Tiên Tỳ Kheo rằng: "Nói người làm ác đến trăm năm, đến khi sắp chết nếu biết niệm Phật, chết rồi sanh về cõi trời. Lời nói này tôi không tin nổi.
Lại nữa, chỉ một lần sát sanh, sau chết đọa vào địa ngục, tôi cũng không tin nổi." Ngài Na Tiên trả lời: "có người cầm cục đá nhỏ để trên mặt nước, đá ấy nổi hay chìm?" Vua trả lời: "Chìm." Ngài nói: "như đem trăm cục đá lớn để trên thuyền, chiếc thuyền ấy chìm hay không?" Vua nói: "chẳng chìm." Ngài nói: "trăm hòn đá lớn trong thuyền, nhờ thuyền nó chẳng chìm. Người tuy có tội lớn, nếu một khi biết niệm Phật, thì nhờ Phật chẳng đọa địa ngục, lại được sanh lên trời, sao lại chẳng tin nổi? Hòn đá nhỏ chìm ngập như người làm ác chẳng biết niệm Phật, chết đọa điạ ngục sao lại chẳng tin?" Nhà vua khen: "Hay quá, ngài nói hay quá." (Kinh Na Tiên Tỳ Kheo)
 10–Người tu nhứt hạnh tam muội, nên ở chỗ vắng lặng, bỏ các loạn ý, buộc tâm nơi Phật lý, tưởng niệm một đức Phật, niệm niệm nối nhau, chẳng cho trễ nãi, chừng trong một niệm tức hay thấy mười phương Phật, được đại biện tài.(Kinh Văn Thù Bát Nhã)
11–Đức Phật bảo A Nan: Thợ bắt cá vì muốn được cá nên gắn mồi lưỡi câu thả vào ao nước cho cá nuốt mồi: cá đã nuốt mồi, tuy còn ở dưới ao nhưng chẳng bao lâu sẽ bị bắt lên. Nầy A Nan, tất cả chúng sanh đối với các đức Phật được sanh lòng kính tin trồng các căn lành, tu hạnh bố thí, cho đến phát tâm được một niệm kính tin, tuy còn bị các nghiệp ác bất thiện ngăn che đọa trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Các Đức Phật Thế Tôn lấy Phật nhãn xem các chúng sanh nầy vì đã phát tâm thù thắng, nên cứu vớt ra khỏi địa ngục. Đã cứu vớt xong, đem để trên bờ Niết bàn. (Kinh Đại Bi).
 
Lời kết:
 Là một người học Phật trong thời đại công nghệ này, trộm nghĩ người người đều bận rộn vô cùng, với pháp môn niệm Phật như Đức Phật đã chỉ dạy thì có thể chỉ cần niệm danh hiệu Đức Phật nào cũng được vì một vị A Là Hán được thành tựu quả Phật cũng có 10 danh hiệu: Chánh Biến Tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật , Thế Tôn và như đã đọc phần trên điều tốt nhất nên nhớ kỹ lời Đức Phật đã giảng cho Phụ vương Tịnh Phạn "Tất cả chúng sanh còn ở trong sanh tử, thành tâm niệm Phật cũng chính như thế. Chỉ hay chăm niệm luôn chẳng dứt, quyết định sanh ngay cõi Phật. Đã được vãng sanh tức có thể cải biến tất cả điều ác trở thành đại từ bi”
Chúc mừng bạn …suy nghĩ được nghĩa lý Phật Đạo
Pháp môn Niệm Phật …khó thể nghĩ bàn
Lợi ích vô cùng dù bận rộn chốn thế gian
Niệm hết vọng …ngộ nhập chân tâm thoát ly sanh tử
“Tự tánh Di Đà …Duy tâm Tịnh độ” …này bạn lữ
Phương tiện giáo hoá tuỳ thuận chúng sanh
Thành tâm niệm nhớ Phật ..căn cơ dù chậm, lanh
Quyết định về ngay cõi Phật …Niết Bàn thù thắng
Hãy phát nguyện dứt ác ngữ, dục lạc không chìm đắm
Tội diệt, phước sanh… luôn tinh tấn nghĩ rằng
Tâm mình phải là Phật, Phật chính là Tâm
Không còn loạn ý, định tĩnh …mặt trời huệ phát chiếu!!
Dù Nam Tông, Bắc Tông ….thật là cần yếu!
Khi biết niệm Phật …hoa sen báu trong loài người
Khí lực sung mãn, nhan sắc nhuận tươi
Chư Thiên, Hộ Pháp, Bồ Tát…thường xuyên xuất hiện
Người tin Phật Pháp rồi …
phát tâm đại dõng mãnh - niệm niệm.
Huệ Hương
(ST trên mạng và tham khảo Kinh Lời Vàng)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 4534)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 5603)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 5245)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 9206)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 4427)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3428)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 6172)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 6791)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 10461)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567