Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tánh Không Và Hoa Nghiêm

18/01/201104:53(Xem: 2881)
Tánh Không Và Hoa Nghiêm
TÁNH KHÔNG và HOA NGHIÊM
Nguyễn Thế Đăng

1. Trùng trùng duyên khởi

Thế giới đang hiện hữu trước mặt chúng ta đây là do duyên khởi, hay duyên sanh, nghĩa là do nhiều nhân duyên hợp lại mà có mặt. Một vật trước mặt chúng ta hiện giờ là do nhiều yếu tố mà có mặt: năng lượng, những hạt, bốn lực, tốc độ, nhiệt độ, trường không-thời gian… và tất cả những tương tác với chung quanh. Đó là chưa kể đến sự sống và ý thức tác động lên nó như thế nào.

Tất cả mọi cái hiện hữu đều do nhiều duyên mà sanh ra. Điều này được Phật giáo khái quát:

Khi cái này có mặt thì cái kia có mặt.
Khi cái này không có mặt thì cái kia không có mặt.
Do cái này sanh nên cái kia sanh.
Do cái này diệt nên cái kia diệt.
(Kinh Phật Tự Thuyết, Tiểu Bộ)

Đó là cái thấy biết nguyên lý duyên sanh. Cái này và cái kia tương thuộc. Sự sanh, trụ, dị, diệt của cái này ảnh hưởng, tương tác với sự sanh, trụ, dị, diệt của cái khác, và do đó, của nhiều cái khác.

Mở rộng cái nhìn ra tầm mức thế giới và vũ trụ chúng ta sẽ thấy ngay: Cái này có mặt vì tất cả những cái kia có mặt. Cái này sanh vì tất cả những cái kia sanh. Cái này như thế này vì tất cả những cái kia như thế kia. Cái này biến đổi như thế này vì tất cả những cái kia đang biến đổi như thế kia. Một sự sanh diệt, biến đổi của một cái ảnh hưởng, tương tác đến tất cả những cái khác. Đó là cái nhìn trùng trùng duyên khởi: Một cái được duyên khởi khi tất cả mọi cái đang duyên khởi. Tất cả duyên khởi khi một cái được duyên khởi. Và luôn luôn như vậy trong mỗi khoảnh khắc.

Tôi có mặt ở đây vì có cha mẹ tôi, vì có đất nước Việt Nam này; nếu không có đất nước Việt Nam, tôi đã là một người nước khác, nói tiếng khác, suy nghĩ khác. Tôi có mặt ở đây vì đất ở đây không chìm dưới mặt nước biển, vì mặt trời tỏa xuống trái đất một nhiệt độ dao động vừa phải như vậy, vì mặt trăng ở khoảng cách như vậy. Những ngày trăng sáng tôi tỉnh táo hơn, những ngày mặt trời có những vết đen (bão từ) tôi bồn chồn hơn. Một ngôi sao nào ở đằng kia vũ trụ vừa mới nổ tung hay vừa mới hình thành chắc cũng có ảnh hưởng đến tôi dù tôi không thể biết bằng ý thức thường trực loạn động của tôi. Tôi ở đây, trong thời toàn cầu hóa, nên ít nhiều gì thì tôi cũng là một cá nhân được toàn cầu hóa. Ít nhất, trong phạm vi trái đất này, thân khẩu ý của tôi đã được tạo thành bởi và đang tương tác với thân khẩu ý với mọi loài có sự sống hay không có sự sống trên trái đất. Nói thẳng ra, thân tâm của tôi được tạo thành bằng tất cả thế giới này, bằng tất cả chúng sanh hữu tình trong thế giới này.

Sự dung thông của tôi, dù tôi có biết hay không, với toàn bộ vũ trụ, đó là “đại từ, đại bi”, nói theo ngôn ngữ Phật giáo. Và cái thấy trùng trùng duyên khởi “tôi có mặt vì tất cả mọi cái kia đang có mặt”, chính là “trí huệ”.

Nói bằng ngôn ngữ Hoa Nghiêm, “Một là tất cả, tất cả là một”. Đó là trí huệ và từ bi của Phật giáo.

Cũng chính bởi cái nhìn trùng trùng duyên khởi này, nên Phật giáo nói là vũ trụ vô thủy vô chung, không cần phải có mặt Thượng đế nào ở trước và ở ngoài để tạo ra và điều khiển vũ trụ.

2. Tánh Không là nền tảng của pháp giới Hoa Nghiêm

Từ cái nhìn duyên khởi, duyên sanh này, Phật giáo nói đến tánh Không. Theo một nghĩa gần gũi nhất với duyên khởi, thì tánh Không là vô tự tánh: vì mọi sự đều duyên khởi, nên mọi sự đều không có tự tánh riêng của chúng. Tánh Không là “bản thể học”, hay “hữu thể học” của Phật giáo. Tánh Không là nền tảng cho thế giới Hoa Nghiêm xuất hiện, cho sự thấy được Đức Phật vũ trụ Tỳ Lô Giá Na (Lô Xá Na, Vairocana):

Kẻ vô trí mê lầm
Vọng chấp tướng năm uẩn
Chẳng biết chân tánh kia
Người này chẳng thấy Phật
Rõ biết tất cả pháp
Đều không có tự tánh
Hiểu pháp tánh như vậy
Tức thấy Lô Xá Na.
(Phẩm Tu Di Đảnh Kệ Tán)

Tánh Không là nền tảng cho mọi thế giới, kể cả thế giới sự sự vô ngại vi diệu của kinh Hoa Nghiêm.

Tánh Không thì ở khắp mọi thời gian mọi không gian. Vì ở đâu có cái gì đó (sắc thọ tưởng hành thức, mười tám giới, bốn đại…) thì cái đó là vô tự tánh nên ở đó là tánh Không. Tánh Không thì dung thông vô ngại với chính nó và với tất cả mọi sự vật. Cũng chính vì mỗi sự vật là tánh Không nên mỗi sự vật đều dung thông vô ngại với nhau.

Ở đây chúng ta chỉ chú ý về sắc (sự vật, có thể số ít hoặc số nhiều). Kinh Đại Bát Nhãnói: “Sắc là vô lậu chẳng trói buộc vì là tánh Không vậy” (Phẩm Đoạn Chư Kiến).

Vì sắc vô tự tánh nên sắc là vô biên: “Sắc như hư không, thọ tưởng hành thức như hư không. Như hư không, biên bờ và trung gian đều bất khả đắc… Do nhân duyên này nên vì sắc vô biên mà biết Bồ-tát cũng vô biên (Phẩm Thập Vô). “Sắc là vô lượng vô biên, chúng sanh cũng vô biên (Phẩm Tán Hoa).

“Sắc là vô tận” (Phẩm Chúc Lụy). “Sắc cho đến mười hai duyên khởi (từ vô minh cho đến lão tử) đều là Không, bất khả tận” (Phẩm Bất Khả Tận).

Sắc là tướng vô ngại: “Trong tất cả pháp, tướng của chúng là vô ngại, Bồ-tát phải học, phải biết như vậy” (Phẩm Nghĩa Cú). “Sắc là chẳng chướng ngại, thọ tưởng hành thức là chẳng chướng ngại, cho đến nhất thiết chủng trí là chẳng chướng ngại” (Phẩm Vô Tác).

Mỗi sắc là tánh Không, nên nó có những tính chất của tánh Không: “vô biên, vô lượng, vô tận, vô ngại”. Mỗi sắc là “vô biên, vô lượng, vô tận, vô ngại” cho nên mỗi sắc tương thông, tương dung, tương nhập, tương nhiếp với tất cả các sắc.

Một sắc là “vô biên”, không biên bờ, nên trong một sắc có mặt tất cả các sắc khác. Một sắc là “vô lượng”, nên một sắc chứa tất cả các sắc khác. Một sắc là “vô tận” nên trong một sắc bao gồm tất cả mọi cái hữu tận khác, tất cả thời gian và không gian (hữu tận). Một sắc là vô ngại, nên nó tương thông, tương nhiếp, tương nhập mọi sắc khác.

Khi một sắc là vô biên, vô lượng, vô tận và vô ngại, nó tương tức tương nhập, tương dung tương nhiếp với tất cả các sắc, tạo nên thế giới sự sự vô ngại. Quán thấy được sự vô ngại tương tác lẫn nhau của các pháp như thế, chúng ta bắt đầu bước vào thế giới sự sự vô ngại, thế giới trùng trùng vô tận của Hoa Nghiêm.

Chính nhờ tánh Không, tánh Không một cách rốt ráo, mà thế giới trùng trùng duyên khởi được chứng nghiệm là thế giới sự sự vô ngại, trùng trùng vô tận. Từ thế giới trùng trùng duyên khởi nhờ thấy được tánh Không ở mức độ rất sâu mà chúng ta thấy được thế giới sự sự vô ngại:

Một là tất cả, tất cả là một

Một trong tất cả, tất cả trong một.

Một gồm tất cả trong mình, tương dung tương nhập với tất cả.

Tất cả trong tất cả và tương dung tương nhập với tất cả.

Chính nhờ sự dung thông vô ngại, tương tức tương nhập mà người thể nhập Hoa Nghiêm sống được cái Hiện Tại Vĩnh Cửu chân thật nhất và cao tột nhất, một Hiện Tại Vĩnh Cửu đồng thời và đồng hiện, tương tức và tương nhập trùng trùng vô tận.

Vũ trụ đồng thời và đồng hiện trùng trùng vô tận này, nói theo thuật ngữ của kinhHoa Nghiêm, tức là Pháp thân, Báo thân và Hóa thân của Phật Tỳ Lô Giá Na (Đại Nhật Biến Chiếuhay Quang Minh Biến Chiếu) trùng trùng tương dung tương nhiếp, tức là thế giới sự sự vô ngại của Hoa Nghiêm. Thế giới đó là cực điểm của Chân Không Diệu Hữu của Phật giáo Đại thừa: có mà vẫn giải thoát, giải thoát mà vẫn có.

Để minh họa phần nào cho sự kiện sự vô ngại với sự, cái nhỏ nhiếp nhập với cái lớn một cách vô ngại, khá nhiều học giả Đông và Tây đã trưng dẫn bài thơ của William Blake (1757 – 1827):

Thấy

Thấy một thế giới trong một hạt cát
Và một thiên đàng trong một hoa dại
Nắm giữ vô tận trong lòng bàn tay
Và vĩnh cửu trong một giờ cuộc sống.


Ở đây chúng ta trích thêm một bài kệ của Thiền sư Khánh Hỷ (1066 – 1142) đời Lý nói về thế giới sự sự vô ngại của Hoa Nghiêm:

Uổng đời thôi hỏi sắc cùng không
Học đạo gì hơn hỏi Tổ tông
Ngoài cõi tìm tâm không định thể
Nhân gian trồng quế há thành rừng?
Đầu lông thấy rõ càn khôn thảy
Hạt cát bao hàm nhật nguyệt trong
Đại dụng giữa đời tay nắm chặt
Ai hay phàm thánh với tây đông?

3. Đi vào pháp giới Hoa Nghiêm

Khi tâm ta bám trụ vào một cái gì, thì cái đó, tâm đó liền biến thành vật, thành sắc. Khi tâm không bám trụ vào một cái gì, tâm mở ra, bao trùm cái toàn thể, khi ấy tâm bắt đầu là tánh Không. Khi dịch từ tiếng Phạn và Tây Tạng, dưới ảnh hưởng của Hiện tượng luận Husserl – cùng là người Đức như ông – Herbert V. Guenther đã dịch tánh Không là the openess (sự mở ra, sự rỗng rang). Sau đó đã có một số người dịch theo như vậy. Đây là một nghĩa của tánh Không mà chúng ta có thể tham khảo. Không trụ, không có chỗ trụ (vô trụ, vô sở trụ) là một ý nghĩa của tánh Không, như được nói nhiều trong kinh Kim Cương.

Sắc vô tận khi tâm vô tận; sắc vô ngại khi tâm vô ngại. Để có thể đi vào thế giới vô biên vô lượng vô tận vô ngại của tất cả các pháp thì tâm chúng ta phải càng lúc càng mở ra để trở nên vô biên vô lượng vô tận vô ngại. Công việc này là sự thực hành chuyển hóa tâm thức, phá bỏ những chướng ngại chấp ngã chấp pháp; người xưa nói là sự tan băng: băng biến thành nước. Tùy theo mức độ tan băng của tâm thức mà chúng ta thấy được những mức độ sâu rộng của thế giới Hoa Nghiêm.

Đại thừa nói chung là sự tích tập công đức và trí tuệ. KinhĐại Bát Nhãnói trong phẩm Tam Thán: “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”. Tịnh Phật quốc độ là trí huệ, thành tựu chúng sanh là công đức. Đây là con đường Bồ-tát hạnh.

Như kinhHoa Nghiêmdiễn tả, con đường chứng ngộ cảnh giới rốt ráo của kinh là con đường của hạnh nguyện Phổ Hiền. Thành tựu Đại Hạnh Nguyện Phổ Hiền là thành tựu thế giới Hoa Nghiêm:

“Mười phương tất cả Bồ-tát và quyến thuộc đều từ trong hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát mà sanh…” (Phẩm Nhập Pháp Giới).

Cũng đoạn bắt đầu của phẩm Nhập Pháp Giới, Bồ-tát Phổ Hiền nói kệ:

Ức cõi vi trần số
Bồ-tát biển công đức
Đều từ trong hội khởi
Đầy khắp mười phương cõi
Đều trụ hạnh Phổ Hiền
Đều đi biển pháp giới
Hiện khắp tất cả cõi
Đồng nhập hội chư Phật.
Bồ-tát chỗ tu hành
Khắp rõ biển pháp hạnh
Vào nơi biển đại nguyện
Trụ cảnh giới của Phật
Thấu rõ hạnh Phổ Hiền
Xuất sanh các Phật pháp
Đủ biển công đức Phật…

Hạnh nguyện Phổ Hiền trùm khắp pháp giới được ví với biển và cũng chính biển được đồng hóa với pháp giới Hoa Nghiêm. Hạnh nguyện Phổ Hiền chính là pháp giới sự sự vô ngại Hoa Nghiêm, và pháp giới Hoa Nghiêm chính là hạnh nguyện Phổ Hiền.

Biển là tánh Không, nhưng tánh Không không phải là không có gì. Biển có tất cả sắc tượng, tất cả cảnh giới trùng trùng nhiếp nhập. Pháp giới Chân Không Diệu Hữu này được nói trong kinh là Hải Ấn tam muội. Kinh Hoa Nghiêmnói nhiều đến biển: biển đại nguyện, biển đại bi, biển đại trí, biển công đức… đó cũng chính là biển tâm của chúng ta. Tâm chúng ta nhờ đại nguyện, đại bi, đại trí, đại hạnh, công đức… mà mở rộng ra để nhiếp lấy và nhập vào biển pháp giới Hoa Nghiêm. Phẩm Thập Địanói: “Ba cõi chỉ là Nhất Tâm”.

Toàn bộ kinhHoa Nghiêmnói về hạnh nguyện Phổ Hiền. Thế nên trong từng câu kinh chúng ta có thể tìm thấy cho mình niềm tin và sự hăng hái để thực hành con đường Bồ-tát hạnh của Đại Hạnh Phổ Hiền. Chính qua thực hành hạnh nguyện Phổ Hiền mà pháp giới Hoa Nghiêm dần dần hiển lộ ra với chúng ta.

Thực hành hạnh nguyện Phổ Hiền là chuyển hóa cuộc đời của chúng ta vào trong pháp giới Hoa Nghiêm. Tất cả mọi mắt thấy tai nghe làm việc nghỉ ngơi vui buồn đều tương ưng và nằm trong toàn bộ Phật pháp. Thực hành Hoa Nghiêm là tin rằng chúng ta đang sống trong một vũ trụ chính là ba thân của Phật Tỳ Lô Giá Na và mọi hoạt động của chúng ta không thể nào ngoài pháp giới Ba Thân Phật ấy.

Sống trong Phật Tỳ Lô Giá Na là thế nào? Tất cả những gì thấy nghe hay biết (sắc thanh hương vị xúc pháp) đều là Hóa thân của Phật Tỳ Lô Giá Na, và Hóa thân ấy (tức là toàn thể vũ trụ này) là đồng nhất với Pháp thân tánh Không của Phật Tỳ Lô Giá Na. Sắc (Hóa thân) tức là Không (Pháp thân). Đây là pháp giới Lý Sự vô ngại hay Sắc Không vô ngại, và tiến thêm nữa, hay nói theo thuật ngữ của kinh, thâm nhập thêm nữa, chúng ta đi vào pháp giới Sự Sự vô ngại, tức là pháp giới trùng trùng vô tận.

Văn hóa Phật Giáo số 118

Người đánh máy và gửi bài: Võ Thanh Xuân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/07/2015(Xem: 5845)
Hầu hết các kinh luận Đại thừa đa số đều thuyết minh tổng quát về pháp môn niệm Phật. Trên thực tế hình thành pháp môn Tịnh Độ phổ biến từ tư tưởng các bộ kinh căn bản như Kinh Bát Chu Tam Muội (Ban Châu Tam Muội), Kinh A Di Đà, Kinh Quán Vô Lượng Thọ, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Hoa Nghiêm và Kinh Thủ Lăng Nghiêm và nhiều bộ kinh khác. Pháp niệm Phật đến với quần chúng ước tính khoảng mười tám thế kỷ qua (Tính từ khi Kinh Ban Châu Tam Muội được dịch tại Trung quốc năm 179 s.dl.), và pháp môn Tịnh Độ được hình thành và phát triển thời tổ sư Huệ Viễn (334-416 TL) cho đến ngày nay. Thực tế lịch sử đã chứng minh pháp môn niệm Phật đã đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực truyền bá Phật giáo Đại thừa. Y cứ từ kinh điển liên quan Pháp môn niệm Phật, trên căn bản thì thiền sư Tông Mật (784-841), tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm đã phân thành bốn phương pháp niệm Phật. Đó là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và thật tướng niệm Phật. Từ thời đại Tổ Liên Trì về sau
25/06/2015(Xem: 6016)
Trong Phật pháp có nhiều pháp môn tu học học và hướng đến giác ngộ giải thoát. Giác ngộ là thấy rõ đạo lý duyên khởi của nhân sanh và vũ trụ. Giải thoát có nghĩa là dứt sự khổ đau luân hồi do tâm thức chấp thật ngã và thật pháp tạo vọng nghiệp. Chung quy tu tập theo Phật giáo nhận thức rõ giải thoát là từ tâm này, luân hồi sanh tử cũng do tâm này, vì tâm này là chủ nhân của muôn pháp. Kinh Tâm Địa Quán có dạy: “Tâm sanh thì pháp sanh,
07/05/2015(Xem: 6849)
Các con ơi! Ta vô cùng hoan hỷ đón nhận tất cả các con về thế giới Cực Lạc trang nghiêm thù thắng mà ta đã thiết lập để cho các con trở về tịnh dưỡng. Ta thật yên tâm khi các con về mái nhà chung tình này để được nghe pháp, tu tập mà không bị quấy nhiễu bởi lục trần nhiễm ô của thế giới Ta Bà. Tuy nhiên, các con ạ! Các con thấy đó. Đa số các con đều được hóa sanh ở những phẩm vị thấp, Trung phẩm và Hạ phẩm.
28/04/2015(Xem: 5866)
Người phương Tây và dân trí thức trong thời mạt pháp hầu như không tin pháp môn niệm phật cầu vãng sanh Cực Lạc. Họ không tin vì hai lý do. Thứ nhất họ cho rằng Phật A DI ĐÀ và Tịnh độ Cực Lạc là huyền thuyết. Thứ hai là Kinh sách Đại Thừa Phật Giáo không đáng tin cậy vì thường hiểu lầm là Đại thừa ra đời từ cuộc Tập Kết Kinh điển thứ thứ Tư, hơn 400 năm sau khi Đức Phật nhập niết bàn, cách thời Phật Thích Ca quá xa khiến cho kinh sách đại thừa có phần sai lệch và khó có thể kiểm chứng. Sau đây là những chân lý chứng minh kinh điển đại thừa Phật giáo và Pháp môn niệm Phật nói riêng là hoàn toàn chân thực, không hư dối. Những chân lý này được kiến giải một cách khách quan dựa trên những sự kiện lịch sử Phật giáo và những lời thuyết giảng của Đức Phật ghi lại trong Kinh điển Đại thừa xảy ra đúng với những sự kiện lịch sử sau thời Đức Phật và phù hợp với những thành tựu khoa học ngày nay.
28/04/2015(Xem: 6578)
Một đời giáo hóa của Đức Phật Thích Ca được khái quát hóa trong ngũ thời bát giáo mà theo ngài Trí Giả, Tổ sư sáng lập ra Tông Thiên Thai đã sử dụng ngũ thời để phân định trình tự thuyết pháp của đức Phật; dùng “Bát giáo” để phân biệt pháp môn được thuyết và nghi thức thuyết pháp. Ngũ thời được chia trình tự như sau:
10/03/2015(Xem: 7975)
Trong diễn đàn này nhiều quý bạn hữu đã nói về niệm Phật A-Di-Đà bốn chữ hay sáu chữ. Theo tôi thì chúng ta đã học Mười hạnh Phổ-Hiền thì bình-đẳng kính chung không từ một ai, nhưng tin vào lời người ta nói thì phải có sự quán xét đúng hay sai. Đặc biệt với Phật pháp và giáo lý nhà Phật thì đòi hỏi phải thật nghiêm túc nếu không sai một ly đi vạn dặm, có khi mất hết cả công sức bao nhiêu năm tu hành bỏ ra mà không thành tựu, thậm chí còn sa hố là phỉ báng chính pháp, phát đi những điều không đúng về giáo lý của Phật.
23/01/2015(Xem: 7099)
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó, đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
23/01/2015(Xem: 6381)
Trong sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường thể hiện và vận dụng trăm pháp rất thực tế, nó là tổng hợp nội dung của hiện tượng tâm lý, những yếu tố cơ bản nhất vốn có trong con người, cũng do đây mà chúng ta có thể biết điều này và biết được điều khác. Chúng ta vì người mà ứng xử, hay hóa độ chúng sanh mà không hiểu hiện tượng tâm lý con người thì rất chướng ngại. Một trăm pháp này bao gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, lộ trình tu học từ địa vị phàm phu đến quả vị thánh, là nền tảng cơ bản của người học Phật, cho nên mọi người cần phải học môn này.
23/01/2015(Xem: 7176)
Chúng ta nghiên cứu xuyên suốt tư tưởng Phật học nhận thức được rằng, có hai pháp môn cần phải tham cứu trước. Một là “Luật Tông” là căn bản nhất của tất cả các pháp môn. Các tông phái Phật học rất nhiều do giới luật mà tồn tại. Khi Đức Phật sắp nhập diệt, đã từng phó chúc cho A Nan rằng: “Sau khi Thế Tôn nhập diệt, các thầy hãy lấy giới luật làm thầy, nương vào giới luật mà tu hành để được giải thoát giác ngộ”. Đây là vấn đề Phật học thường đề cập, đó là điều chắc thật không cần biện giải nhiều lời. Hai là “Duy Thức”, thông đạt tất cả nguyên lý các pháp. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Tâm như người thợ vẽ,
23/01/2015(Xem: 6039)
Bản văn này giới thiệu ý nghĩa căn bản của Thiền và niệm Phật, luận thuật quan niệm các học giả Phật giáo đối với sự phát triển tư tưởng Thiền tông và Niệm Phật. Từ trên khái niệm đến triển khai rõ ý nghĩa và nội dung vô cùng phong phú của Thiền và niệm Phật, đặc biệt chú trọng về phương diện lịch sử từ sau thời đại nhà Tùy để trình bày mối quan hệ về Thiền tông và niệm Phật. Ở đây tóm lược hệ thống ý nghĩa quá trình diễn biến về Thiền và niệm Phật trong mối quan hệ mang tính đặc trưng theo từng giai đoạn. Sau cùng, luận văn từ trong diễn biến lịch sử của Thiền và niệm Phật để đưa đến kết luận xu thế dung hợp giữa Thiền và Tịnh độ theo hướng đi của Phật giáo Trung quốc. Căn cứ hiện thực của lịch sử Phật giáo và đưa đến nhận định rằng: Từ sau thời Tống thì Thiền Tịnh song tu là phương pháp mô phạm căn bản của sự tu trì Phật giáo Trung quốc. Tin chắc rằng, trong tương lai Phật giáo Trung quốc vẫn duy trì năng lực truyền thống Phật pháp vốn có của chính mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567