Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ Ngữ Sinh Động Lạ Kỳ: "Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng"

24/06/201817:59(Xem: 7288)
Từ Ngữ Sinh Động Lạ Kỳ: "Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng"
chap tay1
TỪ NGỮ  SINH ĐỘNG LẠ KỲ : 
" NAM MÔ PHẬT , NAM MÔ PHÁP , NAM MÔ TĂNG " 

Lời người viết:

Tôi thường được dạy rằng , nếu học mà không tư duy và không có đủ căn cơ để nhận thức vấn đề một cách sâu sắc và thực hành tinh tấn với khả năng mình có mà chỉ chép ra hay học thuộc những gì  các nhà bác học , giác ngộ thuyết giảng thì đó là đang uống những toa thuốc gia truyền và đôi khi sẽ bị dị ứng và phản ứng tai hại cho cơ thể.

Nhưng một học giả chuyên giảng luận về Kinh Pháp Hoa có dạy thêm rằng , nếu ta cảm thấy thích thú với một đề tài nào đó làm chúng ta hưng phấn lên và muốn phát triển hơn thêm thì hãy tiếp tục đi sâu vào vì đó là tri thức của chúng ta muốn giải quyết một vấn đề mà ta thắc mắc ....và tôi vẫn thường suy nghĩ về câu Nam Mô.

Hôm nay nguyên nhân người viết trình bày với bạn hữu những gì được nghe và hiểu:

"Đó là Niềm Tin qua câu khấn nguyện Nam Mô Phật , Pháp ,Tăng " một vấn đề đã từ lâu người viết suy tư tuy còn thô thiển nhưng hy vọng rằng cũng không đến nỗi tẽ nhạt và vô vị .....

Nhiều lần học giáo lý Phật Pháp đôi khi ta vẫn thường nghe nói đến học thuyết " Nhất niệm tam thiên" có nghĩa là chỉ thoáng trong một ý nghĩ là những trạng thái tâm thức của Ta sẽ đưa đến ba cõi sáu đường.

Như vậy đối với những vấn đề Tâm Linh sâu sắc và tế nhị như thế chỉ những người nghiên cứu thâm sâu và rốt ráo  mới có thể cho ra những nhận xét mà ta học được từ họ qua những kinh nghiệm từ bản thân họ (những nhà tôn giáo quyền lực ) như sau:

SỰ GIẢI THOÁT THỰC SỰ CỦA TA PHẢI ĐƯỢC THỰC HIỆN DO TÔN GIÁO nhất là Phật giáo bao gồm Giáo lý triết học và Đạo Đức mà Christmas Humphrey gọi là MỘT PHẬT GIÁO RẤT SINH ĐỘNG.

Quả thật vậy , theo Nikkyo Niwano trong một bài viết về kinh Pháp Hoa , Ông đã cho rằng: Khi ta nghiên cứu sâu vào giáo lý , ta sẽ thấy có một điều gì đó không thể diễn tả được , xúc chạm trực tiếp vào lòng ta , giống như một ánh sáng bao trùm ta một cách ấm áp và soi chiếu rõ ràng rọi thẳng vào con đường chúng ta đang định hướng đến " CÁI GÌ ĐÓ CHÍNH LÀ NIỀM TIN " và cũng chính là Giáo lý thực dụng và đạo đức mà Đức Thế Tôn đã dạy ta cách giải quyết bằng tri thức và nỗ lực của con người ......

Từ những lời trình bày thật rõ ràng , người viết xin được tóm tắt lại để chúng ta cùng nhau thưởng thức hương vị ngọt ngào của Giáo Pháp của Đức Thế Tôn mà hơn 2562 năm nay vẫn còn sinh động như thuở nào.

**NHỜ CÓ NIỀM TIN chúng ta sẽ suy nghĩ đúng đắn hơn về Cái Sống và Cái Chết 

Ta phải hiểu chắc trong Tâm ta rằng " Sự sống của Ta cần hợp nhất với sự sống của vũ trụ"  nghĩa là ta có thể khiến tư duy của Ta và hành xử của Ta phải hài hoà một cách tự nhiên với hoàn cảnh chung quanh mình thì ta sẽ tránh được những khổ đau lo lắng luôn làm chúng ta não loạn rối rắm.
 

**Cái Tâm thức được sự sống vũ trụ lớn lao làm sinh động chúng ta và sẽ truyền  đến cho ta một niềm hy vọng và sự can đảm để ta đạt được một Niềm Tin cao tột , nhất là khi Ta phải đối mặt với với những nỗi khổ đau trầm trọng và ta cảm thấy như phải nương dựa vào một quyền lục tối cao nào đó có năng lực tuyệt đối hơn mình và tìm xin một sự cầu cứu thì việc niệm NAM MÔ PHẬT chính đã truyền sự sống đến cho Ta.
 

**Nam Mô theo nghĩa Sankrit là " hết lòng nương tựa vào Pháp với niềm tin cậy hoàn toàn " mà Pháp cũng chính là Chân lý 

Trạng thái cao vời mang tính tôn giáo khi chúng ta cảm thấy lòng biết ơn và niềm hoan hỷ khó tả, đó chính là niềm tin thuần khiết và cao thượng nhất khi ta niệm hai chữ NAM MÔ.
 

Tuy nhiên người có học Đạo ai cũng biết rằng sự hiểu Pháp luôn khác nhau theo từng giai đoạn và tuỳ khả năng căn cơ của mỗi người , chính vì thế mà Đức Thế Tôn đã từng dạy " CÁC ÔNG CÓ THỂ NƯƠNG TỰA VÀO CHÍNH MÌNH nghĩa là phải nương dựa vào chân lý vào Pháp và đi theo bằng chính sự nỗ lực của chính  ta và câu HÃY TỰ MÌNH LÀM ÁNH SÁNG CHO CHÍNH MÌNH mà qua lời dạy trên ta đã hiểu ngầm rằng Cái mà ta nương dựa đó ( Pháp) ở cả bên trong lẫn bên ngoài chúng ta cũng như đã thấy được rằng Thân ta được chân lý này tạo ra và được nó làm cho sống, Tâm ta cũng được chính chân lý tạo ra và được nó làm cho vận hành.
 

Như vậy tất cả sự vật bao gồm xã hội, trời đất, cây cối, chim muông thú vật và loài người đều được chân lý làm ra và được nó làm cho sống .Và một khi ta đã nhận thức chắc chắn trong thâm tâm rằng ta được sinh ra từ cái sự sống lớn lao thấm nhuần từ Vũ Trụ thì ta có thể an tâm thực sự và khi ấy ta nhủ thầm mình đã đạt được tâm thức " Không bị cái gì dao động ". 

Tuy nhiên một người bình thường không thể nhận được Pháp, vì Pháp là thứ không thể Thấy và không thể nắm bắt được, do đó mà Đức Phật Thích Ca đã thể hiện Pháp hay Chân lý bằng hình tướng Phật và Ngài đã tuyên bố rằng " AI THẤY PHÁP TỨC LÀ THẤY PHẬT " và Ngài còn giảng thêm rằng :" Đức Phật có năng lực tuyệt đối và là một hiện hữu bất diệt hiện diện trong mỗi sự vật và khiến cho chúng sinh ra. Đó là Đức Phật Vĩnh Cữu hay còn gọi là cái năng lực làm cho mọi sự sống.
 

 Đức Phật này có mặt khắp mọi nơi theo hình tướng mà Ngài xuất hiện nếu ở cõi người thì Ngài sẽ hiện ra dưới dạng con người. Chính vì thế  Phẩm Như Lai  Thọ Lượng trong kinh Pháp Hoa ta đã nghe Đức Phật thốt ra ba lần  " HÃY TIN VÀ NHẬN RÕ LỜI NÓI CHÂN THẬT CỦA NHƯ LAI " có hàm ý rằng " Hãy tin và nhận rõ Pháp ( Chân Lý ). Hãy tin Chân Lý một cách thẩm sâu và triệt để thì các người sẽ hiểu rõ giá trị của Pháp như Ta ".
 

Và cuối cùng tôi cũng xin bổ túc lời nhận xét của Đức Đạt  Lai Lạt Ma 14 qua đoạn văn phỏng vấn của Melvin McLoad ".  Phật giáo nhấn mạnh tầm quan trọng của đức tin, nhưng đức tin phải đi kèm với trí tuệ. Tương tự như vậy, tình yêu và từ bi cũng phải kết hợp với trí tuệ. Trong đạo Phật và đặc biệt là từ truyền thống của Nalanda, trí thông minh hay lý luận là rất quan trọng. Đức Phật là bậc triết gia kiêm nhà tư tưởng vĩ đại, đồng thời là một nhà khoa học. Ngài nói với tín đồ rằng họ không nên tiếp nhận lời dạy của Người chỉ bằng đức tin mà còn qua điều tra, thử nghiệm. Vì vậy, Phật giáo coi lý luận, phân tích, bằng chứng và yếu tố then chốt. Những thứ đó đem đến đức tin.   Nhiều năm trước, tôi nói với một người bạn là nhà sư phương Tây rằng tôi muốn có nhiều cuộc thảo luận nghiêm túc với các chuyên gia khoa học. Người bạn đó khuyên hãy cẩn thận bởi khoa học giết chết tôn giáo. Tôi liền trích dẫn lời Đức Phật rằng một người không nên chấp nhận bất cứ kiến thức nào chỉ bằng lòng tin hay sự tôn trọng mà phải qua điều tra kỹ lưỡng." 

Hẳn các bạn đã tìm thấy sự sinh động của từ ngữ Nam Mô với Trí tuệ của bạn rồi chứ và các bạn đã hiểu thế nào khi Đức Phật theo phương tiện đã đặt Tín Căn lên hàng đầu  trong Ngũ Căn ( Năm thiện Tánh ) đó là Tín , Tấn , Niệm Định Tuệ và một khi ta đã hiểu rõ được Pháp thì 5 quan năng này phải liên tục trong nhau.
 

Và Ta không thể cứu độ được  một ai nếu người ấy chỉ hiểu lý thuyết suông , chỉ khi nào người ấy TIN TỰ ĐÁY LÒNG  thì Đức Tin ấy mới tạo ra năng lực  để có thể phát âm từ ngữ NAM MÔ PHẬT ,NAM MÔ PHÁP , NAM MÔ TĂNG.
 

Hy vọng với sự trình bày trên các bạn cũng nhận được sự tín thành của tôi  với Phật Pháp Tăng và đương nhiên Nam Mô là câu đầu tiên trong các buổi công phu và sám hối của mình, bạn ơi!

Xin tặng bạn vài lời dạy của Krishnamurti mà tôi viết thành câu thơ để cho dễ nhớ:
 

Một đời được  học hỏi 

Bỏ CÁNH CỬA LÀ TÔI *

Xua  tan đi bóng tối 

Vượt CÁI CỬA TRONG TÔI **

NAM MÔ.... dừng tội lỗi 

* ý nói là tiểu ngã 

**ý nói cái cửa mở ra không  ở bên ngoài , nó là bản thân ta 

Huệ Hương 

Melbourne một ngày đông rất lạnh 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/05/2014(Xem: 5562)
Tha lực theo nghĩa hẹp là lực tác động từ bên ngoài. Trong Phật giáo, tha lực là Phật lực hoặc Thánh lực (Bồ Tát) được tác ý làm cho nhân tốt trổ quả hoặc tạo nhân quả tốt cho chúng sanh hữu tình vì lòng bi mẫn của Đấng Thiện Thệ. Qua phương pháp phân tích văn bản đối chiếu hai nguồn Kinh tạng: Pali Tạng (Tạng kinh của Phật Giáo Nguyên Thủy) và Hán Tạng (Tạng kinh của Phật Giáo Đại Thừa). Bài tiểu luận này mổ xẻ hai chủ đề chính: tính tương đồng và logic giữa hai nguồn kinh tạng về tha lực.
14/05/2014(Xem: 5840)
1.1 Khái niệm về pháp niệm Phật và cảnh giới Tịnh Độ 1.2 Niệm Phật trong kinh điển Hán tạng và Nikaya 2.1 Ngài Huệ Viễn và pháp môn niệm Phật 2.2 Bốn cách niệm Phật của ngài Tông Mật (784-841) 2.3 Năm phương diện niệm Phật của Trí Giả Đại Sư 3.1 Vài suy nghĩ về pháp tu niệm Phật trong xã hội hiện đại 3.2 Tính chất giải thoát từ pháp môn Niệm Phật 3.3 Niệm Phật và lý tưởng Nhân Gian Tịnh Độ 4. Kết luận
13/04/2014(Xem: 9171)
Bối cảnh lịch sử của Phật giáo trước sự ra đời của phương pháp Thiền Tịnh song tu Trên phương diện Phật giáo sử, dễ dàng nhận thấy Thiền Tông và Tịnh Độ Tông xuất hiện trong khoảng thời gian trước và sau đời Tùy-Đường[1]; từ đó pháp niệm Phật Thiền hình thành và liên quan sự phát triển pháp Thiền Tịnh Song Tu. Vấn đề này, trước tiên cần tìm hiểu về ý nghĩa niệm Phật trong kinh điển Phật giáo Nguyên Thủy, cụ thể trong kinh A Hàm, kinh tạp A Hàm, kinh Tăng Chi và trong kinh điển Đại Thừa. Thời Phật tại thế đã dạy đệ tử xuất gia, tại gia về phương pháp niệm Phật như là phương thức quán niệm hỗ trợ cho pháp thiền định, bảo hộ đời sống an lành, đối trị mọi phiền não.
15/03/2014(Xem: 7378)
Tất cả chúng ta đều thấy rõ sự phổ biến về thực tập thiền quán trong xã hội đương thời bất chấp sự hội nhập tôn giáo. Mặc dù thiền quán có một vị trí nổi bật trong việc thực tập của Phật Giáo từ lúc khởi đầu của nó, nhưng Thân Loan đã phủ nhận sự thực tập của tự lực (tự cố gắng) và đối lập đến niềm tin và nương tựa Đại Nguyện của Đức Phật Di Đà như con đường để giác ngộ.
10/02/2014(Xem: 8070)
Điểm đến của người tu học Phật thường là chứng ngộ (đắc đạo). Nhưng tại sao gần đây, ta cũng hay nghe nói Vãng sanh Cực Lạc
03/02/2014(Xem: 6544)
* Con người sống trên đời cần nên tạo phước đức Là người Phật tử, tôi biết được một sự thật là tiền tài, quyền lực, địa vị, danh vọng không thể che chở cho con mình mỗi khi gặp tai họa mà chỉ có phước đức, công đức mới là chiếc áo giáp vô hình chắc chắn khiến cho con
26/12/2013(Xem: 10398)
Thí dụ như có người ở nơi đồng vắng bị giặc cướp cầm gươm rượt theo muốn giết (dụ cho sanh tử, vô thường, không tha mạng sống). Người đó sợ hải quá, cắm đầu chạy riết, đến chỗ gặp một con sông chắn ngang qua (con sông sanh tử. Bờ bên này là sanh tử ngạn, bờ bên kia là giải thoát ngạn). Người ấy vừa chạy trốn vừa thoáng nghĩ trong đầu rằng - Nếu ta lội qua khỏi được con sông này, đến B
19/12/2013(Xem: 20082)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà Hán dịch: Tào Nguỵ, Pháp Sư Khương Tăng Khải Việt dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Anh dịch: http://www.purifymind.com/FortyEight.html Sưu tập: Tuệ Uyển, Wednesday, December 18, 2013 48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà 48 Vows of Amitabha Buddha 1. Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác. 1."Provided I become a Buddha, if in my Buddha-land there should be either hell, or the animal state of existence, or the realm of hungry ghosts, then may I not attain enlightenment.
17/12/2013(Xem: 12619)
Xã hội ngày nay, lòng người ác độc; cho nên bị thiên tai, nhân họa thường xuyên giáng xuống. Khi tai họa ập đến không ai lường trước được, không thể trốn tránh và đề phòng không kịp.
13/12/2013(Xem: 10691)
1. Anagarika Govinda là một Lama, người Bolivia, nguyên giảng dạy Triết học tại Đại học Naples. Từ năm 1928-1930 ông qua Sri Lanka, xuất gia với Đại đức Nyatiloka Mahathera, rồi trụ trì chùa Polgasduwa. Năm 1947, ông qua Tây Tạng, được làm đệ tử của Lama Ngawang
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567