Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Năng lực vô biên của vị tha

18/04/201206:44(Xem: 5281)
Năng lực vô biên của vị tha

tulipvang_1NĂNG LỰC VÔ BIÊN CỦA VỊ THA
Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma
Anh dịch: Jeffrey Hopkins

Có bất cứ một đạo đức nào đồng đẳng với khuynh hướng vị tha này không?
Có bất cứ một thân hữu nào như vậy chứ?
- TỊCH THIÊN, Hướng Dẫn Lối Sống của Bồ Tát.

Giống như năm yếu tố của môi trường vật chất - không, đất, nước, lửa, và gió - là vô giới hạn, vì thế chúng sinh mà con người vị tha tìm cầu để hướng dẫn ra khỏi khổ đau tới thể trạng giác ngộ là vô giới hạn trong con số. Sức mạnh trái tim của Bồ tát là như thế, các ngài cam kết với nhiệm vụ này trong việc hổ trợ tất cả chúng sinh - mà không có bất cứ giới hạn nào của thân hay thù, quốc gia hay chủng tộc - từ mỗi một loại khổ đau. Các ngài muốn đưa chúng sinh vào trong thể trạng giác ngộ, được ban cho tất cả những phẩm chất thuận lợi tiềm tàng. Để trở nên có thể cứu giúp trong một mức độ rộng rãi như vậy, các ngài tự nguyện từ trong chiều sâu trái tim của các ngài - rèn luyện trong vô số kỷ năng để tiến bộ đối với sự hoàn thiện của chính các ngài bất chấp chúng lâu dài như thế nào đi nữa, trải qua hàng vô số, a tăng kỳ kiếp sống, với nổ lực như áo giáp vô hình, ngăn ngừa sự thiếu nhẫn nại và thối chí. Vì nhận thức của các ngài là quá rộng lớn, các ngài tích lũy nghiệp lực tích cực xứng đáng ngay cả khi các ngài đang ngủ năng lực cũng vô giới hạn cống hiến đến vô số chúng sinh .

Khi chúng ta quan tâm đến năng lực rộng lớn của giác ngộ và khối lượng thực hành khổng lồ tương ứng cần thiết để đạt đến, chúng ta có thể trở nên thối chí và chùn bước với nhiệm vụ. Tuy nhiên, vì chúng sinh, những người tiếp nhận lòng từ ái và bi mẫn của chúng ta là vô hạn trong con số, năng lực lợi ích tích lũy bởi tâm vị tha của chúng ta cũng là vô giới hạn. Trong cách này, những phẩm chất vô biên của giác ngộ, là những thứ có thể dường như khó khăn để gặt hái được qua tính chất bao la của chúng, có thể được thấy như có thể đạt được. Việc phản chiếu cách này, chúng ta thấy rằng sự chuyển hóa thành giác ngộ là thực tế khả dĩ, do thế ngăn ngừa bất cứ khả năng nào của việc lười biếng và chần chừ.

Như Long Thọ nói trong Tràng Hoa Quý Báurằng:

Qua tâm từ ái và bi mẫn của các ngài
Lòng vị tha quyết định để hướng dẫn
Vô lượng chúng sinh khỏi khổ đau
Và đưa họ vào trong Quả Phật.
Vì thế ngay cả khi đang ngủ
Sau khi thừa nhận một sự quyết tâm hoàn hảo như vậy
Những ai duy trì sự kiên định -
Mặc dù họ có thể không quá kỷ càng -
Luôn luôn tích lũy công đức tối thiểu như tất cả chúng sinh
Vì chúng sinh là vô lượng
Rồi thì hãy biết rằng bởi vì nguyên nhân là vô hạn
Nên Quả Phật vô biên thì không khó để đạt đến.
Sự lưu trú của lòng vị tha cho một thời gian vô hạn trong thế giới:
Vì vô lượng chúng sinh mà họ tìm cầu
Vô số phẩm chất của giác ngộ
Và tiến hành vô biên hành vi đạo đức.
Vì vậy mặc dù giác ngộ là vô lượng
Làm thế nào họ không thể đạt đến được
Với bốn nhân tố vô biên này
mà không phải cần thời gian quá dài!

Bằng việc hướng đến phạm vi hành đông của chúng ta không phải chỉ cho chính chúng ta hay một vài người thân cận mà ở mỗi một chúng sinh khắp hư không, hiệu quả chuyển hóa từ những hành vi tích cực của chúng ta được tăng lên gấp bội bởi vô lượng chúng sinh, là cánh đồng cho sự gieo trồng của chúng ta. Trong cách này, lòng từ ái trở thành thành phần và nguyên nhân không thể tách rời của sự giác ngộ toàn vẹn. Mặc dù vào lúc đầu chúng ta có thể đặt nghi vấn cho khả năng của Phật Quả, nhưng sự chuyển hóa tâm linh hoàn toàn trở nên thực tiển khi chúng ta lưu tâm đến hiệu quả của từ ái, bi mẫn và mục tiêu vị tha để trở nên giác ngộ. Tất cả sẽ hổ trợ chúng ta trên hành trình tâm linh, và chúng ta sẽ ngạc nhiên vào năng lực của từ ái, bi mẫn và vị tha.

NGUYỆN ƯỚC HỔ TRỢ

Những nguyện ước chân thành cho sự phát triển tâm linh tương lai của chính mình và cho tiến trình của người khác tự nó là một hình thức của thiền tập. Long Thọ nổi tiếng ở Ấn Độ và khắp Á châu vì đã xác định những nhận thức phóng đại của bản chất con người và sự vật và cho sự trình bày của ngài về mối quan hệ nhân quả, đã trước tác một hệ thống thệ nguyện diệu kỳ cho chính chúng ta và sự thành công của người khác trong những dạng thức của sức khỏe con người, phương pháp và những phẩm chất tâm linh. Ở đây chúng là:

Qua công đức của những hành vi đạo đức
Mà tôi đã làm và sẽ làm
Nguyện cho tất cả chúng sinh ngưởng mộ
Đến quả giác ngộ tối thượng
Nguyện cho tất cả chúng sinh có những khả năng thuần khiết,
Thoát khỏi tất cả những điều kiện chướng ngại
Tự tại trong hành động và tài năng
Với sinh kế thánh thiện
Cũng nguyện tất cả chúng sinh
Có châu báu trong tay họ
Và nguyện cho tất cả những thứ cần dùng vô hạn của đời sống duy trì
không tiêu thụ hết cho đến khi vẫn còn vòng sinh tử.
Nguyện cho tất cả mọi người vào mọi thời
Được sinh ra trong những cung cách thuận lợi
Nguyện cho tất cả chúng sinh có
Sự thông minh của tuệ trí và đôi chân của đạo đức.
Nguyện cho tất cả chúng sinh có một cục diện vui vẻ
Thân thể tốt đẹp, rực rở thênh thang,
Một hiện tướng toại ý, thoát khỏi bệnh tật,
Mạnh khỏe, và sống lâu.
Nguyện cho tất cả giỏi giang trong phương tiện phân biệt khổ đau
Và có sự giải thoát khỏi tất cả đớn đau,
Thiên hướng đến sự thực tập tâm linh
Và sự phong phú vô cùng trong giáo huấn tâm linh.
Nguyện cho họ được trang hoàng với từ ái, bi mẫn, hoan hỉ,
Tâm ý tĩnh lặng trống rỗng những cảm xúc phiền não
Bố thí, đạo đức, nhẫn nhục, nổ lực,
Tập trung, và tuệ trí.
Hoàn thành hai sự tích tập về phúc đức và tuệ trí
Nguyện cho họ hiện tướng có những dấu hiệu rực sáng và những biểu hiện xinh đẹp.
Nguyện cho họ vượt qua không bị trở ngại
Toàn bộ phạm vi của sự phát triển tâm linh
Tôi cũng nguyện được tô điểm hoàn toàn
Với những thứ và tất cả những phẩm chất thánh thiện khác.
Được tự do khỏi tất cả những khuyết điểm
Và có lòng từ ái siêu việt cho tất cả chúng sinh
Nguyện cho tôi hoàn thiện tất cả những đạo đức
Vì là những thứ mà tất cả chúng sinh hy vọng
Và nguyện cho tôi luôn luôn làm vơi nhẹ
Những khổ đau của tất cả những chúng sinh hiện thân
Nguyện cho tất cả những chúng sinh ấy trong tất cả thế giới
Những ai sầu khổ qua sợ hãi
Trở nên hoàn toàn vô úy
Mặc dù chỉ nghe tên tôi
Qua thấy hay nghĩ về tôi hay chỉ nghe tên tôi
Nguyện cho chúng sinh đạt được niềm vui lớn
Tự nhiên thoát khỏi mọi lỗi lầm,
Xác định rõ ràng đối với sự giác ngộ hoàn toàn.
Nguyện cho năm loại thần thông
tương tục suốt khắp trong những kiếp sống
Nguyện cho tôi luôn luôn ở trong tất cả những phương cách mang
Sự giúp đở và hạnh phúc đến tất cả chúng sinh
Nguyện cho tôi luôn luôn không bị tổn hại
Đồng thời dừng lại
Những mong ước tạo tác các hành vị tệ hại
Của tất cả chúng sinh trong tất cả các thế giới.
Nguyện cho tôi luôn luôn là một đối tượng của hoan hỉ
Cho tất cả chúng sinh phù hợp với nguyện ước của họ
Và không bị trở ngại, như đất,
Nước, lửa, gió, thảo mộc, và rừng hoang sơ.
Nguyện cho tôi thân thiết với chúng sinh như đời sống của chính họ
Và nguyện thân thiết còn hơn thế đối với tôi.
Nguyện cho những hành vi tệ hại của họ trổ quả với tôi
Và tất cả những đạo đức của tôi trổ quả trong họ.
Cho đến khi còn bất cứ một chúng sinh nào
Bất cứ nơi nào chưa được giải thoát,
Nguyện tôi tiếp tục hiện hữu trong thế giới vì lợi ích của chúng sinh ấy
Mặc dù tôi đã đạt đến giác ngộ tối thượng.
Sau đó Long Thọ nói về giá trị của việc tiếp nhận những nguyện ước này vào trong tim:
Nếu công đức nói về điều này
Có hình sắc, nó sẽ không bao giờ chứa vừa
Trong những cõi của những thế giới
Nhiều như số cát trong sông Hằng
Đấng giác ngộ đã nói như thế,
Và lý do là điều này:
Công đức vô biên của nguyện ước
Cứu giúp vô lượng thế giới của chúng sinh
Thì giống như sự vô hạn của những chúng sinh ấy.

Bằng việc tiếp nhận những nguyện ước này từ trái tim, chúng ta cống hiến mục tiêu sâu xa nhất cho sự cát tường của người khác, do thế việc tích tập những năng lực tích cực rộng lớn như số lượng của chúng sinh bao hàm lãnh vực vị tha của chúng ta.

Nguyên tác: The Enormous of Altruism
Ẩn Tâm Lộ ngày 19-3-2012

Bài liên hệ:

1- Quan điểm của tôi

2- Những giai tầng phát triển

3- Tịnh hóa tâm thức

4- Nghĩ về thân và thù: Bước nền tảng

5- Nhận ra thân hữu: Bước thứ nhất

6- Đánh giá đúng sự cân cần: Bước thứ hai

7-Thói quen ân cần: Bước thứ ba

8- Học tập để từ ái: Bước thứ tư

9- Khác biệt giữa từ ái và luyến ái

10- Từ ái: Căn bản của nhân quyền

11- Mở rộng chu vi của Từ ái

12- Năng lực của bi mẫn: Bước thứ năm

13- Chí nguyện cố gắng toàn lực: Bước thứ sáu

14- Tìm cầu sự giác ngộ vị tha: Bước thứ bảy

15- Năng lực vô biên của vị tha

16- Hành động với từ ái

17- Tác giả và dịch giả

SÁCH CÙNG DỊCH GỈA

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5845)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 6016)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6849)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5867)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6583)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 7975)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7099)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6382)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7176)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6039)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567