TS Nguyễn Xuân Thu, năm nay 80 tuổi, sinh ra ở vùng đất nghèo khổ bậc nhất của Việt Nam: huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị nơi đất cày lên sỏi đá, lại mồ côi cha lúc 5 tuổi, mồ côi mẹ lúc 13 tuổi. Tứ cố vô thân, cậu thiếu Nguyễn Xuân Thu bỏ làng ra đi, tha phương cầu thực, làm đủ nghề, thế mà cuối cùng với ý chí sắt đá, chịu thương chịu khó ông đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế, đi dạy học, rồi được học bổng du học Hoa Kỳ, đậu tiến sĩ về giáo dục, về nước làm Giám đốc Nha Nghiên cứu Bộ Giáo dục cho đến ngày 30.4.1975.
Nguyễn Xuân Thu bị đưa đi học tập trong các trại cải tạo từ nam ra bắc cho dến tháng 5 năm 1980 thì được trả tự do và hơn một tháng sau, ông vượt biên thành công đến trại tị nạn Songkla, Thái Lan để lại vợ và 5 con ở Sài Gòn.
Trong cuốn hồi ký, Nguyễn Xuân Thu nói trại Songkla là một xã hội thu nhỏ và do những tị hiềm cá nhân, nên đã có những người bị tố cáo là cộng sản hay hoạt động cho chế độ cộng sản với các phái đoàn đến phỏng vấn nên có một số khá lớn bị từ chối đi định cư ở nước thứ ba một cách oan uổng.
Ông viết: “Bản thân tôi cũng bị tố cáo là cộng sản. Không có điều kiện để xác minh, phái đoàn Mỹ dựa vào các đơn tố cáo ấy, từ chối đơn xin tị nạn của tôi dù họ biết tôi đã đi du học và có bằng Thạc sĩ và Tiến sĩ tại Mỹ, công chức cao cấp trong chính phủ VNCH và có thời gian làm đại diện Bộ Giáo dục tại Trung tâm Bình định và Phát triển Trung ương thuộc văn phòng Thủ tướng Chính phủ và làm việc trực tiếp với Ban Cố vấn Mỹ thuộc Văn phòng dưới quyền của Đại sứ Hoa Kỳ William Colby. Bạn bè của tôi tại Mỹ rất phẫn nộ khi nghe tin ấy”.
Nhưng sau hơn một năm rưỡi ở Thái Lan, Nguyễn Xuân Thu đã được nhận vào Úc theo diện nhân đạo, lúc này ông đã 47 tuổi.
Nguyễn Xuân Thu đến Melbourne vào tháng 2 năm 1982, Ngày Nguyễn Xuân Thu đến Melbourne,ông đã bị người tị nạn ở đây “hỏi thăm sức khỏe” vì ông bị tố cáo là cộng sản. Cho nên trong sinh hoạt cộng đồng thời đó, ông bị tẩy chay dù ông thành công trong việc phát triển ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam trong cộng đồng chính mạch.
Giúp RMIT mở đại học tại Việt Nam
Đến Úc chỉ một tuần lễ, Nguyễn Xuân Thu được tuyển chọn vào làm việc cho PIT (Phillip Institute of Technology, năm 1992 sát nhập với Đại học RMIT) để soạn chương trình giảng dạy môn tiếng Việt và văn hóa Việt Nam cho sinh viên ba trường kỹ thuật PIT, FIT (Foostcray Institute of Technology) và MICE (Mercy Institute of Catholic Education).
Ông soạn sách giáo khoa cho học sinh và sau đó cùng với các ông Nguyễn Triệu Đan và một số cựu giáo chức Việt Nam khác vận động đưa môn Việt ngữ vào các lớp 11 và 12 để học sinh chọn làm sinh ngữ thứ hai khi thi tú tài.
Ông cũng là người sáng lập và điều hành tập san Việt học đầu tiên bằng tiếng Anh của người Việt tại Úc, Journal of Vietnamese Studies (1988-1995) và Vietnamese Studies Review (1997-1998).
Nhưng đáng nói nhất là ông đã có công đưa RMIT University (Royal Melbourne Institute of Technology) sang Việt Nam mở một học xá có tên Đại học RMIT Việt Nam.
Năm 1991, khi Việt Nam mở cửa, Nguyễn Xuân Thu trở lại Việt Nam lần đầu trong vòng một tháng để thăm người chị và “vì quá đau lòng trước một Sài Gòn nhộn nhịp năm xưa và một Thành phố Hồ Chí Minh nghèo nàn, đói khổ bây giờ” nên ông nói sau đó không đêm nào ông ngủ ngon giấc.
Con đường dẫn ông trở lại nơi ông đã chạy trốn được ông tâm sự như sau trong cuốn hồi ký:
“Đêm nào cũng nằm trằn trọc, suy nghĩ. Phải làm gì để giúp những người nghèo khó ở Việt Nam? Làm sao để trẻ con Việt Nam có cuộc sống tốt đẹp hơn? Làm cách nào để mọi trẻ em có thể cắp sách đến trường? Từ ngày đó, tôi âm thầm lập một kế hoạch làm việc khác trước đây: 50 phần trăm thì giờ dành cho việc nghiên cứu giảng dạy và các hoạt động văn hóa giáo dục là những việc giúp tôi có đồng lương để sống và 50 phần trăm thì giờ còn lại dùng để tìm kiếm phương tiện để giúp cho những người nghèo khó ở Việt Nam. Là một đứa trẻ mồ côi ngày trước, bây giờ giúp họ là chính giúp con người của tôi ngày xưa. Dĩ nhiên số giờ làm việc gần gấp đôi, khoảng 16 giờ trong 24 giờ mỗi ngày và tốc độ làm việc khẩn trương hơn rất nhiều”.
Từ năm 1991 đến 1994, cùng một số đồng nghiệp, ông lập Quỹ Học bổng Việt Nam (Vietnam Scholarship Foundation) đã cấp phát hàng trăm học bổng cho các học sinh cấp ba và một số sinh viên đại học ở Sài Gòn, Huế và Hà Nội.
Năm 1994, mặc dầu đang là một trong rất hiếm giáo sư thực thụ gốc Việt của một đại học lớn ở Úc như RMIT, ông Nguyễn Xuân Thu đã xin nghỉ việc vào tháng 4 năm 1994 để về làm việc tại Việt Nam mặc dù vợ ông hết sức phản đối. Lý do: ông đã trả xong tiền mua nhà, và tất cả năm đứa con đã tốt nghiệp đại học nên ông có thể dành hết thì giờ thực hiện hoài bão của ông, dùng giáo dục để nâng cao đời sống của người dân Việt Nam.
Ông viết: “Dù mỗi người có cách đánh giá khác nhau về việc tôi về Việt Nam, nhưng riêng tôi, tôi đã làm theo mệnh lệnh con tim của mình. Tôi quá đau đớn không chịu nổi khi thấy cảnh một đất nước Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu, trẻ con đói, rách, bệnh hoạn, bỏ học. Nhớ đến quá khứ mồ côi đói rách của mình, tôi nghĩ mình phải làm một cái gì đó cho những con người kém may mắn ấy. Và muốn làm điều ấy thì tôi phải về Việt Nam. Chỉ có thế thôi. Thế là tôi bỏ tất cả mọi thứ để về Việt Nam với một nửa số tiền hưu tôi lãnh được để sống trong thời gian đầu”.
Nhờ sự quen biết với các nhà giáo dục và quan chức trong Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam, Nguyễn Xuân Thu đã mở được một đầu cầu nối liền giữa giới chức Việt Nam và Đại học RMIT. Sau đó ông được giao làm đại diện RMIT tại Việt Nam, đặt văn phòng ở Hà Nội. Từ đây, hình thành dự án thành lập một đại học quốc tế tại Việt Nam.
Sau sáu năm tiến hành dự án, ngày 20.4.2010 Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp giấy phép cho thành lập Đại học Quốc tế RMIT Việt Nam (chữ Anh: RMIT International University Vietnam). Đây là trường đại học quốc tế đầu tiên được thành lập tại Việt Nam với 100% vốn đầu tư của ngoại quốc có thời gian hoạt động trong 50 năm. Ba thành viên sáng lập là Giáo sư Nguyễn Xuân Thu, Giáo sư viện trưởng RMIT David Beanland và Giáo sư David Wilmoth.
Trở về Úc, Nguyễn Xuân Thu lại tiếp tục làm việc cho Đại học RMIT ở Melbourne với tư cách tư vấn về các vấn đề Việt Nam, và làm việc với các ngân hàng quốc tế để vay tiền xây khuôn viên đại học RMIT Việt Nam tại quận 7, Sài Gòn.
Hiện tại GSTS Nguyễn Xuân Thu hiện giờ đang sống tại Melbourne và ônghiện “homeless”, là kẻ không nhà, ở nhờ con cái hay bạn bè bởi như ông viết trong cuốn hồi ký, khi ly dị ông đã giao hết nhà cửa cho vợ, chỉ mang quần áo và sách vở ra đi. Ông tâm sự trong hồi ký , ông không có nhiều nhu cầu vật chất và hiện sống với tiền hưu trí dành cho người già như mọi người cao niên khác.
Có thể nói ông Nguyễn Xuân Thu nghèo, nhưng rất giàu lòng với tha nhân.
Oong vẫn thường về VN và đang giúp cho ra đời Quỹ học bổng Lương Văn Can và mới giúp làm xong website bằng tiếng Anh và Việt cho quỹ này “để để giúp sinh viên Việt Nam. giúp một số tinh hoa đi du học các nước như Úc, Anh, Mỹ… để sau này họ về nước gíp phát triển đất nước và nhờ thế người dân có một cuộc sống khá hơn”.
Nguyễn Xuân Thu đã đóng góp nhiều cho nền giáo dục Việt Nam, lập học bổng cho sinh viên Úc gốc Việt và sinh viên ở Việt Nam và qua đó đóng góp cho nước Úc, nước Việt Nam như cựu Viện trưởng David Beanland của Đại học RMIT Melbourne nhận xét trong buổi ra mắt hồi ký của ông Nguyễn Xuân Thu.
Nhà văn và nhà giáo Nguyễn Hưng Quốc, trong lời giới thiệu cuốn hồi ký đã viết: “Quen thân với ông đã trên 20 năm, nhưng những lúc nhìn ông tận tụy giúp hết người này đến người khác, bày hết dự án này đến dự án khác, tôi vẫn cứ ngạc nhiên về tầm của cái tâm của ông. Ở đời, rất nhiều người có tâm. Nhưng tâm lớn như Nguyễn Xuân Thu có lẽ là hiếm”.