Phật Đà Bạt Đà La
● 佛馱跋陀羅 (S: Buddhabhadra): (359-429) cao tăng Ấn Độ, sống vào thế kỉ V, người ở thành Na-ha-lợi, họ Thích, là con cháu của vua Cam Lộ Phạn ở thành Ca-tì-la-vệ, người đời gọi là Thiên Trúc thiền sư.
Tàu dịch là Giác Hiền, người nước Ca Duy La Vệ (thuộc nước Nepal), vốn là hậu duệ của dòng Thích Ca Cam Lộ Phạn Vương, sinh vào năm 359. Do nội tổ là Đạt Ma Đề Bà (Tàu dịch là Giác Thiên) thường sang bắc Thiên Trúc buôn bán, nên gia đình di cư đến trú tại nước Ca Duy La Vệ. Năm ba tuổi, thân phụ qua đời, rồi năm năm tuổi thân mẫu cũng tạ thế. Do đó, Ngài được gia đình người chú nuôi dưỡng. Sa môn Tổ Cưu Bà Lợi biết ngài Phật Đà Bạt Đà La rất mực thông minh mẫn tiệp, nên xin người chú cho Ngài xuất gia làm sa di. Đến năm mười bảy tuổi, công khóa hằng ngày của Ngài là học thuộc kinh kệ. Những bài kinh kệ mà đồng học phải học trong một tháng, đối với Ngài chỉ cần một ngày là học thuộc.
Thọ giới cụ túc xong, Ngài lại càng tinh tấn tu hành thiền định cùng giới luật, và học rộng thông đạt các kinh điển. Ngài cùng với sa môn Tăng Già Đạt Đa sang du học tại nước Kế Tân. Tuy là đồng lứa tuổi, sa môn Tăng Già Đạt Đa lại rất kính phục tài năng xuất chúng của Ngài, nhưng không biết Ngài đã đạt đến cảnh giới nào. Lần nọ, đang đóng cửa nhập thất ngồi thiền, Tăng Già Đạt Đa chợt thấy Ngài đến, rồi bèn hỏi rằng từ đâu đến. Ngài đáp:
- Tôi vừa lên cung trời Đâu Suất lễ bái Bồ Tát Di Lặc rồi trở lại nơi đây.
Nói xong, ngài Phật Đà Bạt Đà La liền biến mất. Sa môn Tăng Già Đạt Đa mới biết rằng Phật Đà Bạt Đà La là thánh nhân hóa thân, nên không thể nào biết được cảnh giới của Ngài. Sau này, vì thường thấy những hành tung thần dị của Ngài, nên Tăng Già Đạt Đa hỏi ra thì biết là Ngài đã chứng đến quả vị A La Hán 'Bất Hoàn' (tức quả A Na Hàm).
Ngài thường thích đi chu du khắp nơi để hoẵng dương đạo pháp
Khi đến Thanh Châu, phía đông Lai Quận ở Trung Thổ. Nghe tin ngài Cưu Ma La Thập đã đến Trường An, Ngài bèn tức tốc đến đó bái kiến. Vừa gặp được ngài Phật Đà Bạt Đà La, ngài Cưu Ma La Thập rất vui mừng, rồi cùng nhau đàm luận. Ngài Phật Đà Bạt Đà La hỏi ngài Cưu Ma La Thập:
- Sự giải thích kinh điển của Ngài chẳng có gì là đặc sắc, mà sao lại thu hút được nhiều người, khiến thanh danh vang lừng khắp chốn ?
Ngài Cưu Ma La Thập đáp:
- Vì họ có duyên sâu dầy với tôi, nên khiến tôi được cung kính. Tuy nhiên, tài đức của tôi, thật chẳng tương xứng với thanh danh đó.
Mỗi khi có chỗ nghi ngờ nào, ngài Cưu Ma La Thập đều cùng với ngài Phật Đà Bạt Đà La thảo luận giải quyết. Tuy vậy, vì sở tu học uyên thâm sâu cạn bất đồng, và tư tưởng của hai ngài Phật Đà Bạt Đà La và ngài Cưu Ma Là Thập khác nhau.
Nhiều năm sau Lưu Dự cũng thỉnh Ngài đến Trường An, cư trú nơi chùa Đạo Tràng. Nghi dung của Ngài chân chánh đoan trực, chẳng đồng với phàm nhân, mà chí nguyện cũng thanh cao. Các pháp sư tại kinh đô thường bảo nhau:
- Thiền sư Phật Đà Bạt Đà La tại chùa Đạo Tràng đã đắc được ý trời, thật giống như một vì vua ở cõi Thiên Trúc.
Sa môn Chi Pháp tại Vu Điền thỉnh được một phần của kinh Hoa Nghiêm có ba mươi ngàn câu kệ, mà chưa được phiên dịch. Đến năm 418, nội sử Ngô Quận Mãnh Tiêu, tả vệ quân Trử Thúc Độ lại cầu thỉnh ngài Phật Đà Bạt Đà La phiên dịch. Cùng với hơn một trăm tăng chúng như Pháp Nghĩa, Huệ Nghĩa, Huệ Nghiêm, v.v... Ngài phiên dịch phần đầu của kinh Hoa Nghiêm tại chùa Đạo Tràng. Bản văn dịch rất lưu loát, đạt thấu yếu chỉ của kinh, nên được mọi người tán thán. Điện đường dịch kinh Hoa Nghiêm tại chùa Đạo Tràng, được gọi là điện đường Hoa Nghiêm, để kỷ niệm cho sự dịch kinh được thành tựu.
Những kinh điển do ngài Phật Đà Bạt Đà La phiên dịch như kinh Quán Phật Tam Muội Hải (6 quyển), kinh Niết Bàn, Tu Hành Phương Tiện Luận, v.v... Tổng cộng có mười lăm bộ, một trăm mười bảy quyển. Tất cả đều tương hợp với yếu chỉ của kinh điển, và lời dịch cũng rất lưu loát rõ ràng.
Năm 429, ngài Phật Đà Bạt Đà La viên tịch, thọ bảy mươi mốt tuổi.