Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Minh Trong Cõi Ta Bà..

07/02/201106:11(Xem: 3230)
Vô Minh Trong Cõi Ta Bà..

VÔ MINH TRONG CÕI TA BÀ...
Nhụy Nguyên

Không nhiều người tin, nhưng trước nền văn minh chưa đạt tới “viên mãn” của Trái đất này, có nền văn minh khác đạt đến cực thịnh và đã tàn lụy. Chiểu theo chu trình phát triển vũ trụ thì điều đó thường hằng diễn ra liên tục trong tam giới. Bây giờ ngành khảo cổ học đã tìm thấy nhiều hiện vật minh chứng cho một trình độ siêu việt, có niên đại sau khi trái đất hình thành.

Nhiều nữa nền văn minh đã là sự nuối tiếc khôn nguôi của nhân loại. Quy cho cùng, văn minh là do con người trong tiến trình can dự vào thiên nhiên đã được sắp đặt sẵn tạo nên. Một thế giới yên bình và trường tồn chỉ có thể tôn trọng và nương tựa vào thiên nhiên. Từ sông núi biển hồ đến những tòa thành hay đền tháp, hễ nó có trước lúc trái đất hình thành thì nhất định phải được tôn trọng, phải được giữ ở mức độ nguyên trạng nhất. Nhưng sự phát triển của khoa học kỹ thuật hiện đang hành xử ngược lại. Nghĩa là chúng ta đã thực sự rút ngắn tuổi thọ của hành tinh xanh này.

Người tu là người biết dựa vào tất cả những gì tạo hóa đã ban, biết tập đi trên con đường cũ hàng trăm ngàn năm trước Phật đã vạch mà nay ít nhiều bị vùi lấp bởi sản phẩm công nghiệp hóa (kể cả rác do người máy thải ra). Chính vậy thời nay, người tu xem như đi ngược lại với dòng đời cuồn cuộn chảy như một cơn lốc mang bộ mặt giận dữ của nước (mà thực tế là xuôi).

Người tu không nuối tiếc những thành phố cực thịnh bão cát vùi lấp, không tiếc nuối một con thuyền sử sách ghi lại là chở đầy lụa là châu báu đã chìm nghỉm dưới đáy đại dương nay vẫn chưa dấu vết. Người tu không muốn gặp lại tứ đại mỹ nhân đã hóa thành cát bụi, thành một dạng vật chất vi quan không nhìn thấy. Người tu chỉ tiếc những ai đã rời bỏ thế gian từng vạch đường cho nhân loại trở về với bản chất trống rỗng của mình để không còn phải bám vào vòng quay luân hồi trước lúc bị hất xuống tầng sâu địa ngục.

Thật ra địa ngục có từ xa xưa, khi người nô lệ bị đối xử hơn loài súc vật nhơ nhuốc, bệnh hoạn, cần xa lánh ruồng rẩy nhất; địa ngục tồn tại trong xã hội thời trung cổ; và địa ngục vẫn còn tồi tại đâu đó trên mặt đất chúng ta đang đứng, đang ca hát nhảy múa, đang sung sướng đến điên rồ mà cạnh bên vẫn có người tột cùng đau đớn, cầu xin sự chết cứu rỗi nhưng vô vọng! Niềm hạnh phúc và nỗi thống khổ là hai mặt khác biệt đối với người thường. Với những ai đã chứng ngộ, nó chỉ là một. Một gã keo kiệt phải cho ai đó phần của cải thì dằn vặt khổ sở; còn với một cao tăng, cũng hành động cho của ấy, lại chính là niềm ân phước dành cho bản thân.

Vậy nguyên nhân do đâu. Ấy là Tâm. Tất cả đều do Tâm chưa sáng, chưa tịnh. Tâm điều khiển chứ không phải trí não như tôi vẫn nhầm tưởng. Một bộ não uyên bác cũng có thể sinh ra hành động thấp hèn, nhưng tuyệt nhiên không niệm độc nào nhận sự sai khiến từ Tâm đã ngộ đạo. Do vậy càng sử dụng bộ não tôi càng lệch tần số với thế giới tâm linh.

Sự vô minh, đúng là lớp màng che mờ tầm mắt nhìn vào thế giới thực. Từ đó cho mình là to nhất cao nhất. Khoa học thời nay cũng đã thừa nhận trái đất chỉ là một hạt cát của vũ trụ, vậy mà thật nhiều bộ óc vĩ đại của nhân loại vẫn lấy con người là trung tâm của vũ trụ. Sự ngạo mạn khiến một số nhà này nhà nọ dùng kính thiên văn khuếch đại nhìn bốn phương và đưa ra kết luận ngon ơ: Không hề thấy thượng đế đâu cả! Ở Tây Tạng, những nhà tu hành chân chính không hề dám vung tay quá trán, vì họ biết trên đầu mình là thần thánh. Đến đây tôi chợt hình dung tới đoàn các nhà khoa học hàng đầu của Hoàng gia Anh từng thị sát miền đất thánh trong chuyến Hành trình về phương đông. Những gì mà họ tai nghe mắt thấy đã làm chấn động châu Âu một thời. Nhưng dường như ai từng thấm đạo pháp vẫn thật mau quên những gì khoa học chưa và không chứng minh được. Với thế giới trần tục, tôi chỉ mong rằng đến một ngày, khoa học sẽ chế tạo ra một cái kính, ai đeo vào là nhìn thấy linh hồn, nhìn thấy được thế giới bên kia (đang tồn tại cùng chúng ta). Còn đối với người Tu thì điều đó không cần thiết. Những vị đắc đạo đều có thần thông mà họ "không biết"; cũng giống như một người thường luôn có súng bên mình mà chẳng bao giờ dùng đến. Điều đó trả lời câu hỏi vì sao Mục Kiền Liên - một đệ tử số một về thần thông của Thích Ca lại chịu đánh đến chết; Đạt Ma mấy lần bị đầu độc; Chúa Giêsu dang tay nhận đóng đinh trên cây Thập tự; Đức Phật thì “hòa mình” vào quy luật sinh tử dạy bài học cuối cùng: ngay cả xác thân cũng chẳng nghĩa lý gì để mang theo.

Người trần hết thảy đều là những con nợ. Nếu ai sống dài sống dai quá lắm chỉ vài trăm năm, bằng cái nháy mắt nơi thượng giới. Ngắn vậy mà hầu như ai cũng quên món nợ mình chưa trả, trong lúc lại muốn chắp cánh bay vào một cõi khác thuần tịnh hơn. Những lỗi lầm từ quá khứ của con người, chỉ riêng kiếp này đã quá lớn, chứ đừng nói kiếp trước, hàng ức kiếp trước mà người trần mắt thịt không được phép biết. Tôi vẫn từng tâm niệm, kiếp này đội lốt người đã quá may mắn rồi. “Thượng đế” cấp cho thân người là để Tu, để trở về với uyên nguyên thế giới, chỉ vậy. Cõi trần này chỉ là cõi tạm. Khi đã “ngộ” ra điều đó, người ta cũng chưa chắc đã Tu. Nếu Tu thử hỏi mấy ai… xuống núi.

Do bởi cõi trần tạm bợ. Nên tôi cũng đã sống nháp(chữ Nguyễn Khắc Thạch). Chỉ Tu mới thực. Tu là chỗ dựa duy nhất ở mỗi người. Vậy nên, ngôi nhà chúng ta đổ bao tiền bạc để làm một cái móng thật chắc, không là cái gì ghê gớm trong cuộc đời. Nó có cao sang đến mấy thì cũng chỉ là chỗ che mưa nắng; chỉ quan trọng ở chỗ: có một nơi thanh tịnh để thiền định, để đọc kinh và sách thánh hiền giá rẻ nằm lăn lóc ở những quầy sách cũ. Và gia đình bé mọn mỗi người cũng chỉ là tạm.

Tất nhiên, điều đó cũng gần như vô nghĩa nốt. Tu là một quá trình rũ bỏ tất cả. Rượu bia nhậu nhẹt đã trở thành một thứ ma tuý mà chỉ những ai buộc phải chọn lựa giữa sự sống và cái chết (bệnh nặng chẳng hạn) mới chịu từ bỏ. Rồi đến thuốc lá, sơn hào hải vị, của ngon vật lạ trần thế... Mà khẩu phần của người tu đơn thuần rau cỏ, sạch hơn chứ không mấy sang hơn “khẩu phần” của vật. Loài người chỉ cao phước hơn loài vật chút xíu thôi. Cuối năm ngoái, tổ chức Peta đã bày 4 chiếc khay lớn đựng 4 người trần truồng nằm gọn, bọc ni lông như đồ món trong tủ lạnh siêu thị, đề “human meat”. Đấy là hình ảnh gây sốc bởi “dám” nhắc nhở: con người cũng là động vật! Nhưng tôi đã vô tâm. Vô tâm đến độc ác khi giết thịt động vật bậc thấp để thoả mãn những giác quan của mình, để nuôi dưỡng xác phàm thô thiển! Càng giết chóc, càng ăn thịt, nghiệp lực càng chồng chất. Sự vô minh dẫn đến hành động sai trái mà tôi đúng hoặc từng cho đúng. Một công trình khoa học uy tín chứng minh, răng và bộ phận tiêu hóa của người rất gần với thỏ, chỉ nên ăn rau cỏ. Giờ đây thì cá nhân tôi cũng đã đi quá xa với bổn phận làm người. Mấu chốt ở chỗ: tôi chắc rằng, chết là hết!

Không ai muốn kéo dài cuộc đời của mình trong sự khổ não. Cũng chẳng ai muốn rút ngắn cuộc đời trong giàu sang. Nhưng nếu tôi muốn tiêu hủy sự sống thông qua chu trình tận hưởng, thì tạm hiểu mình đã chết trước đó lâu lắm rồi.

Ở trên tôi có liếc qua địa ngục, bây giờ xin nhìn thẳng vào thiên đường. Địa ngục có tồn tại trên trái đất này, thiên đường cũng vậy. Thiên đường của người trần tục là một cuộc sống tràn đầy hoa thơm cỏ lạ, mỗi bước chân đều có bàn tay khác nâng đỡ, là cuộc phiêu du trên cánh đồng dục vọng thẳng cánh cò bay, là niềm khát khao những nấc thang danh vọng tưởng sẽ thấu trời nếu tuổi thọ được nối thêm vài kiếp. Còn đối với người tu, thiên đường vụt hiện khi dòng suối chảy tràn, khi đài nước phun trào trong tâm mà không hề một hạt bụi bắn vào mặt người ngang qua trong giờ khắc nhập định. Thiên đường bung nở trong mỗi hình hài bất động luôn mang khuôn mặt thánh thiện, thuần khiết. Thiên đường cũng theo bước chân hành thiền; thiên đường có trong mọi hành động, ý nghĩ, tâm thái khi người tu tan vào bể khổ nhân thế. Thiên đường cũng òa đến đúng thời điểm bất kỳ ai đó hân hoan trong thiện nghiệp. Người tu có (như không) tồn tại hai thiên đường kể trên. Người trần thiên đường chỉ một.

Không thể so sánh một ngọn núi với ụ đất, song tôi cũng mạn phép nhắc lại. Xưa kia xứ Ấn có một Hoàng tử đã che mắt không nhìn ngai vàng chói lóa để lần theo con đường giải thoát bi đát hơn một gã hành khất. Ở Việt Nam hơn ngàn năm sau cũng có vị vua nhường lại cuộc sống không thiếu thứ gì lên núi nương mình dưới ánh hào quang Đức Phật. Hiếm ai từng đi qua hai thiên đường như vậy, và nhận ra thiên đường nào là thật, thiên đường nào là ảo. Mỗi thời mỗi khác, xã hội nhân loại đang biến đổi lệch xa xưa kia, càng ngày càng li viễn với chân lý của vũ trụ (chứ không phải chân lý của trái đất này).

Một cục vàng ở trong bụi cũng bị moi móc (đôi khi ai đó còn xới tung mồ mả) tìm cho ra, còn Phật Pháp ở trước mắt là châu ngọc thì không nhiều người để mắt. Nói đúng hơn, người nhìn thấy là người có duyên với Phật, tại những kiếp trước đã chánh niệm hành pháp. Tu là một khái niệm chung cho tất cả người muốn trở lại nơi tự mình lưu đày rồi lạc lối. Ngay những người Tu, ai bảo không lẫn lộn lối về? Nếu năm mươi người cùng hướng về Tây Trúc thì con đường đó vẫn là sự độc hành của một trăm dấu chân không trùng khớp. Và nếu ai đó vén được bức màn vô minh, cũng xem như đã nhìn thấy miền cực lạc dẫu còn xa vời giữa mây khói mong manh./.


Nhụy Nguyên

Người gửi bài: Thiện Tâm Minh
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/09/2010(Xem: 4594)
Vào những năm đầu Tây lịch, Phật giáo từ miền Đông bắc Ấn Độ truyền vào Trung Quốc, từ đó Phật giáo lại truyền vào bán đảo Hàn Quốc và Nhật Bổn. Ở những quốc gia này, Phật giáo đại thừa được quảng đại quần chúng tin theo và thọ trì. Như các tông phái Tịnh độ khác, Chân tông Tịnh độ cũng thuộc đại thừa Phật giáo. Giáo lý căn bản của Chân tông Tịnh độ cùng tương đồng với các giáo phái đại thừa khác như Thiền tông, Mật tông Tây Tạng là những tông phái được phổ biến thạnh hành ở Tây phương.
04/09/2010(Xem: 5621)
Tổ Long Thọ nói rằng cho một hệ thống nơi mà tính không là có thể, nó cũng có thể có chức năng, và vì chức năng là có thể, tính không cũng có thể. Vì thế khi chúng ta nói về thiên nhiên, căn bản thiết yếu của thiên nhiên là tính không. Tính không hay shunyata nghĩa là gì? Nó không là tính không của sự tồn tại (không đối với có) nhưng đúng hơn là tính không của chân lý (chân không) hay sự tồn tại độc lập, điều này nghĩa là những sự vật khác tồn tại bởi sự lệ thuộc trên những nhân tố khác.
03/09/2010(Xem: 5279)
Theo giáo nghĩa Đạo Phật, có một sự phụ thuộc lẫn nhau rất gần gũi giữa môi trường thiên nhiên và những chúng sinh sống với nó. Vài người bạn đã từng nói với tôi rằng, căn bản tự nhiên của con người là những gì bạo động, nhưng tôi đã nói với họ rằng tôi không đồng ý. Nếu chúng ta thẩm tra những thú vật khác nhau, thí dụ, những thú vật mà chính sự tồn tại của chúng tùy thuộc vào việc lấy đi mạng sống của những thú vật khác, như những con sư tử, beo, hay cọp, chúng ta học rằng căn bản tự nhiên của chúng cung cấp cho chúng với răng nanh và móng vuốt bén nhọn.
28/08/2010(Xem: 9261)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
28/08/2010(Xem: 4446)
Nền giáo dục thiết lập trên nền tảng hiểu biết sự liên hệ giữa nhân duyên, nhân quả của cá nhân và cộng đồng không phải trong một thời gian mà mọi thời gian, và không phải trong một không gian mà mọi không gian là hết sức cần thiết cho đời sống hòa bình, an lạc và văn minh của chúng ta, khiến tự nó có khả năng vãn hồi trật tự và hoàn thiện cho xã hội của chúng ta ngày nay.
14/06/2010(Xem: 3454)
Đời sống quốc gia với hoàn cảnh địa lý và sự ảnh hưởng khí hậu thiên nhiên đã tạo cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia trên thế giới. Đó là một Ấn Độ có những rừng núi thâm u , tục gọi là Lục địa xanh (Pays blues) đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải thoát sớm nhất trong lịch sử nhân loại. Các nhà triết học, các luận sư và các luận thuyết trứ danh cũng đều xuất hiện tại xứ sở đầy huyền bí này
15/05/2010(Xem: 6227)
Người học Phật chúng taai cũng đều chứng nghiệm được rằng việc tu học tại xứ người quả thật không đơn giản. Trước tiên vì bối cảnh của quốc độ mình đang trú, sau cùng nhưng lại có ảnh hưởng lớn nhất là cuộc sống của bản thân và chính gia đình mình. Tuy nhiên theo tôi, chúng ta cứ nhìn hay là quán những khúc mắc đó như là một phương tiện trong ý nghĩa của tùy duyên bất biến để học, tu và hành Đạo. Ngoài ra chúng ta cũng đừng quên câu thứ 4 trong mười điều của Luận Bảo Vương Tam Muội có ghi rõ là: xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.
14/05/2010(Xem: 6824)
thế là lá thư tịnh hữu đã thiếu các bạn một kỳ rồi đó. Chúng ta hẳn biết rằng, sự hiện hữu và thành hoại của mọi vạn vật không hề ra ngoài lý nhân duyên và duyên khởi. Nên sự vắng một lần thư trên số báo Viên Giác kỳ trước cũng không ra khỏi phạm trù này vậy! Có; không vì không để mà có và không; không vì không có mà không. Mọi vật, mọi việc đều nằm trong vòng chi phối của nhân và duyên để mà có hay không, thành hay hoại. Đây cũng là tinh túy nội dung một câu chuyện mà ai trong chúng ta đã từng được nghe hoặc đọc rồi. Câu chuyện như sau: giai đoạn đầu thấy núi là núi, sông là sông; giai đoạn giữa thấy núi không là núi, sông không là sông; giai đoạn cuối là thấy núi vẫn là núi và sông cũng vẫn là sông! Theo tôi, ba giai đoạn trên có hiện hữu hay không cũng không ở ngoài nhận thức của chúng ta. Nhưng! Nếu không thấu triệt luật nhân duyên, lý duyên khởi thì mình không thể phá vỡ được những thành kiến, định kiến v.v... Cái mà trong nhà Phật gọi là chấp. Và cũng chính cái này là nhân tố qu
09/05/2010(Xem: 10479)
Có người nói: "Cuộc đời như giấc mộng", có người nói "Cuộc đời như tấn trò", có người nói "Cuộc đời như hạt sương"; cũng có người nói: "Đời là bể khổ", đời người như "khách qua đường", cuộc đời như "mây trôi"! Nếu như những ví von này xác đáng thì cuộc đời quả đáng buồn biết bao.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567