Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật và Thiên Long Bát Bộ

23/02/201302:57(Xem: 4758)
Đức Phật và Thiên Long Bát Bộ
buddha
ĐỨC PHẬT VÀ THIÊN LONG BÁT BỘ
Toàn Không

1)- CHƯ THIÊN CHIÊM BÁI PHẬT:

Một thời đức Phật ngự tại rừng Ca Duy nước Thích Sí Đề cùng với 500 Thánh tăng toàn là bậc A La Hán, bấy giờ có bốn vị Trời ở cõi Tịnh Cư nơi Thiên cung đều nghĩ: “Nay đức Thế Tôn và 500 vị Đại Tăng, toàn là bậc Thánh A La Hán đang ngự trong rừng Ca Duy thuộc nước Thích Sí Đề, đồng thời có vô số chư Thiên với thần thông vi diệu từ 10 phương đều tập trung ở đấy để kính lễ đức Như Lai và chúng Đại Tăng. Vậy chúng ta nên đến đó để chiêm bái, khen ngợi đức Thế Tôn và chúng Đại Tăng.

Lúc ấy bốn vị Trời cõi Tịnh Cư, nhanh như người lực sĩ duỗi cánh tay, biến khỏi cõi đó đến chỗ đức Phật ngự trong rừng Ca Duy. Sau khi đến, bốn vị Tịnh Cư Thiên đảnh (đỉnh) lễ đức Phật, rồi một vị nói kệ:

Ngày nay đại chúng hội,
Chư Thiên đều tụ họp,
Là vì Pháp mà đến,
Đảnh lễ chúng vô thượng.
Một vị khác nói:
Tỳ Kheo thấy các uế,
Chính tâm tự phòng vệ,
Như biển nhận các dòng,
Người trí hộ các căn.
Vị thứ ba nói:
Làm cạn hầm tham ái,
Lấp đầy hố vô minh,
Siêng dạo cõi thanh tịnh,
Như voi khéo điều phục.
Vị thứ tư tiếp:
Những ai quy y Phật,
Trọn chẳng đọa ác thú,
Sau khi bỏ thân người,
Được thân Trời thanh tịnh.

Đức Phật liền dùng tay bắt ấn ấn khả cho bốn Tịnh Cư Thiên, thấy thế, bốn vị hân hoan lễ phật, đi nhiễu quanh Phật ba vòng và biến mất.

Khi ấy, tại cõi Phạm Thiên của thế giới này có đệ nhất Đại Phạm Thiên Vương, vị ấy tên là Đề Xá có đại thần lực, có thần thông tuyệt diệu, đồng thời có mười muôn (trăm nghìn) Phạm Thiên Vương khác cùng quyến thuộc đến vây quanh.

Lại nữa, qua khỏi nghìn thế giới, có một Đại Phạm Thiên Vương nhìn thấy đại chúng ở chỗ Như Lai ngự, liền cùng với quyến thuộc tìm đến vây quanh Ta và chúng Tỳ Kheo. Đức Phật bảo đại chúng:

- Này các Tỳ Kheo, nay phần lớn Chư Thiên từ 10 phương đều tụ tập ở đây để chiêm bái Như Lai và đại chúng Tỳ Kheo, họ đều có thần thông vi diệu.

Này các Tỳ Kheo, thuở quá khứ, Chư Phật cũng có Chư Thiên tụ họp chiêm bái ca tụng như Ta ngày nay; Chư Phật đời về sau cũng có Chư Thiên tụ hội chiêm bái ca tụng như Ta ngày nay.

Này các Tỳ Kheo, nay Ta sẽ nêu lên một số danh tính (tánh) của một số Chư Thiên Thần. Vậy các Ông phải khéo biết và suy nghĩ, bằng lời kệ sau đây:

Chư Thiên ở trong hang,
Ẩn sâu thấy đáng sợ,
Thân mặc toàn áo trắng,
Thuần tịnh không ô uế.
Trời người khi nghe xong,
Đều quy về Phạm Thiên,
Nay Ta nêu tên họ,
Lần lượt không nhầm lẫn.
Chư Thiên nay đã đến,
Phàm người trí thế gian,
Trong trăm không thấy một,
Do đâu có thể thấy?
Các ông đều nên biết,
Quỷ Thần bảy muôn chúng,
Lại có mười muôn Thần,
Còn không thấy được một.
Huống là các Quỷ Thần,
Biến khắp cả thiên hạ,
Trong nghìn không thấy một.
Do đâu có thể thấy?

LỜI BÀN:

Trước hết, chúng ta nên tìm hiểu cõi Trời Tịnh Cư ở đâu?, được biết cõi Trời có 28 tầng chia ra 3 giới từ thấp lên cao là Dục giới 6 tầng, sắc giới 18 tầng, và vô sắc giới 4 tầng. Về Trời Tịnh Cư thuộc sắc giới có ba tầng từ thấp lên cao là: Thiểu Tịnh, Vô Lượng Tịnh. và Biến Tịnh. Ba tầng Trời này nằm trong Sắc Giới tương đương với Tam Thiền.

Bốn vị Trời Tịnh Cư đến lễ Phật, rồi vị thứ nhất ý nói tất cả chư Thiên đến là muốn học giáo pháp mà đến; vị thứ hai và thứ ba ca ngợi chư Tăng tu hành nghiêm túc. Vị thứ tư ca ngợi người quy y Phật không bị đọa Súc sanh lại được sinh cõi Trời sung sướng.

Thứ nữa, đức Phật nói chữ “10 phương”, chắc nhiều người đã hiểu, nhưng cũng nên nói sơ qua, đó là Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc, Thượng (Trên), Hạ (Dưới), để chỉ chung quanh trái đất. Cũng có khi đức Phật nói sáu phương: Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới, tất cả cùng một ý là quả đất tròn.

Riềng về bài kệ đức Phật nói đại ý dù người trí tuệ học nhiều hiểu rộng của thế gian, cũng không thể nào nhìn thấy các cõi Trời Thần Quỷ được, Ngài hỏi đi hỏi lại câu “Do đâu có thể thấy” được các cõi ấy? Đức Phật muốn nhấn mạnh rằng: “Bậc tu hành tới nơi tới chốn sẽ thấy tất cả Thiên, Thần, Quỷ, Ma” vậy.

Một điều chúng ta cần nêu ra, đó là đức Phật cho biết: Chư Phạm Thiên từ xa, cách thế giới chúng ta 1000 thế giới, cũng đến chiêm bái Phật và chúng Đại Tăng. (Cõi Phạm Thiên ở thế giới chúng ta nằm trong tầng thấp nhất của Sắc Giới, tương đương với Sơ Thiền của Tứ Thiền). Điều nói này hé mở cho các nhà Khoa học biết rằng trong giải Ngân Hà của chúng ta có một thế giới có người ở (vì có cõi Phạm Thiên) cách chúng ta 1000 ngôi sao (Mặt trời); tiếc rằng đức Phật đã không nói rõ cõi ấy ở hướng nào, nhưng dù có nói hướng cũng khó tìm kiếm, vì sao? Vì: mặt trời của chúng ta và hết thảy các ngôi sao đều quay chuyển đổi luôn luôn không lúc nào ngừng, và Khoa học chưa ra khỏi hệ thống mặt trời của chúng ta, nói gì đi qua 1000 mặt trời, quá xa.

Bởi vậy, muốn biết tất cả những bí mật trong vũ trụ, chỉ có một cách duy nhất là tu theo Phật để đạt đạo sẽ thấy hiểu biết tất cả, không có cách nào khác, nếu chờ Khoa học khám phá sẽ không biết đến bao giờ.

2)- ĐỨC PHẬT NÓI VỀ THIÊN LONG BÁT BỘ:

Sau khi nói kệ, đức Phật bảo:

- Như Địa Thần có 7 nghìn Dạ Xoa, tất cả đều có thần túc thông, có hình hài danh xưng, đều mang tâm vui vẻ đến rừng Ca Duy để chiêm ngưỡng chúng Tỳ Kheo.

Cũng có Tuyết Sơn Thần đem theo 6 ngàn Quỷ Dạ Xoa,

Cũng có Xà La Thần đem 3 nghìn quỷ Dạ Xoa,

Cũng có Tỳ Ba Mật Thần trú tại Mã Quốc đem 500 Quỷ Dạ Xoa,

Cũng có: Kim Xà La Thần trú tại thành Vương Xá bên núi Tỳ Phú La có vô số chúng Quỷ Thần.

Tất cả đều có thần túc, có hình tướng, có danh xưng, có oai đức, hoan hỉ cung kính mà đến; lại có Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương (Trì Quán Thiên Vương), trị vì ở phương Đông, là chúa tể của Càn Đạp Hòa Thần.

Lại có Tỳ Lâu Nặc Thiên Vương (Tăng Trưởng Thiên Vương), trị vì ở phương Nam, là chúa tể thống lĩnh các Long Vương và các Ma Hầu La Già,

Lại có Tỳ Lâu Bác Xoa Thiên Vương (Quảng Mục Thiên Vương), trị vì ở phương Tây, thống lĩnh Cưu Bàn Tra (Ca Lâu La),

Lại có Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Đa Văn Thiên Vương), trị vì ở phương Bắc, thống lãnh Thiên Thần, Quỷ Thần.

Tất cả bốn vị Thiên Vương trên đều hộ trì thế gian, đều là bậc đại oai đức, mỗi vị có 91 người con gọi là Nhân Đà La đều có đại thần lực biến hóa; Tứ Thiên Vương ấy vui mừng, từ thân phóng ra hào quang, cùng với quyến thuộc đến rừng Ca Duy.

Bấy giờ đức Phật muốn hàng phục tâm giả dối huyền ảo của họ nên nói Thần Chú:

Ma câu lâu la ma câu lâu la tỳ lâu la tỳ lâu la chiên đà na ma già thế trí a ni diên đậu ni diên đậu ba na lô ô hô nô nô chủ đề bà tô mộ ma đầu la chi đa la tư na càn đạp ba na la chủ xà ni sa thi ha vô liên đà la tỳ ba mật đa la thọ trần đà la na lữ ni ha đậu phù lâu thâu chi bà tích bà.

Đức Phật cũng vì hàng Thần (A Tu La) nói Chú, vì các hàng chư Thiên nói Chú, vì 68 Bà La Môn có ngũ thông nói Chú, vì 1050 hàng Bà La Môn nói Chú. (Xin coi quyển 1 bộ Trường A Hàm, trang 636)

LỜI BÀN:

Đoạn Kinh trên đây, đức Phật chỉ cho chúng ta các vị Thần như Địa Thần, Thần núi Hỹ Mã Lạp Sơn v.v..., tất cả các vị Thần đều có vô số quyến thuộc theo sau, họ đều có oai đức, có thần thông, có thân hình, có tên gọi v.v..., và đều vui vẻ đến cung kính Phật và chúng Đại Tăng.

Rồi Ngài nói về Tứ Thiên Vương cùng quyến thuộc là Thiên Thần, Quỷ Thần:

- Vị thứ nhất là Đề Đầu Lại Tra ở phương Đông chúa tể của Càn Đạp Hòa Thần coi việc nghi lễ, nên có rất nhiều Thiên Thần Quỷ Thần như Càn Thát Bà (Grandhava), Thần hầu về ca nhạc của Vua Trời Đế Thích tại cõi Đạo Lợi. Khẩn Na La (Kini Nara), nghi nhân, giống người mà có sừng, cũng đánh nhạc cho Vua Đế Thích.

- Vị thứ hai là Tỳ Lâu Nặc Thiên Vương ở phương Nam là chúa tể Long Vương (Naga), loài Rồng. Có bốn loài Rồng khác nhau là các loài: Hóa sinh (tự nhiên sinh ra), thai sinh (thụ thai sinh ra), noãn sinh (sinh ra từ trứng), và thấp sinh (do ẩm ướt sinh ra); Rồng giữ địa luân và các cung điện cõi Trời và ảnh hưởng đến việc mưa gió. Các Ma Hầu La Già (Mahoraga), Đại Mãng Thần đầu rắn mình người.

- Vị thứ ba là Tỳ Lâu Bác Xoa ở phương Tây thống lĩnh Ca Lâu Na (Garuda), Chim Thúy Điểu, Chim Cánh Vàng. Chim này rất to lớn, hai cánh xòe ra đến 360,000 dặm! Có bốn loại Chim khác nhau, loại hóa sinh, thai sinh, nõan sinh và thấp sinh, mỗi loại Chim này thường bắt Rồng sinh tương tự để ăn.

- Vị thứ tư là Tỳ Sa Môn Thiên Vương ở phương Bắc thống lãnh Thiên Thần Quỷ Thần có nhiệm vụ giáo huấn các loài nên còn được gọi là Đa Văn Thiên Vương.

Một điều đặt ra là tại sao đức Phật muốn hàng phục tâm giả dối của Quỷ Thần?, như chúng ta được biết trong Thiên Long Bát Bộ, chỉ có Thiên (Deva), hưởng phúc vi diệu và Long (Naga), Rồng, là có thần nghiệm nhất. Còn sáu loài kia là Càn Thát Bà (Nhạc Thần), Dạ Xoa (Yểm quỷ), A Tu La (Thần dữ), Ca Lâu La (Thần Điểu), Khẩn Na La (Nhạc Thần), Ma Hầu La Già (Rắn Thần). Sáu loài này tuy có thần túc biến hóa, nhưng còn làm nhiều điều xấu, hay sân giận, không thật thà, do đó đức Phật mới nói Chú hàng phục tâm họ để mong họ sửa đổi.

Vậy những ai muốn hàng phục Quỷ Thần, nên ráng tu hành và học thuộc bài Chú trên đây để áp dụng khi cần đến.

3)- THIÊN MA PHÁ ĐÁM:

Bấy giờ Thiên Ma Vương thấy đông đảo Trời Người Thần Quỷ ở chỗ đức Phật ngự và các Thánh Tăng, liền khởi tâm ác, tự nghĩ: “Ta phải đem Quỷ Thần đến phá tan tành đám kia, cho bao vây bắt hết cả lũ không để sót một mạng”. Nghĩ rồi, Thiên Ma liền triệu tập bốn binh chủng, cho lăn bánh xe, âm thanh vang dội như sấm sét, những ai nghe thấy trông thấy đều vô cùng sợ hãi. Đồng thời Ma Vương làm mưa tuôn bão cuốn, sấm sét vang trời, tất cả đều tiến vũ bão đến rừng Ca Duy, lúc ấy đức Phật bảo các Tỳ Kheo:

- Các Ông nên biết, hôm nay chúng Ma ôm lòng ác độc đến đây, rồi Ngài nói kệ:

Ông nay phải kính thuận,
Kiến lập về pháp Phật,
Phải diệt chúng ma này,
Như voi phá rừng lau.
Chuyên niệm chớ buông lung,
Đầy đủ về tịnh giới,
Tâm định về suy niệm,
Khéo giữ ý chí mình.
Nếu ở trong chính pháp,
Những ai không buông lung,
Sẽ thoát khỏi già chết,
Dứt hẳn các gốc khổ.
Các đệ tử nghe rồi,
Phải siêng năng tinh tấn,
Tránh xa những dục lạc,
Mảy lông không lay động.
Vì chúng đây tối thắng,
Có đại trí tiếng tăm,
Đệ tử đều dũng mãnh,
Là chúng đáng tôn kính.

Bấy giờ, hết thảy chư Thiên, Thần, Quỷ, Ngũ thông Tiên nhân đang tụ tập trong rừng Ca Duy đều thấy việc làm của Ma Vương thật là kỳ chưa từng có, nên tất cả đều rời khỏi.

LỜI BÀN:

Tới đoạn cuối của bài Kinh, chúng ta thấy Thiên Ma Vương triệu tập chúng Ma Quỷ đông đảo đến phá đám buổi đại hội hiếm có ấy có vô lượng chúng Trời Người, Thiên Long Bát Bộ; tất cả đều nhận xét việc làm của Ma Vương thật hết sức độc ác và kỳ cục quá cỡ. Có lẽ rằng đức Phật vì đại từ đại bi nên đã để cho tất cả rút lui trở về trú xứ của họ một cách mau chóng êm xuôi; bài kệ trên đây, Đức Phật khuyên mọi người nên giữ giới, tránh xa dục lạc, chuyên chú tu hành để dứt cảnh sầu khổ và sẽ đưa tới thoát khỏi sinh tử luân hồi thì sẽ thoát khỏi ác cảnh ma.

Toàn Không


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5802)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 5991)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6824)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5833)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6537)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 7945)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7077)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6352)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7147)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6014)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567