Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Phật và Quỷ Ác

11/07/201219:10(Xem: 4680)
Đức Phật và Quỷ Ác
duc_phat

ĐỨC PHẬT VÀ QUỶ ÁC
Toàn Không

Một thời Đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc, nước Xá Vệ. Bấy giờ nước Bạt Kỳ có Quỷ tên Tỳ Sa rất hung dữ, giết người vô số, có ngày giết một người, hai người, ba người, bốn người, mười người, hai mươi người, ba mươi người, v.v...

Nhân dân Bạt Kỳ tụ tập lại mà than rằng: “Chúng ta nên bỏ nước này mà đi nơi khác, chẳng nên ở đây”. Quỷ Tỳ Sa biết tâm niệm của nhân dân, liền bảo rằng: “Các Ngươi chớ lìa xứ này đến xứ khác, vì sao? Vì chẳng chạy thoát tay ta, đi đâu ta cũng có thể tới được. Tốt hơn hết, các Ngươi mỗi ngày đem dâng ta một người, ta sẽ không khuấy phá sát hại nhiều nữa”; từ đó nhân dân mỗi ngày đem một người nạp cho ác Quỷ. Ác Quỷ ăn người ấy xong đem xương ném xuống khe núi đầy cả suối.

Một hôm, có Trưởng giả Thiện Giác tại nước Bạt Kỳ, giàu có, lắm tiền nhiều của, tài sản vô số kể, lừa ngựa, lạc đà đếm không xuể, vàng bạc trân bảo đếm cũng không hết. Trưởng giả có một đứa con duy nhất tên Na Ưu La, ông rất thương yêu quý mến đứa con không rời mắt. Lúc ấy đến lượt con ông dâng cho Quỷ, không sao tránh được. Ông và vợ tắm rửa cho đứa nhỏ Na Ưu La sạch sẽ, mặc quần áo đẹp đẽ, rồi đưa con đến bãi Tha ma gần chỗ Quỷ ở. Đến rồi, họ khóc lóc kể lể, cùng nói rằng:

“Chư Thần, Địa Thần chứng minh cho chúng tôi chỉ có một đứa con, mong Chư Thần hãy giữ cho đứa bé này khỏi bị tai ách. Đế Thiên Đế Thích, Tứ Thiên Vương, Chư Thiên Thần hộ thế, chúng con xin quy mệnh, mong quý Ngài cứu mạng đứa nhỏ này. Đại Phạm Thiên Vương, chúng con quy mệnh, mong Ngài cứu mạng đứa bé này thoát nguy ách.

Chúng con xin quy mệnh các đệ tử A La Hán của Như lai, khiến cho thoát khỏi nạn này. Chúng con cũng quy y Bích Chi Phật, khiến qua khổ nạn này.

Chúng con xin quy y đấng Như Lai là bậc hàng phục người không chịu hàng phục, độ người chưa được độ, giải thoát người chưa giải thoát. Ngài làm con mắt cho người mù, làm đại y vương cho người bệnh, Ngài là bậc tối tôn tối thượng trong Trời Người Thiên Ma, Thần Quỷ, không ai vượt hơn Ngài. Vậy, chúng con xin Ngài chứng xét soi thấu lòng thành và thương xót cứu đứa bé này khỏi tai ách nghiệt ngã.

Khóc nói một hồi lâu như thế, rồi cha mẹ Na Ưu La gạt nước mắt từ biệt, bỏ đứa con lại đó mà đi về; Đức Phật dùng Thiên nhãn Thiên nhĩ thấy hết nghe thấu suốt mọi việc, biết ác Quỷ ở đâu. Ngài liền dùng Thần Túc đến ngay chỗ ác Quỷ ở trong núi phía Bắc núi Tuyết sơn (Hy Mã Lạp Sơn), vào ngay chỗ cửa hang của Quỷ ngồi Kết già trong chính thân chính ý.

Bấy giờ đứa bé Na Ưu La đi dần đến chỗ ác Quỷ ở, từ xa trông thấy đức Phật ngồi ở giữa cửa hang hốc hẻo lánh, hào quang rực sáng, trang nghiêm đẹp đẽ uy nghi lộng lẫy. Cậu bé thấy rồi vui mừng và nghĩ: “Đây chắc chẳng phải ác Quỷ, vì ta vừa thấy là lòng cảm thấy yên ổn, có thiện cảm, không hiểu tại sao?, dù có phải là ác Quỷ xin để tùy ý cho ăn”.

Lúc ấy đức Phật bảo: “Na Ưu La, như con nghĩ, Ta là Như Lai Chí Chân Đẳng Chính Giác, đến đây làm cho ác Quỷ phải quy phục để cứu con” Bé Na Ưu La nghe Phật nói, vui mừng hớn hở, liền đến gần chỗ Phật cúi lễ rồi ngồi qua một bên. Đức Phật liền nói cho Na Ưu La nghe luận về bố thí, về giới, về sinh cõi Trời, dục là gây ác, thân thể là không sạch, xuất gia là cần yếu v.v...

Đức Phật thấy tâm ý của bé Na Ưu La đã hoan hỉ với lời dạy, đã thấm nhuần nhu nhuyễn, nên Ngài nói về khổ tập diệt đạo một cách đầy đủ (Khổ: Sinh, già, bệnh, chết đều khổ, Tập: Ái dục là nguyên nhân gây ra khổ, Diệt: Bỏ ái dục sẽ hết khổ, Đạo: Con đường Phật đạo phải theo). Chú bé sạch hết những thói xấu xa ở đời (sạch trần cấu), được lòng tin kiên cố không còn hồ nghi (được pháp nhãn thanh tịnh), thấu hiểu rõ và vâng theo lời Phật dạy.

Khi ấy, Quỷ Tỳ Sa trở về chỗ ở của mình, từ xa ác Quỷ trông thấy đức Phật ngồi ngay ngắn bất động. Thấy rồi, ác Quỷ giận dữ nổi giông gió bão táp, sấm chớp hướng vào chỗ Phật, làm mưa bay như đao kiếm, nhưng chưa tới nơi liền biến thành hoa sen. Lúc ấy Quỷ Tỳ Sa càng thêm tức giận, làm mưa bão đùng đùng, sấm chớp vang rền, sỏi đá bay liệng ào ào tới chỗ Phật, nhưng chưa tới nơi đã rơi xuống đất lại hóa ra thức ăn. Quỷ lại hóa thành voi lớn kêu rống lên xồng xộc chạy tới, đức Phật hóa ra sư tử chúa; Quỷ bèn hóa ra thân sư tử, đức Phật liền hóa ra lửa lớn; Quỷ càng thêm giận dữ hóa làm rồng lớn bảy đầu, Ngài hóa làm chim cánh vàng định ăn thịt rồng.

Đến đây, Quỷ liền nghĩ: “Ta có bao nhiêu thần lực đã hiện ra hết rồi, nhưng Sa Môn này vẫn ngồi yên bất động, nay ta hãy hỏi nghĩa”. Nghĩ rồi Quỷ nói:

- Ta là Tỳ Sa muốn hỏi thâm nghĩa Sa Môn, nếu Ông không đáp được, ta sẽ nắm chân Ông ném xuống biển Nam.

Đức Phật bảo:

- Ác Quỷ nên biết, Ta tự quán sát không có Trời Người, Thiên Ma, Thần Quỷ, Sa Môn, Bà La Môn nào có thể nắm chân Ta ném xuống biển Nam được; nay Ông muốn hỏi nghĩa lý, cứ hỏi đi.

Ác Quỷ liền hỏi:

- Sa Môn, thế nào là hạnh cũ, thế nào là hạnh mới, thế nào là hạnh diệt?

Đức Phật đáp:

- Ác Quỷ nên biết, mắt là hạnh cũ, việc làm ngày xưa duyên với thụ thành hạnh, đây là hạnh cũ; này ác Quỷ, ngày nay thân ba, miệng bốn, ý ba tạo tác, đó là hạnh mới.

Ác Quỷ nên biết: Hạnh cũ diệt hết không khởi nữa, lại chẳng tạo hạnh mới, giữ gìn chẳng sinh, dứt hẳn không sót, đó là hạnh diệt.

Ác Quỷ nói:

- Ta nay đói quá, sao lại đoạt thức ăn của ta, Sa Môn, hãy trả đứa bé lại cho ta.

Đức Phật bảo:

- Khi xưa, lúc Ta chưa thành đạo, còn làm Bồ Tát, có bồ câu bay đến chỗ Ta, Ta còn chẳng tiếc thân mạng cứu bồ câu ấy khỏi nạn, huống ngày nay Ta đã thành Như Lai, lại có thể bỏ đứa bé này cho Ông ăn thịt sao?

Ác Quỷ, dù Ông có dùng hết thần lực, Ta cũng không bao giờ giao đứa bé này cho Ông.

Thế nào ác Quỷ?, dưới thời Phật Ca Diếp, Ông từng làm Sa Môn, tu trì phạm hạnh (khuôn phép), sau lại phạm giới mà sinh làm ác Quỷ này.

Bấy giờ, ác Quỷ nương oai Thần của Phật, nhớ lại các hạnh đã tạo ngày xưa, liền nói:

- Nay con ngu mê, không phân biệt thiện ác mà sanh tâm này đối với Như Lai. Cúi mong đức Như Lai cho con sám hối.

Quỷ Tỳ Sa thưa như thế ba lần. Đức Phật bảo:

- Ta chấp nhận Ông hối lỗi, chớ có phạm nữa.

Lúc ấy, đức Phật thuyết pháp vi diệu cho Quỷ Tỳ Sa nghe khiến được hoan hỉ. Rồi Quỷ Tỳ Sa vào hang lấy mấy nghìn lượng vàng dâng lên đức Phật và nói:

- Nay con đem hang núi này cúng cho Chiêu Đề Tăng, cúi mong Như Lai nhận cho con và mấy ngàn lượng vàng này.

Quỷ Tỳ Sa nói như thế ba lần. Đức Phật bấy giờ chấp thuận nhận hang núi, rồi Ngài nói kệ:

Vườn quả thí thanh lương,

Sửa đường làm cầu đò,

Nếu hay tạo thuyền lớn,

Và các vật dưỡng sanh.

Ngày đêm không lười mỏi,

Được phước không thể lường,

Pháp nghĩa, giới thành tựu,

Chết rồi sinh lên trời.

Bấy giờ Quỷ Tỳ Sa thưa:

- Chẳng rõ Như Lai còn dạy điều gì không?

Đức Phật bảo:

- Nay Ông nên bỏ hình tướng cũ, đắp ba áo làm Sa Môn, vào thành Bạt Kỳ, đi khắp nơi trong thành nói lời này: “Chư Hiền nên biết, Như Lai ra đời, người không chịu hàng phục liền hàng phục, độ người chưa được độ, người chưa giải thoát khiến cho giải thoát, cứu hộ người chưa được cứu. Ngài làm con mắt cho người mù, là bậc tối tôn tối thượng, trong Trời Người, Thiên Ma, Quỷ Thần không ai bằng Ngài; Như lai là bậc đáng kính đáng quý, Ngài làm những điều tốt lành cho chúng sinh. Hôm nay, Ngài đã độ cho đứa bé Na Ưu La và làm ác Quỷ Tỳ Sa phải hàng phục, mọi người nên đến chỗ Như lai đang ngự trên núi nơi Quỷ ở để được nghe lời chỉ bảo lợi ích”.

Quỷ Tỳ Sa nói:

- Con xin vâng lời Như lai.

Rồi Quỷ Tỳ Sa làm Sa Môn, đắp ba áo, nhanh chóng vào thành đi khắp nói lời dạy: “. . . Hôm nay, Như Lai độ đứa bé Na Ưu La, và làm cho ác Quỷ Tỳ Sa phải hàng phục; mọi người nên đến chỗ Như Lai đang ngự trên núi nơi Quỷ ở để được nghe lời chỉ bảo lợi ích”.

Bấy giờ, nhân dân Bạt Kỳ, Trưởng giả Thiện Giác, nghe những lời ấy, họ tụ tập lại vui mừng hớn hở không kìm được; họ liền cùng kéo nhau tới chỗ đức Phật đông như kiến (8 vạn 4 nghìn người).

Đến nơi rồi, vái lễ, có người sờ chân Phật, có người nâng tay Phật. Khi tất cả đã an vị, đức Phật thuyết pháp cho nhân dân Bạt Kỳ nghe vi diệu pháp về luận thí, giới, sinh Thiên, dục là bất tịnh, xấu xa là họa lớn.

Lúc mọi người đã có tâm ý vui thích, Ngài nói về khổ tập diệt đạo, tất cả đều sạch xấu xa ở đời (sạch trần cấu); giống như từ áo trắng dễ nhuộm màu, tin tưởng hoàn toàn không còn điều gì nghi ngờ, không còn sợ hãi (được pháp thanh tịnh); họ đều tự quy y Tam Bảo Phật Pháp Thánh chúng, và thụ trì năm giới.

Trưởng gia Thiện Giác, cha của bé Na Ưu La liền thưa:

- Cúi mong Thế Tôn nhận lời thỉnh cầu đến nhà con ngày mai, con sẽ cúng dàng Như lai.

Đức Phật im lặng nhận lời, Trưởng giả thấy đức Phật đã nhận lời, liền cúi lễ rôi lui về cho sửa soạn thức ăn, mọi người cùng vái lạy ra về trong lòng hân hoan.

Sáng hôm sau, Trưởng giả đích thân đến thỉnh mời Phật, Ngài liền đến nhà Trưởng giả; sau khi an tọa, Trưởng gia đích thân dâng thức ăn uống lên Phật đầy đủ. Sau khi ăn xong, Ngài thuyết pháp cho Trưởng giả và quyến thuộc nghe, xong ông thưa:

- Thưa đức Thế Tôn, nếu bốn chúng (Tăng, Ni, Cư sĩ Nam Nữ) của Ngài cần thức ăn, áo mặc, thuốc men, vật dụng, xin Thế Tôn cho phép họ đến nhà con nhận lấy.

Đức Phật bảo:

- Lành thay, Trưởng giả!, như lời Ông nói.

Nói xong, trong khoảnh khắc, đức Phật biến mất khỏi nước Bạt Kỳ trở về vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ, Ngài vào giảng đường bảo mọi người:

- Nếu bốn bộ chúng cần thức ăn, áo mặc, thuốc men, vật dụng, hãy đến nhà Trưởng giả Thiện Giác tại nước Bạt Kỳ nhận, tại sao? Vì Trưởng giả là Ưu Bà Tắc (Cư sĩ Nam), cha của bé Na Ưu La, không tiếc của bậc nhất, sẵn sàng cúng dường bốn chúng.

LỜI BÀN:

Thời nay nghe nói việc Quỷ ăn thịt người thì khó tin, vì không hề thấy xảy ra, thật là không tin nổi; có lẽ mỗi thời mỗi khác chăng? Như thời chiến tranh, không nghe nói ai bị ma nhập, tới thời nay, thời bình ở Việt Nam, chuyện ma nhập có xảy ra, có người nhìn thấy người cõi Âm, nói chuyện với người đã chết, từng đã xảy ra trong ít lâu nay ở Việt Nam. Các tin tức này, chúng ta thường thấy trên báo chí, trên mạng đều có nói đến, thiết nghĩ các việc khó tin vẫn có xảy ra vậy.

Chuyện ác Quỷ trên đây liên quan đến đức Phật, các Thánh đệ tử của Ngài kết tập ra trong Kinh điển, không thể hư dối được, chúng ta phải tin là sự việc có xảy ra.

Khi ác Quỷ dùng thần lực không làm gì được Phật, bèn quay qua hỏi nghĩa lý: “Thế nào là hạnh cũ, thế nào là hạnh mới, thế nào là hạnh diệt?”. Phật trả lời: “Mắt là hạnh cũ, việc làm ngày xưa duyên với thụ thành hạnh cũ, tai mũi lưỡi thân ý lúc trước tạo, duyên với thọ thành hạnh cũ”.

Điểm này, chúng ta thấy hạnh cũ ví như mắt thấy cái bánh, mũi ngửi mùi thơm, tai nghe nói ngon, ăn vào thấy ngọt, nên có cảm giác ngon, yêu thích. Đầy đủ 6 căn, 6 trần, 6 thức cùng làm việc. Cái việc ăn này xảy ra trước đây hay từ lâu rối gọi là “hạnh cũ”. Nếu xảy ra hôm nay, bây giờ, đó là “hạnh mới”, nếu kiêng cữ từ nay trở đi không ăn bánh ngọt nữa, tức là “hạnh diệt”

Ngày nay “thân ba, miệng bốn, ý ba tạo tác, đó là hạnh mới” là sao?

Thân ba là sát sanh, trộm cắp, tà dâm

Miệng bốn là nói dối, nói hai chiều, nói thêm bớt, nói ác.

Ý ba là tham lam, sân giận, si mê tà kiến.

Đến khi Quỷ Tỳ Sa đã quy Phật rồi nói rằng: “Con nay đem hang núi này cúng cho Chiêu Đề Tăng v.v...”, chiêu Đề Tăng là gì?

Chiêu là nhận tội, buộc lại, tới với mình, tự gây ra cho mình, bày tỏ, Đề là nắm lấy, dẫn đến, kêu van, Tăng là Thầy tu; Chiêu Đề Tăng là tự bày tội lỗi với bậc chân tu giác ngộ.

Chúng ta thấy Kinh này không đề cập đến việc Phật giao đứa bé vào lúc nào, theo thiển ý thì sau khi Quỷ Tỳ Sa quy Phật rồi và nhận nhiệm vụ xuống núi vào nhân dân nói những lời Phật bảo, Ngài đã cho em bé ra về; còn đức Phật ở lại chỗ của Quỷ trong núi, và nhân dân nghe những lời ấy bèn cùng nhau kéo đến chỗ núi ấy.

Bài Kinh này cho chúng ta thấy: đức Phật đã biến Quỷ dữ thành lương thiện, và Quỷ đã học được một bài học về mười điều lành (thập thiện) do Phật dạy; từ đấy không còn là Quỷ dữ nữa, mà phải nói là Quỷ hiền; trên đời này có lẽ chỉ có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mới có thể biến Quỷ ác thành Quỷ Thiện mà thôi.

Đọc bài Kinh trên, chúng ta rút ra được bài học cần ghi nhớ: đó là người tu phạm giới sẽ bị đọa; bởi vậy những vị tu hành phải để ý nhớ giữ gìn giới hạnh để khỏi đọa vậy.

Toàn Không
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/08/2017(Xem: 6860)
Thưa đại chúng, hôm nay là ngày 01 tháng bảy năm 2017, tại tu viện Thiện Hòa, thành phố Moenchenladbach , Đức quốc. Tôi có duyên với quý vị trong giờ phút này, và tôi xin chia sẻ pháp thoại “Đức Phật A Di Đà trong đời sống của tất cả chúng ta”.
10/05/2017(Xem: 6882)
Cụm từ "Di Đà Tự tánh" hay "Duy tâm Tịnh độ" thường được dùng để chỉ đỉnh cao của pháp môn Tịnh độ, nhưng rất dễ gây hiều lầm. Về phương diện Lí tánh thì Phật A-di đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ là Tự tánh thường chiếu và vĩnh hằng của chúng ta. Khi ta niệm danh hiệu A-di-đà là trở về với Tự tánh, bản tâm. Chúng ta hãy xem đoạn văn sau đây của những người dùng lí thuyết "cao siêu" để bài bác pháp môn Tịnh độ: "Niệm danh hiệu Phật để cầu sanh Tịnh độ là còn chấp Tướng, tìm pháp ngoài Tâm - không hiểu rằng tất cả các pháp đều là tâm".
16/04/2017(Xem: 6502)
Phương pháp Thập Niệm do một vị Đại sư nổi tiếng giảng dạy dựa trên sự vãng sanh Hạ phẩm được diễn tả trong Quán Kinh. Phương pháp nầy đặc biệt dành cho những người quá bận bịu với cuộc sống nên hằng ngày không thể niệm Phật (nhiều lần) để cầu vãng sanh như người tu Tịnh độ bình thường. Do đó, cách nầy dạy niệm danh hiệu Phật A-di-đà khoảng mười lần mỗi khi hít vào và thở ra. Chủ đích của phương pháp nầy là dùng hơi thở để tập trung tâm ý. Tùy theo hơi thở dài hay ngắn mà hành giả có thể niệm được nhiều hơn hay ít hơn 10 danh hiệu. Sau mười lần hít vô--thở ra (tức là niệm được tổng cộng khoảng từ 50 đến 100 câu Phật hiệu), hành giả có thể bắt đầu tụng bài thơ hồi hướng công đức sau đây:
02/04/2017(Xem: 8292)
Theo âm Hán Viêt, A Di Đà Phật có nghĩa là Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Quang Phật, Tây Phương Phật. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca giảng là Phật A Di Đà, Giáo Chủ cõi Cực Lạc (Soukhavati (Scr.), ở phương Tây, cách cõi Ta Bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một cõi đầy đủ các công đức trang nghiêm. Lầu các, cây cối, đất đai toàn là châu báu. Nào là các loài chim bạch hạt, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tầng già v.v… ngày đêm sáu thời ca hát ra những lời pháp: năm căn, năm lực, bảy món bồ đề, bát chánh đạo…
27/03/2017(Xem: 4051)
Tịnh độ tông là tên gọi chung của tất cả những giáo lí dạy rằng chúng sanh có thể thành Phật nếu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của đức Phật A-di-đà. Ở Ấn độ. giáo lí nầy được các ngài Mã Minh, Long Thọ và Thế Thân giảng dạy trên cơ sở nhiều kinh điển khác nhau, như hai bộ kinh A-di-đà. Lịch sử của Tịnh độ tông bắt đầu từ Ấn độ thời cổ đại, nhưng thời đó truyền thống đức tin chưa được nhấn mạnh. Mặc dầu Ấn-độ lúc đó đã có một môn phái thờ đức A-di-đà, sự kính ngưỡng Ngài chỉ là một trong các cách thực hành của Phật giáo Đại thừa lúc ban sơ.
07/09/2016(Xem: 5519)
Theo lời giới thiệu của nhà xuất bản Seuil, Paris, thì Jean Eracle nguyên là Quản Đốc Viện Bảo Tàng Dân Tộc Học Á Châu, đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sỹ. Do một nhân duyên vô cùng kỳ lạ, ông được sang Nhật-bản lưu trú suốt mấy mươi năm để học hỏi cùng thực hành Niệm Phật theo giáo pháp của “Đạo Phật Chân Chánh trong Pháp môn Tịnh-độ” tức Tịnh-độ Chân-tông do Ngài Thân Loan Thánh Nhân khai sáng cách đây gần 8 thế kỷ.
28/04/2016(Xem: 16442)
Thiền, Tịnh, Mật được xem là ba pháp môn tu truyền thống của Phật giáo Việt Nam xưa nay. Thiền giáo xuất hiện từ thời Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi và Vô Ngôn Thông. Các thế kỷ sau, kinh điển Đại thừa được truyền bá, theo đó tư tưởng Thiền, Tịnh và Mật được phổ biến tại nước ta. Từ lịch sử phát triển Phật giáo Việt Nam cho thấy, ba pháp môn tu đó có sự đóng góp tích cực cho con người và xã hội qua nhiều thời đại.
15/02/2016(Xem: 11394)
Trong bổn hội các liên hữu đồng tu, đều tuân theo tu học Tịnh Độ Ngũ Kinh và Tịnh Độ Thập Yếu, đặc biệt là Kinh Vô Lương Thọ, bản hội tập của Hạ Liên Cư Đại Sĩ, Di Đà Yếu Giải, Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, nhất định phải y cứ ba bộ kinh này tu học, dốc hết toàn lực, nghiên cứu học tập kinh luận Đại Thừa mới có thể tương ứng với Tịnh Tông. Bổn hội đặc biệt chú trọng hành giải tương ứng, tâm khẩu nhất như, cho nên hành môn là mọi người phải phát nguyện, cho đến mức cùng đời vị lai. Tuân theo Quán Kinh tu Tam Phước, Lục Hòa, Tam Học, Lục Độ, Thập Đại Nguyện Vương.
23/12/2015(Xem: 9725)
Hễ phát tiểu nguyện thì không hợp nhân quả, chẳng được vãng sanh. Tại sao ? Vì tiểu nguyện chỉ phát nguyện cho một mình được vãng sanh, nếu không trở lại đầu thai thì làm sao có quả báo ? Bây giờ chẳng nói về kiếp trước, chỉ nói kiếp này : Từ nhỏ tới lớn có sát sanh không? Có giết chết con muỗi con kiến không ? Có ăn thịt chúng sanh không ? Theo nhân quả là một mạng phải đền một mạng, ăn một cục thịt trả một cục thịt, thế thì làm sao trả nợ mạng, nợ thịt? Nên phải phát đại nguyện.
24/07/2015(Xem: 14148)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567