Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chỉ Niệm Hồng Danh Chư Phật Có Lên Niết Bàn ?

13/12/201310:35(Xem: 10652)
Chỉ Niệm Hồng Danh Chư Phật Có Lên Niết Bàn ?

Chỉ Niệm Hồng Danh Chư Phật

Có Lên Niết Bàn Được Không?


niem phat

1. Anagarika Govinda là một Lama, người Bolivia, nguyên giảng dạy Triết học tại Đại học Naples. Từ năm 1928-1930 ông qua Sri Lanka, xuất gia với Đại đức Nyatiloka Mahathera, rồi trụ trì chùa Polgasduwa. Năm 1947, ông qua Tây Tạng, được làm đệ tử của Lama Ngawang Kalzang ( Tomo Geshe Rinpoche). Đến và đi Tây Tạng nhiều lần. Tại đây, ông đã đi du lịch nhiều nơi, gặp gỡ nhiều Tu sĩ, thăm viếng nhiều Chùa chiền, tích luỹ một nền tảng sâu rộng về Phật giáo Tây Tạng. Trở về Ấn độ một thời gian, ông may mắn được gặp gỡ các học giả Nandalai Bose, Rabrindanath Tagore, Mahatma Gamdhi,... Sau đó, với dự định thăm viếng Tây Tạng lần thứ 2, ông bị quản thúc tại Chumbi, một làng nhỏ gần biên giới Ấn Tạng. Tại đây, ông lại được Thọ giáo Lama Ajo.

Ông viết khá nhiều sách về Phật giáo Nam Tông, về Phật giáo Tây Tạng. Trong cuốn The Way of the White Clouds, Dịch giả Nguyên Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề Đường Mây qua xứ Tuyết, có một đoạn ông kể về Lama Ajo, mà tôi rất ấn tượng. Chuyện như sau: Ajo cùng với Reto, theo học một Thày. Reto là một học giả tinh thông Kinh điển, có thể giảng giải, có thể trích dẫn hầu như tất cả sách vở một cách dễ dàng. Ajo chỉ chuyên tâm lễ bái, Thiền định. Lama Reto luôn vươn tới những cái cao hơn. Reto ghi danh vào học Đại học Drepung, học xuất sắc và tốt nghiệp Thủ khoa, trở thành một Pháp sư nổi tiếng của Tây Tạng. Lama Ajo vẫn ẩn tu tại làng Chumbi. Nhiều năm trôi qua, Lama Reto có dịp về nơi cũ cũ, và gặp lại bạn đồng môn Lama Ajo.

Gặp nhau mừng rỡ, chuyện trò vui vẻ. Reto hỏi thăm Ajo về việc tu học. Ajo chân thật kể rằng bao nhiêu năm qua chỉ chuyên tụng một bộ Kinh Adida. Lama Reto buồn lòng, tiếc cho bạn mình. Kinh điển thiên kinh vạn quyển không đọc mà chỉ tụng có một bộ kinh tầm thường, bộ kinh mà ai cũng biết. Với Tấm lòng thành Reto giảng giải cho Ajo rất nhiều về những Pháp môn cao siêu. Ông giảng cho đến tận khuya mới đi ngủ. Vừa chợp mắt được ít lâu, ông giật mình tỉnh giấc, vì thấy ánh sáng chói lọi cả một vùng. Ánh sáng này phát ra từ Chánh điện, ông ngạc nhiên rời chú phòng. Rồi ông nhìn thấy, Lama Ajo đang chấp tay đảnh lễ, trì tụng Hồng danh Đức Phật Adida. Quanh bức tượng Đức Phật Adida, hào quang lung linh tỏa sáng. Trong ánh hào quang đó, như có một Hồ Sen cực lớn rực rỡ sắc vàng, như có hàng đàn Hồng Hạc đang tấu lên những âm thanh vi diệu, rồi mưa Hoa đổ xuống, những Bông Mandal lấp lánh bay la đà,...

Reto nín thở theo dõi, cho đến khi Lama Ajo trì tụng xong Kinh Adida, thì Linh ảnh đó mới biến mất. Quá xúc động, Reto bước vội vào hỏi làm sao Ajo có được thần thông như vậy. Lama Ajo thành thật cho biết, ngài không hề có thần thông gì, mà chỉ chuyên tâm trì tụng mà thôi. Thành tâm trì tụng và giữ cho Thân, Khẩu, Ý thanh tịnh. Reto thắc mắc: Làm sao có thể như vậy được? Như ta đây lầu thông kinh điển, nỗ lực tu tập bao năm nay, mà đâu có kết quả gì? Ajo trả lời: Có lẽ huynh đọc Kinh văn chỉ để thỏa mãn trình độ tri thức; giỏi biện luận như một Học giả mà thiếu hành trì; không chí thành cung kính; đọc Kinh mà lòng còn ngờ; chỉ chú trọng về Lý tánh mà không chuộng sự tu dưỡng Thân Tâm,... Có lẽ vậy chăng? Còn em: chuyên tâm tin tưởng, chí thành nguyện cầu, luôn luôn giữ sự thanh tịnh của Thân, Khẩu, Ý. Reto bừng tỉnh, liền chấp tay đảnh lễ Ajo, người đã vừa khai ngộ cho mình. Ông quay trở về Lhasa trình bày sự việc với Dalai Lama, xin từ chức Pháp sư, về nhập thất tu thiền trong dãy Tuyết Sơn.

2. Chuyên tâm tin tưởng; Chí thành nguyện cầu; luôn luôn giữ sự Thanh tịnh của Thân, Khẩu, Ý; niệm Hồng danh Đức Phật Adida điều Linh thiêng sẽ tới. Phật tính Hiển lộ, Niết bàn xuất hiện, Con người thành Thượng đế. Lama Ajo tin vậy. Lama Reto tin vậy, Lama Anagarika Govinda tin vậy. Rất nhiều Phật tử tin vậy. Tôi cũng tin cậy điều Linh thiêng này. John Blofeld, một học giả người Anh, đã sống nhiều năm tại Trung Quốc, Tây Tạng, Ấn Độ và Thái Lan. Khi ở Trung Quốc ông may mắn được Lama Kim Cương điểm đạo. Sau này ông được Lama Anagarika Govinda, giới thiệu đến Thọ giáo Lama Tangku, người thừa kế địa vị Chưởng môn phái Dolijang. Ông là dịch giả nhiều cuốn sách Kinh điển nổi tiếng về văn hoá, truyền thống và Tôn giáo của Phương Đông cho người Phương Tây. Ông còn biên soạn nhiều cuốn sách giá trị về Phật Giáo. Ông là Chủ bút của tờ The Middle Way, Trung Đạo, cơ quan Ngôn luận của Phật Giáo Thế giới. Trong cuốn The Wheel of Life, dịch giả Nguyên Phong dịch ra tiếng Việt với tựa đề Ngọc sáng trong Hoa Sen, ông có nói khái quát về các Pháp Tông như sau. Thiền, Tịnh, Mật đều là những con đường khác nhau, phương tiện khác nhau, dẫn đến mục tiêu tối thượng là giải thoát Niết Bàn. Hình thức khác nhau, nhưng mục đích là một.

Tịnh Độ Tônglà niệm Phật, niệm Hồng danh Chư Phật, là phương pháp để tập trung Tư tưởng. Tập trung cao độ, cho đến mức Tâm không loạn động. Tâm không loạn động, không còn điên đảo, không còn phiền não, thì sẽ sáng suốt. Đã sáng suốt thì đâu còn Khổ đau.

Mật Tôngcũng thế. Thay vì niệm Hồng danh Chư Phật, người ta sử dụng thần chú (mantra), mật ngữ của Chư Phật (Dharani) để đạt tới trạng thái Nhất Tâm. Người ta còn phối hợp Âm thanh (chú), Cử chỉ (ấn quyết), tâm trí (Tam Ma Địa) để Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh; để không còn vọng niệm; để được Nhất Tâm. Theo người Tây Tạng Linh hồn của thần chú là mật ngữ. Đó là ngôn ngữ của Phật với Phật, Vô cùng linh thiêng, chỉ có Phật mới hiểu. Mật ngữ nguyên gốc là tiếng Sanskrit, không thể dịch được. Không bao giờ dịch sang ngôn ngữ khác được.

Thiền Tônglà ý thức khi ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, hoặc nằm một cách tĩnh tại, điều hoà hơi thở; sử dụng Trí tuệ nhìn thẳng vào thật tính của sự vật, để hiểu rằng mọi thứ đều là Vô Thường, đều là Vô Ngã, đều là Tính Không. Đã Vô Thường, Vô Ngã, Tính Không thì đâu còn quyến luyến, nứu bám, dính mắc,... để loạn động, để lo lắng nữa. Như vậy thì sẽ Đắc Định, có Định thì đâu còn Khổ đau. Tâm không loạn động, đã Đắc Định, Không còn Khổ, Nhất Tâm là khi Phật tính Hiển lộ, Niết bàn xuất hiện, Con người thành Thượng đế. Tôi tin cậy điều này. Nhưng cơ chế nào mà chỉ niệm Hồng danh Chư Phật, niệm mantra để đạt được Nhất Tâm. Cơ chế nào chỉ ngồi Thiền mà được Đắc Định. Như một Công án, tôi đã thao thức, tôi đã trăn trở. Một thời gian dài tôi đã luôn thao thức như vậy. Tôi đã Thiền nhiều giờ với thao thức này.

3. Rồi một lần Thiền, tôi chợt nhớ ra, Tâm Kinh có lời linh thiêng thế này: “Avalokita vị Bồ tát linh thiêng, đang đi vào hành trình xâu xa của Prajnaparamita, đã vượt ra bên ngoài, nhìn xuống từ trên cao và thấy năm uẩn đều không.” “Ngài đã thuyết: Này Sariputra! Hình dạng là Không, Không là Hình dạng. Hình dạng không khác gì Không. Không không khác gì Hình dạng. Dù Hình dạng là gì, đấy cũng là Không; dù Không là gì, đấy cũng là Hình dạng. Điều này cũng đúng cho quá trình Tâm thức của Con Người là Thọ, Tưởng, Hành và Thức.” Sấm như nổ ra trong tôi, Ánh sáng loé lên trong tôi. Lời Kinh dạy rằng: Thân thể tôi là Không. Tâm thức của tôi là Không. Quá trình vận hành Tâm thức của tôi, là Thọ, là Tưởng, là Hành và là Thức cũng là Không. Tất cả đều là Không. Vâng tất cả đều là Không. Và Không không khác gì Có. Và Có không khác gì Không.

Tôi đã hiểu: Vật chất được cấu tạo từ các phân tử. Cơ thể sống được cấu tạo từ các tế bào. Tế bào, phân tử được cấu tạo từ các nguyên tử. Tôi đã hiểu: Nguyên tử được tạo thành từ một hạt nhân mang điện tích dương nằm ở tâm và các electron mang điện tích âm chuyển động xung quanh. Hạt nhân được tạo thành từ các hạt proton mang điện tích dương và các hạt neutron không mang điện. Một hạt proton được cấu tạo bởi hai hạt quark trên và một hạt quark dưới. Một hạt notron được cấu tạo bởi hai hạt quark dưới và một hạt quark trên,… Mỗi nguyên tố chỉ có một số proton duy nhất, nhưng có thể có số neutron khác nhau.

Tôi đã hiểu: Các electron chuyển động xung quanh hạt nhân trên các quỹ đạo. Mỗi quỹ đạo được đặc trưng bởi ba số lượng tử là: số lượng tử chính, số lượng tử phương vị và số lượng tử từ. Trên mỗi quỹ đạo có thể có hai electron, nhưng hai electron này phải có một số lượng tử thứ tư là spin khác nhau. Các quỹ đạo của electron không phải là những đường cố định mà là ngẫu nhiên.

Tôi đã hiểu: Các Hạt cơ bản được mô tả bằng Chuỗi. Hạt electron, các loại hạt quark là Chuỗi. Hạt nhân Nguyên tử được cấu tạo từ các hạt neutron, hạt proton; các hạt neutron và các hạt proton được cấu tạo từ 3 hạt quark. Hạt nhân Nguyên tử sẽ là tổ hợp không nhiều lắm các Chuỗi. Nguyên tử được cấu tạo từ Hạt nhân ở tâm, và một số không nhiều lắm hạt electron chuyển động xung quanh. Nguyên tử sẽ là tổ hợp không nhiều lắm các Chuỗi, ở tâm mật độ Chuỗi nhiều hơn ở bên ngoài.

Tôi đã hiểu:Chuỗi hay còn gọi là dây, một chiều, có chiều dài cực kỳ ngắn. Đó là chiều dài Planck, bằng 10-35m (số 1 đứng sau ba mươi lăm con số 0, sau dấu phẩy). Kích thuớc Hạt nhân nguyên tử vào khoảng 10-15m. Kích thuơc Nguyên tử vào khoảng 10-10m. Chiều dài Chuỗi, nhỏ hơn một trăm tỷ tỷ lần so với kích thước Hạt nhân nguyên tử. Chiều dài Chuỗi, nhỏ hơn một triệu tỷ tỷ lần so với kích thước Nguyên tử. Quay trở lại với mô hình Nguyên tử, chúng ta đã ví dụ, một quả cầu có đường kính 200km, gần bằng khoảng cách từ Sài Gòn ra Phan Thiết. Quả cầu Nguyên tử này, theo Lý thuyết Chuỗi là rỗng và cực kỳ rỗng, không có gì ngoài một số không nhiều lắm các Chuỗi, có chiều dài bằng 2×10-10m, bằng 2×10-7mm, bằng 20 nanometre. Rỗng và cực kỳ rỗng.

Vâng phải chăng đó là Tính Không của vật chất. Nhưng, sấm như nổ ra trong tôi không phải chỉ là điều này. Mà là: Các hạt cơ bản được mô tả bằng các Chuỗi, và các Chuỗi này dao động. Các đặc trưng của các hạt cơ bản được mô tả thông qua các đặc trưng của dao động Chuỗi. Tần số dao động là thông số chính của các đặc trưng đó. (xin xem trong http://tincaytinhyeu.wordpress.com/2012/07/16/vu-tru-tinh-khong/#more-77) Mà còn là: Không không khác gì Có. Và Có không khác gì Không. Lời Kinh Linh thiêng nói vậy. Tức là cũng giống như cơ thể, Tâm thức và Quá trình vận hành Tâm thức là Thọ, là Tưởng, là Hành và là Thức cũng có cấu tạo từ các Chuỗi; và cũng được đặc trưng bằng các dao động và bằng các Tần số.

Khi tất cả các Chuỗi cấu tạo nên Cơ thể của một con người có cùng một phương cách dao động, có cùng một số mode cơ bản chính, có cùng một Tần số; Thế rồi Tần số của các Chuỗi này lại cùng Tần sô của các Chuỗi tạo nên Tâm thức, tạo nên quá trình Tâm thức của Con Người là Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Thế thì không chỉ là Nhất Tâm, mà cả Tâm cả Thân hợp nhất, Phật tính Hiển lộ, Niết Bàn xuất hiện, Con người trở thành Thượng đế. Sấm như nổ ra trong tôi là điều này.

Kết luận 4. Khi Tần số của các Chuỗi cấu tạo nên Cơ thể của một con người có cùng chung một giá trị, khi Tần sô của các Chuỗi tạo nên Tâm thức của một con người cũng có cùng một giá tri, hai giá trí này bằng nhau thì Tâm Thân hợp nhất, Phật tính Hiển lộ, Niết Bàn xuất hiện, Con người trở thành Thượng đế. Có lẽ vậy. Tôi Tin cậy điều này. (Các kết luận 1, 2 và 3 xin xem trong http://tincaytinhyeu.wordpress.com/2012/07/16/vu-tru-tinh-khong/#more-77)

4. Nhưng Ánh sáng loé lên trong tôi còn tiếp tục vì một điều khác. Cái gì đã làm cho Tần số của các Chuỗi tạo nên Cơ thể có cùng giá trị? Cái gì đã làm cho Tần số của các Chuỗi tạo nên Tâm thức, tạo nên quá trình Tâm thức của Con Người là Thọ, Tưởng, Hành và Thức có cùng giá trị? Đó phải chăng như là hiện tượng Cộng hưởng, là hiện tượng Mỏi? Trong Lý thuyết của dao động, Cộng hưởng là hiện tượng xảy ra trong dao động cưỡng bức, khi một vật dao động được kích thích bởi một ngoại lực tuần hoàn có cùng tần số với giao động riêng của nó. Khi Cộng hưởng thì Biên độ đạt giá trị Cực Đại, Năng lượng của vật dao động được gia tăng khủng khiếp. Một cây cầu, được thiết kế cho hàng trăm cái xe tải 30-40t nối đuôi nhau đi qua, có hệ số an toàn rất cao. Nhưng cây cầu này có thể đổ sập, khi chỉ một đoàn người đi đều bước trên cầu, nếu Tần số của nhịp bước chân trùng với Tần số dao động riêng của cầu. Đó là hiện tượng Cộng hưởng. Hiện tượng này phổ biến trong rất nhiều ngành Khoa học, Kỹ thuật và Công nghệ.

Trong Kết cấu Công trình, một cái dầm cầu, chịu tải được hàng ngàn tấn, không sao. Nhưng chỉ một tải trọng vài trăm kg, tác động theo một Chu kỳ nhất định, với Tần số nhanh, trong một thời gian dài, cái dầm cầu sẽ gẫy. Đó là hiện tượng Mỏi. Lý thuyết nghiên cứu về hiện tượng này gọi là Lý thuyết Biến dạng Mỏi, một chuyên ngành Khoa học khá phức tạp. Các nhà Khoa học có thể mô tả quá trình diễn biến của nó, tính toán dự báo hiện tượng này một cách gần đúng. Bản chất của nó các nhà Khoa học chưa nắm rõ. Cấu trúc Phân tử khi bị mỏi sẽ như thế nào, các nhà Khoa học chưa thể mô tả được. Nửa cuối của Thế kỷ trước, các nước Liên xô và Đông Âu có nhiều luận án Tiến sỹ và Phó tiến sỹ trong lĩnh vực này. Nhưng chỉ loanh quanh về việc mô tả quan hệ giữa ứng xuất và biến dạng theo thời gian. Chưa có kết quả gì lớn lao để có thể hiểu rõ bản chất cấu trúc Phân tử của nó. Nhưng từ Lý thuyết Chuỗi, tôi tin rằng có thể tìm ra lời giải, cho bản chất của vấn đề. Dưới tác dụng của một tải trọng không quá nhỏ, cất tải và hạ tải với một Tần số rất cao (nhanh), trong một thời gian đủ dài, các Chuỗi cơ bản tạo nên Vật liệu của dầm cầu đó, sẽ bị "Mỏi theo" và Tần số của nó hoà nhập về cùng Tần số của tải trọng. Xin hãy gọi hiện tượng này bằng một cái tên (tạm) là hiện tượng Hoà Tần số. Hiện tượng hoà Tần số xuất hiện, hiện tượng Cộng hưởng xảy ra. Dầm cầu bị phá hủy.

Mantra hay Hồng danh Chư Phật, hay Hồng danh Phật Adida, được niệm lên với tất cả sự thành kính, được niệm lên nhiều lần, được niệm lên qua năm tháng. Ngữ điệu, âm thanh,... là những dao động; Tần số là thông số đặc trưng của dao động. Dao động đó, Tần số đó phải chăng là Dao động Linh thiêng, Tần sô Linh thiêng! Là cái mà Phật Gautama, Phật Adida và các Chư Phật để lại cho Con người. Khi con người thành kính, niệm nhiều lần, Tần số Linh thiêng này, như một nguồn cưỡng bức điều hoà, làm cho Tần số của các Chuỗi tạo nên Cơ thể, Tần số của các Chuỗi tạo nên Tâm thức, tạo nên quá trình Tâm thức của Con Người là Thọ, Tưởng, Hành và Thức; hoà nhập cùng Tần số Linh thiêng. Hiện tượng Hoà Tần số xảy ra. Tạo nên sự hoà nhập Thân, Tâm với Vụ trụ. Phật tánh Hiển lộ, Niết bàn xuất hiện, Con người Siêu việt, Con người trở thành Thượng đế. Sự Cộng hưởng Vĩ Đại xuất hiện: Chứng Ngộ.

Để cho, những Tần số của Con người (Tần số Chuỗi Cơ thể, Tần số Chuỗi Tâm thức) ổn định, về gần với Tần số Linh thiêng, dễ hoà nhập với Tần số Linh thiêng, Con người cần phải giữ sự Thanh tịnh của Thân, Khẩu, Ý; Con người cần phải Thiền; Con người phải hiểu được lẽ Vô Thường, Vô Ngã, Tính Không. Con người phải Tách rời với Si, Từ bỏ với Tham, Tử tế thay cho Sân. Con người phải biết Yêu thương, phải có Tình Yêu thuần khiết. Có như vậy Tần số của Con người mới về gần với vùng của Tần số Linh thiêng. Và rồi sự Thiêng liêng sẽ đến. Sự Cộng hưởng Vĩ Đại xuất hiện: Chứng Ngộ. Ánh sáng loé lên trong tôi chính là điều này; điều mà nhiều ngày, nhiều tháng tôi trăn trở; nhiều giờ tôi Thiền. Tôi Tin cậy điều này.

Kết luận 5. Chuyên tâm tin tưởng; Chí thành nguyện cầu; luôn luôn giữ sự Thanh tịnh của Thân, Khẩu, Ý; niệm Hồng danh Đức Phật Adida, niệm Hồng danh Chư Phật, niệm mantra,...; niệm từ ngày này qua ngày khác, niệm trong khi ăn, khi ngủ, khi đi, khi làm,... Thì Tần số của các Chuỗi cấu tạo nên Cơ thể, Tần số của các Chuỗi tạo nên Tâm thức của một con người, sẽ Hoà Tần số vào Tần số Linh thiêng. Điều Linh thiêng sẽ tới. Phật tính Hiển lộ, Niết bàn xuất hiện, Con người thành Thượng đế.

5. Tần số Linh thiêng, Tần số Vũ trụ, Tần số Chân Lý, Tần số Niết bàn, Tần số Thượng đế, Tần số của các Chư Phật, Tần số của các bậc Chứng ngộ,... Tất cả, chỉ khác nhau cách gọi, nhưng một điều chắc chắn đó là Tần số của Dao động thanh cao.

Cao:Tần số cao, có giá trị rất cao, có giá trị Vô cùng lớn. Năng lượng Dao động tương ứng với Tần số Linh thiêng có giá trị Vô cùng lớn. Điều này là Hiển nhiên, Lý thuyết Dao động cho kết quả như vậy. Và ai còn có thể tưởng tượng ra một Năng lượng nào lớn hơn Năng lượng của Thượng đế, của Vũ trụ, của Chân Lý... Nên Tần số Linh thiêng có giá trị Vô cùng lớn, đó là điều đương nhiên. Lý thuyết Dao động cho kết quả như vậy.

Thanh:vì nó hiền hoà, vì nó không có đột biến, không bão tố,... Nếu có Thượng đế, làm sao Thượng đế lại có thể nổi giận? Làm sao Thượng đế có thể buồn? Còn các Chư Phật, từ bi và hỷ xả là Chư Phật, Chư Phật là từ bi và hỷ xả... Hiền hoà, không đột biến, không bão tố,... nó phải là như vậy. Trong Lý thuyết Dao động, sự hiền hoà không đột biến, chính là Dao động Điều hoà và Biên độ có giá trị Vô cùng bé. Biên độ dao động không điều hoà đó là còn sân si. Biên độ càng lớn sân si càng lớn. Biên độ dao động có đột biến là còn sân hận... Năng lượng sẽ bị tiêu hao trong các việc phát triển các Biên độ này. Năng lượng bị tiêu hao là vì tham, sân, si. Do vậy ứng với Tần số Linh thiêng dao động sẽ là điều hoà và Biên độ dao động là Vô cùng bé.

Tần số Linh thiêng là Tần số Vô cùng lớn, đồng thời Dao động tương ứng là dao động Điều hoà và Biên đọ Dao động có giá trị Vô cùng bé. Vâng, nó là như vậy. Không thể khác được. Lý thuyết Dao động, các phương trình, các toán tử,... đã chứng minh nó là như vậy. Thực tế trong mọi ngành Kỹ thuật và Công nghệ nó là như vậy. Tần số Vô cùng lớn, Biên độ dao động Vô cùng bé, Năng lượng dao động Vô cùng lớn, như vậy đó là Tính Không, là Tính Không rồi! Thiền định, Thiền Chỉ và Thiền Quán chính là cho điều này. Thiền trong đi, đứng, nằm, ngồi và làm việc chính là đưa Dao động về dạng dao động điều hoà, với Tần số Vô cùng lớn, với Biên độ Vô cùng nhỏ. Đưa về Dao động Tính Không.

Kết luận 6. Thiền định trong mọi nơi, mọi lúc, khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi làm việc,... đưa Tâm và Thân về trạng thái Tỉnh thức về Tính Không, tức là đưa dao động của Tâm của Thân về dạng Dao đọng điều hoà, với Tần số Vô cùng lớn, với Biên độ Vô cùng bé; đó là Dao động Niết bàn, Dao động Thượng đế.

Xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả những Tác giả và Dịch giả của các bài viết, bài nói mà chúng tôi đã sử dụng để làm tư liệu và cảm xúc để viết bài này; xin chân thành hồi hướng công đức nhỏ bé của mình tới Quý vi. Nam mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nam mô Chứng minh sư Bồ Tát Ma ha tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/08/2017(Xem: 6810)
Thưa đại chúng, hôm nay là ngày 01 tháng bảy năm 2017, tại tu viện Thiện Hòa, thành phố Moenchenladbach , Đức quốc. Tôi có duyên với quý vị trong giờ phút này, và tôi xin chia sẻ pháp thoại “Đức Phật A Di Đà trong đời sống của tất cả chúng ta”.
10/05/2017(Xem: 6841)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 6458)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 8211)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 4021)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 5440)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 16308)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 11349)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 9656)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 14002)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567