Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tánh Không Và Hoa Nghiêm

18/01/201104:53(Xem: 2819)
Tánh Không Và Hoa Nghiêm
TÁNH KHÔNG và HOA NGHIÊM
Nguyễn Thế Đăng

1. Trùng trùng duyên khởi

Thế giới đang hiện hữu trước mặt chúng ta đây là do duyên khởi, hay duyên sanh, nghĩa là do nhiều nhân duyên hợp lại mà có mặt. Một vật trước mặt chúng ta hiện giờ là do nhiều yếu tố mà có mặt: năng lượng, những hạt, bốn lực, tốc độ, nhiệt độ, trường không-thời gian… và tất cả những tương tác với chung quanh. Đó là chưa kể đến sự sống và ý thức tác động lên nó như thế nào.

Tất cả mọi cái hiện hữu đều do nhiều duyên mà sanh ra. Điều này được Phật giáo khái quát:

Khi cái này có mặt thì cái kia có mặt.
Khi cái này không có mặt thì cái kia không có mặt.
Do cái này sanh nên cái kia sanh.
Do cái này diệt nên cái kia diệt.
(Kinh Phật Tự Thuyết, Tiểu Bộ)

Đó là cái thấy biết nguyên lý duyên sanh. Cái này và cái kia tương thuộc. Sự sanh, trụ, dị, diệt của cái này ảnh hưởng, tương tác với sự sanh, trụ, dị, diệt của cái khác, và do đó, của nhiều cái khác.

Mở rộng cái nhìn ra tầm mức thế giới và vũ trụ chúng ta sẽ thấy ngay: Cái này có mặt vì tất cả những cái kia có mặt. Cái này sanh vì tất cả những cái kia sanh. Cái này như thế này vì tất cả những cái kia như thế kia. Cái này biến đổi như thế này vì tất cả những cái kia đang biến đổi như thế kia. Một sự sanh diệt, biến đổi của một cái ảnh hưởng, tương tác đến tất cả những cái khác. Đó là cái nhìn trùng trùng duyên khởi: Một cái được duyên khởi khi tất cả mọi cái đang duyên khởi. Tất cả duyên khởi khi một cái được duyên khởi. Và luôn luôn như vậy trong mỗi khoảnh khắc.

Tôi có mặt ở đây vì có cha mẹ tôi, vì có đất nước Việt Nam này; nếu không có đất nước Việt Nam, tôi đã là một người nước khác, nói tiếng khác, suy nghĩ khác. Tôi có mặt ở đây vì đất ở đây không chìm dưới mặt nước biển, vì mặt trời tỏa xuống trái đất một nhiệt độ dao động vừa phải như vậy, vì mặt trăng ở khoảng cách như vậy. Những ngày trăng sáng tôi tỉnh táo hơn, những ngày mặt trời có những vết đen (bão từ) tôi bồn chồn hơn. Một ngôi sao nào ở đằng kia vũ trụ vừa mới nổ tung hay vừa mới hình thành chắc cũng có ảnh hưởng đến tôi dù tôi không thể biết bằng ý thức thường trực loạn động của tôi. Tôi ở đây, trong thời toàn cầu hóa, nên ít nhiều gì thì tôi cũng là một cá nhân được toàn cầu hóa. Ít nhất, trong phạm vi trái đất này, thân khẩu ý của tôi đã được tạo thành bởi và đang tương tác với thân khẩu ý với mọi loài có sự sống hay không có sự sống trên trái đất. Nói thẳng ra, thân tâm của tôi được tạo thành bằng tất cả thế giới này, bằng tất cả chúng sanh hữu tình trong thế giới này.

Sự dung thông của tôi, dù tôi có biết hay không, với toàn bộ vũ trụ, đó là “đại từ, đại bi”, nói theo ngôn ngữ Phật giáo. Và cái thấy trùng trùng duyên khởi “tôi có mặt vì tất cả mọi cái kia đang có mặt”, chính là “trí huệ”.

Nói bằng ngôn ngữ Hoa Nghiêm, “Một là tất cả, tất cả là một”. Đó là trí huệ và từ bi của Phật giáo.

Cũng chính bởi cái nhìn trùng trùng duyên khởi này, nên Phật giáo nói là vũ trụ vô thủy vô chung, không cần phải có mặt Thượng đế nào ở trước và ở ngoài để tạo ra và điều khiển vũ trụ.

2. Tánh Không là nền tảng của pháp giới Hoa Nghiêm

Từ cái nhìn duyên khởi, duyên sanh này, Phật giáo nói đến tánh Không. Theo một nghĩa gần gũi nhất với duyên khởi, thì tánh Không là vô tự tánh: vì mọi sự đều duyên khởi, nên mọi sự đều không có tự tánh riêng của chúng. Tánh Không là “bản thể học”, hay “hữu thể học” của Phật giáo. Tánh Không là nền tảng cho thế giới Hoa Nghiêm xuất hiện, cho sự thấy được Đức Phật vũ trụ Tỳ Lô Giá Na (Lô Xá Na, Vairocana):

Kẻ vô trí mê lầm
Vọng chấp tướng năm uẩn
Chẳng biết chân tánh kia
Người này chẳng thấy Phật
Rõ biết tất cả pháp
Đều không có tự tánh
Hiểu pháp tánh như vậy
Tức thấy Lô Xá Na.
(Phẩm Tu Di Đảnh Kệ Tán)

Tánh Không là nền tảng cho mọi thế giới, kể cả thế giới sự sự vô ngại vi diệu của kinh Hoa Nghiêm.

Tánh Không thì ở khắp mọi thời gian mọi không gian. Vì ở đâu có cái gì đó (sắc thọ tưởng hành thức, mười tám giới, bốn đại…) thì cái đó là vô tự tánh nên ở đó là tánh Không. Tánh Không thì dung thông vô ngại với chính nó và với tất cả mọi sự vật. Cũng chính vì mỗi sự vật là tánh Không nên mỗi sự vật đều dung thông vô ngại với nhau.

Ở đây chúng ta chỉ chú ý về sắc (sự vật, có thể số ít hoặc số nhiều). Kinh Đại Bát Nhãnói: “Sắc là vô lậu chẳng trói buộc vì là tánh Không vậy” (Phẩm Đoạn Chư Kiến).

Vì sắc vô tự tánh nên sắc là vô biên: “Sắc như hư không, thọ tưởng hành thức như hư không. Như hư không, biên bờ và trung gian đều bất khả đắc… Do nhân duyên này nên vì sắc vô biên mà biết Bồ-tát cũng vô biên (Phẩm Thập Vô). “Sắc là vô lượng vô biên, chúng sanh cũng vô biên (Phẩm Tán Hoa).

“Sắc là vô tận” (Phẩm Chúc Lụy). “Sắc cho đến mười hai duyên khởi (từ vô minh cho đến lão tử) đều là Không, bất khả tận” (Phẩm Bất Khả Tận).

Sắc là tướng vô ngại: “Trong tất cả pháp, tướng của chúng là vô ngại, Bồ-tát phải học, phải biết như vậy” (Phẩm Nghĩa Cú). “Sắc là chẳng chướng ngại, thọ tưởng hành thức là chẳng chướng ngại, cho đến nhất thiết chủng trí là chẳng chướng ngại” (Phẩm Vô Tác).

Mỗi sắc là tánh Không, nên nó có những tính chất của tánh Không: “vô biên, vô lượng, vô tận, vô ngại”. Mỗi sắc là “vô biên, vô lượng, vô tận, vô ngại” cho nên mỗi sắc tương thông, tương dung, tương nhập, tương nhiếp với tất cả các sắc.

Một sắc là “vô biên”, không biên bờ, nên trong một sắc có mặt tất cả các sắc khác. Một sắc là “vô lượng”, nên một sắc chứa tất cả các sắc khác. Một sắc là “vô tận” nên trong một sắc bao gồm tất cả mọi cái hữu tận khác, tất cả thời gian và không gian (hữu tận). Một sắc là vô ngại, nên nó tương thông, tương nhiếp, tương nhập mọi sắc khác.

Khi một sắc là vô biên, vô lượng, vô tận và vô ngại, nó tương tức tương nhập, tương dung tương nhiếp với tất cả các sắc, tạo nên thế giới sự sự vô ngại. Quán thấy được sự vô ngại tương tác lẫn nhau của các pháp như thế, chúng ta bắt đầu bước vào thế giới sự sự vô ngại, thế giới trùng trùng vô tận của Hoa Nghiêm.

Chính nhờ tánh Không, tánh Không một cách rốt ráo, mà thế giới trùng trùng duyên khởi được chứng nghiệm là thế giới sự sự vô ngại, trùng trùng vô tận. Từ thế giới trùng trùng duyên khởi nhờ thấy được tánh Không ở mức độ rất sâu mà chúng ta thấy được thế giới sự sự vô ngại:

Một là tất cả, tất cả là một

Một trong tất cả, tất cả trong một.

Một gồm tất cả trong mình, tương dung tương nhập với tất cả.

Tất cả trong tất cả và tương dung tương nhập với tất cả.

Chính nhờ sự dung thông vô ngại, tương tức tương nhập mà người thể nhập Hoa Nghiêm sống được cái Hiện Tại Vĩnh Cửu chân thật nhất và cao tột nhất, một Hiện Tại Vĩnh Cửu đồng thời và đồng hiện, tương tức và tương nhập trùng trùng vô tận.

Vũ trụ đồng thời và đồng hiện trùng trùng vô tận này, nói theo thuật ngữ của kinhHoa Nghiêm, tức là Pháp thân, Báo thân và Hóa thân của Phật Tỳ Lô Giá Na (Đại Nhật Biến Chiếuhay Quang Minh Biến Chiếu) trùng trùng tương dung tương nhiếp, tức là thế giới sự sự vô ngại của Hoa Nghiêm. Thế giới đó là cực điểm của Chân Không Diệu Hữu của Phật giáo Đại thừa: có mà vẫn giải thoát, giải thoát mà vẫn có.

Để minh họa phần nào cho sự kiện sự vô ngại với sự, cái nhỏ nhiếp nhập với cái lớn một cách vô ngại, khá nhiều học giả Đông và Tây đã trưng dẫn bài thơ của William Blake (1757 – 1827):

Thấy

Thấy một thế giới trong một hạt cát
Và một thiên đàng trong một hoa dại
Nắm giữ vô tận trong lòng bàn tay
Và vĩnh cửu trong một giờ cuộc sống.


Ở đây chúng ta trích thêm một bài kệ của Thiền sư Khánh Hỷ (1066 – 1142) đời Lý nói về thế giới sự sự vô ngại của Hoa Nghiêm:

Uổng đời thôi hỏi sắc cùng không
Học đạo gì hơn hỏi Tổ tông
Ngoài cõi tìm tâm không định thể
Nhân gian trồng quế há thành rừng?
Đầu lông thấy rõ càn khôn thảy
Hạt cát bao hàm nhật nguyệt trong
Đại dụng giữa đời tay nắm chặt
Ai hay phàm thánh với tây đông?

3. Đi vào pháp giới Hoa Nghiêm

Khi tâm ta bám trụ vào một cái gì, thì cái đó, tâm đó liền biến thành vật, thành sắc. Khi tâm không bám trụ vào một cái gì, tâm mở ra, bao trùm cái toàn thể, khi ấy tâm bắt đầu là tánh Không. Khi dịch từ tiếng Phạn và Tây Tạng, dưới ảnh hưởng của Hiện tượng luận Husserl – cùng là người Đức như ông – Herbert V. Guenther đã dịch tánh Không là the openess (sự mở ra, sự rỗng rang). Sau đó đã có một số người dịch theo như vậy. Đây là một nghĩa của tánh Không mà chúng ta có thể tham khảo. Không trụ, không có chỗ trụ (vô trụ, vô sở trụ) là một ý nghĩa của tánh Không, như được nói nhiều trong kinh Kim Cương.

Sắc vô tận khi tâm vô tận; sắc vô ngại khi tâm vô ngại. Để có thể đi vào thế giới vô biên vô lượng vô tận vô ngại của tất cả các pháp thì tâm chúng ta phải càng lúc càng mở ra để trở nên vô biên vô lượng vô tận vô ngại. Công việc này là sự thực hành chuyển hóa tâm thức, phá bỏ những chướng ngại chấp ngã chấp pháp; người xưa nói là sự tan băng: băng biến thành nước. Tùy theo mức độ tan băng của tâm thức mà chúng ta thấy được những mức độ sâu rộng của thế giới Hoa Nghiêm.

Đại thừa nói chung là sự tích tập công đức và trí tuệ. KinhĐại Bát Nhãnói trong phẩm Tam Thán: “Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh”. Tịnh Phật quốc độ là trí huệ, thành tựu chúng sanh là công đức. Đây là con đường Bồ-tát hạnh.

Như kinhHoa Nghiêmdiễn tả, con đường chứng ngộ cảnh giới rốt ráo của kinh là con đường của hạnh nguyện Phổ Hiền. Thành tựu Đại Hạnh Nguyện Phổ Hiền là thành tựu thế giới Hoa Nghiêm:

“Mười phương tất cả Bồ-tát và quyến thuộc đều từ trong hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát mà sanh…” (Phẩm Nhập Pháp Giới).

Cũng đoạn bắt đầu của phẩm Nhập Pháp Giới, Bồ-tát Phổ Hiền nói kệ:

Ức cõi vi trần số
Bồ-tát biển công đức
Đều từ trong hội khởi
Đầy khắp mười phương cõi
Đều trụ hạnh Phổ Hiền
Đều đi biển pháp giới
Hiện khắp tất cả cõi
Đồng nhập hội chư Phật.
Bồ-tát chỗ tu hành
Khắp rõ biển pháp hạnh
Vào nơi biển đại nguyện
Trụ cảnh giới của Phật
Thấu rõ hạnh Phổ Hiền
Xuất sanh các Phật pháp
Đủ biển công đức Phật…

Hạnh nguyện Phổ Hiền trùm khắp pháp giới được ví với biển và cũng chính biển được đồng hóa với pháp giới Hoa Nghiêm. Hạnh nguyện Phổ Hiền chính là pháp giới sự sự vô ngại Hoa Nghiêm, và pháp giới Hoa Nghiêm chính là hạnh nguyện Phổ Hiền.

Biển là tánh Không, nhưng tánh Không không phải là không có gì. Biển có tất cả sắc tượng, tất cả cảnh giới trùng trùng nhiếp nhập. Pháp giới Chân Không Diệu Hữu này được nói trong kinh là Hải Ấn tam muội. Kinh Hoa Nghiêmnói nhiều đến biển: biển đại nguyện, biển đại bi, biển đại trí, biển công đức… đó cũng chính là biển tâm của chúng ta. Tâm chúng ta nhờ đại nguyện, đại bi, đại trí, đại hạnh, công đức… mà mở rộng ra để nhiếp lấy và nhập vào biển pháp giới Hoa Nghiêm. Phẩm Thập Địanói: “Ba cõi chỉ là Nhất Tâm”.

Toàn bộ kinhHoa Nghiêmnói về hạnh nguyện Phổ Hiền. Thế nên trong từng câu kinh chúng ta có thể tìm thấy cho mình niềm tin và sự hăng hái để thực hành con đường Bồ-tát hạnh của Đại Hạnh Phổ Hiền. Chính qua thực hành hạnh nguyện Phổ Hiền mà pháp giới Hoa Nghiêm dần dần hiển lộ ra với chúng ta.

Thực hành hạnh nguyện Phổ Hiền là chuyển hóa cuộc đời của chúng ta vào trong pháp giới Hoa Nghiêm. Tất cả mọi mắt thấy tai nghe làm việc nghỉ ngơi vui buồn đều tương ưng và nằm trong toàn bộ Phật pháp. Thực hành Hoa Nghiêm là tin rằng chúng ta đang sống trong một vũ trụ chính là ba thân của Phật Tỳ Lô Giá Na và mọi hoạt động của chúng ta không thể nào ngoài pháp giới Ba Thân Phật ấy.

Sống trong Phật Tỳ Lô Giá Na là thế nào? Tất cả những gì thấy nghe hay biết (sắc thanh hương vị xúc pháp) đều là Hóa thân của Phật Tỳ Lô Giá Na, và Hóa thân ấy (tức là toàn thể vũ trụ này) là đồng nhất với Pháp thân tánh Không của Phật Tỳ Lô Giá Na. Sắc (Hóa thân) tức là Không (Pháp thân). Đây là pháp giới Lý Sự vô ngại hay Sắc Không vô ngại, và tiến thêm nữa, hay nói theo thuật ngữ của kinh, thâm nhập thêm nữa, chúng ta đi vào pháp giới Sự Sự vô ngại, tức là pháp giới trùng trùng vô tận.

Văn hóa Phật Giáo số 118

Người đánh máy và gửi bài: Võ Thanh Xuân

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/05/2022(Xem: 2799)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản, và niệm Phật là con đường nhanh nhất để thoát khỏi vòng luân hồi đau khổ của cõi Ta Bà. Thường thì bắt đầu vào tuổi thu đông nhiều người mới tập trung tinh thần vào Niệm Phật. Có người thường cho rằng pháp môn Tịnh Độ chỉ mới bắt đầu khi có kiết tập kinh điển lần thứ 3, 4 và về sau này khi Đại Thừa phát triển mạnh.
05/12/2021(Xem: 4949)
Chấp hai tay cúi đầu miệng niệm Phật A Di Đà chào chúc thật cao sâu Khỏe sáng suốt cùng chân lý nhiệm mầu Được trường thọ thăng hoa trong cuộc sống… Sống trong một thế giới vô thường biến đỗi, với đầy sự nhiễu nhương, tang thương, chết chóc, do thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, xảy ra trước mắt hằng ngày, gây lắm khổ đau, điển hình như Covid-19 (với đầy ác khí) như hiện nay, cũng khiến cho nhiều người lo sợ, khủng hoảng và thức tĩnh. Thấy rõ được rằng, mọi cơ sở vật chất, với nhiều năm đầu tư xây dựng, chỉ một cơn động đất, sóng thần hay bão lửa, lũ lụt nổi lên, sẽ tan tành theo mây khói. Một đời người với biết bao nhiêu lo toan, tính toán, hy vọng, ước mơ, một cơn đại dịch xảy ra, đành âm thầm ra đi trong tức tưởi, không một người thân đưa tiễn, tất cả tài sản bao năm gầy dựng, phải bỏ lại, không mang theo được gì!
30/11/2021(Xem: 4098)
Người Phật tử chân chánh hiểu rằng Chân Lý Tuyệt Đối là không thể nghĩ bàn. Tất cả các pháp môn đều chỉ là phương tiện giúp ta đạt tới cái không nghĩ bàn đó. Trong khi tu hành, ta có thể chọn vào cửa Hữu (Tịnh độ) hay vào cửa Không (Thiền), tùy căn cơ và sở thích. Nếu ai cố chấp pháp mình là đúng, chê bai người khác sai – là chứng tỏ mình chưa hiểu chân lý là thứ gì. Vả lại, thuốc không có quí tiện: thuốc trị được bịnh là thuốc hay. Đại khái, Thiền là pháp môn cao thượng và thẳng tắt dành cho bậc Thượng căn, trong khi Tịnh độ dễ hiểu dễ hành và dễ chứng, cho nên cả Ba căn đều có thể tu được. Đức Bổn Sư Thích-Ca giảng pháp nầy chủ ý nhằm cứu độ chúng sanh thời Mạt pháp. Như trong kinh Đại Tập, Ngài nói: “Thời Mạt pháp, ức ức người tu hành ít có kẻ nào đắc đạo, chỉ nương nhờ pháp môn Tịnh độ mà thoát khỏi luân hồì.” Cho nên thời nầy người tu Tịnh độ thành công được vãng sanh vô số (có thoại chứng rành rành), trong khi Thiền sư đắc đạo (như khi xưa) có thể nói rất hiếm, đếm
05/11/2021(Xem: 11387)
Đại sư Ấn Quang nói: “Kẻ câu nệ vào Tích môn thì bảo: “Trong tất cả pháp, mỗi pháp đều sai khác”. Kẻ khéo nhìn sẽ nói: “Trong tất cả pháp, pháp pháp đều viên thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào thời vào cửa ấy. Cửa tuy khác nhau, nhưng đều đưa vào một thành chẳng khác. Nếu biết ý này thì chẳng phải chỉ có những giáo lý rất sâu do chư Phật, chư Tổ đã nói mới là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh, mà hết thảy Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Đại v.v... trong khắp thế gian cũng đều là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm kiến tánh! Mỗi một pháp cũng chính là chân, là bổn, là tâm, là tánh!”. Tập Lời Vàng (Gia Ngôn Lục) dù là toát yếu nhưng với một kẻ hậu học như tôi thì lại tự thấy mỗi mỗi câu nói của Đại Sư Ấn Quang đều bao hàm ý pháp, chỗ nào cũng cần phải học, chẳng thể đọc lướt qua nên phải dịch thuật đến ngàn ngàn câu kệ, hầu mong chuyển đạt lời lời ân cần tha thiết của Đại sư; chỉ để lại phần nói về các chính biến tại Trung Hoa, và những câu nói lập lại từ các bài giảng của Đại sư q
20/10/2021(Xem: 5103)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ” (Trung Bộ Kinh, 52 Kinh Bát Thành). Kinh văn quá súc tích về sơ thiền như vậy khó có thể thấm thấu được thâm ý của Thế Tôn, tạo ra nhiều kiến giải của các bút giả, hành giả, học giả vv, khiến quý Phật tử hoang mang. Sau đây là một trong những kiến giải của một hành giả được một đạo hữu chuyển cho Tâm Tịnh về sơ thiền: Hai bài kinh: Kinh Sa Môn Quả và Tiểu Kinh Dụ Lõi Cây, Phật dạy: “Tỳ kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh vời tầm với tứ (có giác có quán). Muốn đạt được cảnh giới này vị này phải ly dục nơi các căn, tức là thanh lọc nhiễm ô nơi các căn. Để ly dục, vị này học hạnh viễn ly, hạnh Tỷ kheo (hạnh xuất gia) theo lời dạy trong kinh: “Ở đây có người vì lòng tin xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình
03/09/2021(Xem: 30633)
(Thắp đèn đốt hương trầm xong, đứng ngay ngắn chắp tay để ngang ngực mật niệm) 1. TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN NGÔN: Án, lam xóa ha. (3 lần) 2. TỊNH KHẨU NGHIỆP CHƠN NGÔN: Tu rị, Tu rị, Ma ha tu rị, Tu tu rị, Ta bà ha. (3 lần) 3. TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN Án, Ta phạ bà phạ thuật đà ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần) 4. PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN NGÔN: Án, Nga nga nẵng tam bà, phạ phiệt nhựt ra hồng (3 lần) 5. AN THỔ ĐỊA CHƠN NGÔN: Nam mô tam mãn đa một đà nẫm, Án, độ rô độ rô, địa vỷ ta bà ha (3 lần) Hộ pháp, Vĩ Đà thị chứng minh Thân trụ Phật tiền Tâm Tư nguyện Tưởng bằng bí chú đắc oan linh Hà chơn bất thức trì niệm Luật Thiên kinh vạn quyển vô nhất tự Nẳng mô tô tất đế, đa rị, đa rị, mạn đà, mạn đà, ta bà ha (3 lần)
03/09/2021(Xem: 8788)
Pháp hành Trì để vượt thoát Đại Nạn Covid-19
03/09/2021(Xem: 8361)
5.1). Đệ tử tên là: Một lòng quy kính Đức Phật A Di Đà, Thế giới Cực Lạc, Nguyện lấy hào quang, Trong sạch soi cho, Lấy thệ từ bi, Mà nhiếp thọ cho, Con nay chánh niệm, Niệm hiệu Như Lai, Vì đạo Bồ Đề, Cầu sanh Tịnh Độ. Phật xưa có thệ: “Nếu có chúng sinh, Muốn sinh về nước ta, Hết lòng tín nguyện, Cho đến mười niệm, Nếu chẳng đặng sinh, Chẳng thành Chánh Giác”. Do vì nhân duyên, Niệm hiệu Phật nầy, Được vào trong bể, Đại thệ Như Lai, Nhờ sức Từ Bi, Các tội tiêu diệt, Căn lành tăng trưởng, Khi mạng gần chung, Biết trước giờ chết, Thân không bệnh khổ, Tâm không tham luyến, Ý không điên đảo, Như vào Thiền định. Phật và Thánh Chúng, Tay nâng kim đài, Cùng đến tiếp dẫn, Trong khoảng một niệm, Sinh về Cực Lạc, Sen nở thấy Phật, Liền nghe Phật thừa, Chóng mở Phật tuệ, Khắp độ chúng sanh, Trọn Bồ Đề nguyện.
01/08/2021(Xem: 9828)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
30/08/2020(Xem: 5685)
Ngày xưa, sau khi Đức Phật chứng Đạo, tại sao Ngài không mở trường Thiền để có thể dạy hàng ngàn, hàng vạn người cùng một lúc? Ngược lại, Ngài chỉ vân du từ nơi này sang nơi khác, tùy căn cơ khai thị cho những người hữu duyên Ngài gặp trên đường? Đơn giản vì trình độ, hoàn cảnh và cơ địa mỗi người một khác, nên đức Phật ngay nơi mỗi người khai thị pháp mà người đó đang trải nghiệm, và vì vậy chỉ người đó mới thật sự biết đức Phật đang chỉ dạy điều gì, người khác có nghe hay đọc lại kinh điển tường thuật thì cũng chỉ để tham khảo hay suy luận mà thôi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567