Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Học Hạnh Ngài A Nan Trong Kinh Lăng Nghiêm

14/09/201207:56(Xem: 4268)
Học Hạnh Ngài A Nan Trong Kinh Lăng Nghiêm
lotus_50
HỌC HẠNH NGÀI A NAN
Trong Kinh Lăng Nghiêm
Thích Nữ Giác Anh

Kinh Lăng Nghiêm là một trong những bộ Kinh tinh túy cốt lõi thuộc truyền thống Kinh điển đại thừa Bồ Tát đạo trong Phật Giáo. Tinh thần Bồ tát là tinh thần cầu thành Phật, phổ độ chúng sanh, tinh thần ấy không phân biệt giữa hai giới tại gia hay xuất gia. Đã là Phật tử, tức phải xác định mục đích tấn tu duy nhất, mục đích đó là phát Bồ đề tâm, hành Bồ tát đạo. Trong lời tựa tán thán Kinh Lăng Nghiêm, Ngài A Nan phát nguyện “ngũ truợc ác thế thệ tiên nhập”, lời phát nguyện đó cũng chính là lời phát nguyện cho mỗi người Phật tử trên con đường tu tập.

Thuật ngữ “ngũ truợc ác thế” nghĩa là năm điều ô truợc của thế gian. Đức Phật xác định, cõi này là cõi truợc, cõi nhơ uế. Sở dĩ nhơ uế là vì nghiệp tánh nhân chủng của chúng sanh nhơ uế. Tâm nhơ uế nên cảnh nhơ uế. Tâm Phật thanh tịnh nên cảnh Phật thanh tịnh. Tâm Bồ tát vô phân biệt nên cảnh giới an trụ của Bồ Tát vô phân biệt, và quang minh thọ luợng của Chư Phật, Bồ Tát cũng thanh tịnh, tự tại, vô phân biệt.

Một cách dễ hình dung hơn, thử xét nhân quả ngay tại thế gian nơi chúng ta đang sống. Đức Phật dạy, nhân quả phuớc nghiệp của mỗi người là chánh báo thân thể hoàn cảnh của nguời là y báo. Nhân ích kỷ, tị hiềm... không quan tâm đến nguời khác thì quả báo phải là nghèo khổ, thiếu thốn. Nếu nhân rộng luợng, chân thật, biết quên mình vì nguời, thường đem lợi ích cho mọi người, thì quả báo chắc chắn sẽ giàu sang, danh vọng... Như vậy từ nhân nghiệp chánh báo giữa nguời nghèo và giàu khác nhau, nên tất nhiên hoàn cảnh sinh sống, còn gọi là y báo, giữa hai nguời đó cũng theo đó khác nhau. Cảnh nhà của nguời nghèo lam lũ, rách ruới... Cảnh sống của nguời giàu là cao sang, cung điện... Tất cả những khác nhau đó không tự nhiên mà sanh. Trên phương diện nhân quả nghiệp báo, như vậy cho nên sẽ không có chuyện một nguời kém phước đức thác sanh vào gia đình hoàng tộc, cũng như không có chuyện một nguời đầy đủ phuớc báu lại sanh vào một gia đình hành khất. Tất nhiên trừ truờng hợp thị hiện của chư vị Bồ Tát. Như vậy hoàn cảnh nghèo hay giàu sẽ không tự nó xuất hiện nếu không bắt nguồn từ chánh nhân nghiệp báo nhân quả mà ra.

Chúng ta đang tu Phật, nghĩa là đang phát nguyện chuyển cảnh giới từ phàm phu sang cảnh giới giải thoát. Điều đó chắc chắn phải như vậy. Không ai tu Phật mà chấp nhận trầm luân mãi trong biển khổ bao giờ. Điều đó vô lý như sự vô lý của người bệnh cứ uống thuốc mà không muốn hết bệnh vậy. Trở lại việc tu Phật, khi hiểu các pháp đều do nhân quả nghiệp báo thì “ngũ trược ác thế” đều là trách nhiệm của chính bản thân mình. Nếu kết quả tu niệm của chúng ta thanh tịnh, trang nghiêm thì hoàn cảnh xung quanh sẽ theo đó trang nghiêm, thanh tịnh.

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, Ngài là quốc truởng và cũng là vị lãnh đạo tinh thần tối cao của nguời dân Tây Tạng; khi đến bất cứ nơi nào, dù gặp gỡ Phật tử hay người chưa từng biết đến Phật giáo, Ngài đều có cái nhìn bình đẳng đến hết thảy mọi người. Ngài thường nhận xét, con người dù có khác biệt về hoàn cảnh văn hóa, lối sống, về tín nguỡng hay màu da…, nhưng tất cả đều là con nguời, mang thể xác và tâm trí của một chúng sanh cao cấp. Thân thể vật lý của chúng ta giống nhau, tâm thức và cảm xúc chúng ta cũng giống nhau. Gặp ai Ngài cũng có cảm tuởng là đang đối diện với một con nguời như chính Ngài. Trên căn bản đó, Ngài đã đối thoại với tha nhân bằng một tấm lòng tràn đầy thương yêu và hỷ lạc. Đức Đạt Lai Lạt Ma với lòng bi mẫn chân thành đã làm rung động trái tim hàng triệu người vốn hoàn toàn xa lạ với Phật Giáo trên khắp thế giới. Hình ảnh của Ngài là bài học "ngũ truợc ác thế thệ tiên nhập" sống động nhất giữa cảnh đời đau khổ như ngày nay. Phật Giáo trên thế giới nói chung và Phật Giáo Việt Nam nói riêng, hơn hai ngàn năm qua đã có rất nhiều, rất nhiều… những trái tim Bồ Tát từ bi vô lượng,vô biên như thế.

Tuy nhiên, ví như đi biển phải có hải bàn, vào rừng phải biết định hướng; giữa vòng nghiệp báo phức tạp và đầy nguy hiểm, Đức Thế Tôn trước khi nhập Niết Bàn, Ngài đã thiết tha căn dặn: “Sau khi Như Lai diệt độ, các con hãy lấy Giới luật làm Thầy, Giới luật là mạng mạch của Phật Pháp, Giới luật còn thì Phật Pháp còn". Đức Phật chế giới luật cho 4 chúng đệ tử: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc và Ưu bà di. Theo Kinh điển chúng xuất gia thường đi theo Phật là 1250 vị, tuy nhiên số chúng tại gia thì vô số, không thể nào tính biết đuợc. Rất ít kinh điển kể lại Đức Phật chỉ thuyết cho hàng xuất gia, mà đa phần Kinh Phật đều có sự hiện diện cả 2 giới. Kinh Lăng Nghiêm chúng ta trì tụng, cũng là một trong những Kinh đặc trưng Phật thuyết cho cả hai giới như thế. Điều đó nói lên rằng, Đức Phật quan tâm đến sự tu tập, hành trì của giới tại gia không kém, hoặc có phần quan tâm hơn cả giới xuất gia nữa. Đức Phật nhấn mạnh về Giới cho người xuất gia như thế nào, thì người tại gia cũng cần "lấy Giới làm Thầy" như thế ấy.

Trong vòng sinh tử luân hồi, đau khổ của chúng sanh thật không cùng tận. Lỗi lầm của sinh tử là Vô Minh. Muốn phá Vô Minh, phải có Trí Tuệ, muốn có Trí Tuệ phải có Định lực, muốn có Định lực, phải có trì Giới. Đó là công thức chung duy nhất cho tất cả Phật tử. Nguời Phật tử tại gia có 5 giới, 10 giới, xuất gia có cụ túc giới và quan trọng trên hết là Bồ tát giới. Tuy vậy, dù tại gia hay xuất gia, 5 giới cơ bản vẫn luôn là thềm thang cho tất cả những bước tiến kế tiếp. Tất cả mọi an lạc, hạnh phúc cho đến thực chứng giáo pháp, đều lấy đây làm nền tảng. Nguời Phật tử tu tập Phật Pháp trong thế gian, không thể nào thiếu Giới làm rào cản cho bản thân, cũng như làm gương cho hết thảy chúng sanh.

Tuy nhiên, để hiểu và hành đúng Phật Pháp, là một điều không thể trong vòng một kiếp, hai kiếp… có thể làm được, so với vô số kiếp vô minh của chúng sanh. Nhưng điều đó sẽ không còn khó khăn nữa, nếu trên đường chúng ta đi được sự gia bị của chư Phật và Bồ Tát. Nói cách nôm na, là có đủ phước đức. Tổ Ấn Quang dạy, rồng đất không thể ban mưa, nhưng muốn cầu mưa không thể không cúng rồng đất, một vị Tăng chưa thanh tịnh không thể khiến ta giải thoát được, nhưng muốn cầu quả giải thoát, không thể không cúng chư Tăng. Để hiểu Phật Pháp và gìn giữ Giới luật, những tưởng điều đó mang tính cố gắng của cá nhân; nhưng quả thật, nếu không có đủ phước báu, không thể hiểu và hành đúng chánh pháp. Cũng như nếu không có sự gia bị của chư Phật, Bồ tát và Long thần hộ pháp… sẽ không thể nào trì Giới nỗi, khi toàn thể thân tâm chúng ta đang trong vòng nghiệp báo đau khổ luân hồi.

Truyền thống đẹp của Phật Giáo Trung Hoa và Việt Nam được gìn giữ đến ngày nay với hai thời công phu, nhất là thời công phu khuya, mở đầu cho một ngày mới - người Phật tử được hưng khởi tâm Bồ Đề bằng lời phát nguyện của Ngài A Nan, đó là một truyền thống đẹp và rất đáng hãnh diện. Nguyện cầu Tam Bảo thường gia hộ truyền thống này luôn được trân quí và phát huy cho dù trong mọi hoàn cảnh, thời gian nào.

Kỷ niệm mùa An Cư 2009
Trường hạ Pháp Bảo
Thích Nữ Giác Anh

(CÙNG TÁC GỈA / DỊCH GỈA)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 4546)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 5605)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 5249)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 9214)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 4431)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3430)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 6184)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 6792)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 10463)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567