TT Thích Huệ Đăng
THƯỢNG TOẠ THÍCH HUỆ ĐĂNG HIỆN LÀ ỦY VIÊN BAN HOẰNG PHÁP TRUNG ƯƠNG VÀ LÀ GIẢNG VIÊN HỌC VIỆN PHẬT GIÁO HÀ NỘI.
Thượng tọa Thích Huệ Đăng (Trụ trì chùa Thanh Quang, Đà Lạt) đã mở ra một trung tâm yoga gọi là Buddha yoga , tức yoga kết hợpvới chân lý Phật giáo. Có lẽ đây là nơi duy nhất trên thế giới, trong một lớp tập yoga mà học viên sẽ được nghe một vị cao tăng truyền thụ giáo lý nhà Phật! Và có lẽ đây cũng là lớp yoga duy nhất mà học viên không chỉ được khỏe mà quan trọng hơn là được “giác ngộ”!
Thượng tọa Thích Huệ Đăng, thế danh Nguyễn Văn Sáu, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1940 tại quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Ngài đã được công nhận là Giảng sư Ban Hoằng pháp TW/GHPGVN năm 1999, tốt nghiệp khóa Cao cấp Giảng sư Hoằng pháp TW/GHPGVN năm 2004. Từ năm 2007-2012, là Ủy viên Viện Nghiên cứu Phật học PGVN, từng là Giảng viên cao cấp Chuyên khoa Phật học Học viện Phật giáo Sóc Sơn Hà Nội và Học viện Phật giáo TP. Hồ Chí Minh.
Thượng tọa Thích Huệ Đăng là một nhà tu nhập thế, là một nhà nông dân giỏi, một nhà khoa học, một Đạo sư Yoga và là Kỷ lục gia của Việt Nam. Ngược dòng thời gian, năm 1983, Thượng tọa rời chùa Long Thiền, Đồng Nai để lên Đà Lạt, bắt đầu sự nghiệp với cây địa lan bị người dân địa phương vứt bỏ do không xuất khẩu được. Sau đó tiếp tục mày mò nghiên cứu, dự các khóa học dự thính về phương pháp cấy mô hoa lan tại Đại học Nông Lâm TP.HCM, bảo tồn thành công các loài lan quý tại Việt Nam, đồng thời trồng và bán hoa lan lấy tiền làm Phật sự. Thượng tọa còn là một trong Top 100 doanh nhân tiêu biểu của cả nước từ những năm 2007.
Nhập thế bằng tư tưởng, trí tuệ Phật giáo
Thượng tọa Huệ Đăng cùng cộng sự đã lặn lội vượt rừng già mang cây sâm từ núi Ngọc Linh (Kon Tum) về TP. Đà Lạt (Lâm Đồng) nhân giống bằng phương pháp nuôi cấy mô, trồng thực nghiệm tại một số địa phương. Đến nay, Công ty TNHH Hoa lan Thanh Quang do Thượng tọa Thích Huệ Đăng làm giám đốc đã nhân giống thành công cây sâm quý có khả năng di thực này, tỉ lệ cây sống khá cao. Thượng tọa còn được biết đến là một nhà trồng hoa lan nổi tiếng. Hồi đó là năm 1987, ông lên Đà Lạt lập một tịnh thất nhỏ để tu tập, tự làm để nuôi sống bản thân, quan tâm tới nghề trồng địa lan khi người trồng lan xứ này hầu hết đã bỏ nghề vì thị trường xuất khẩu không còn. Tìm tòi học hỏi về cách trồng hoa, ông bắt đầu trồng và bán hoa lan lấy tiền làm Phật sự từ những năm 1990.
Sau đó, khi tham gia khóa Giảng sư hoằng pháp tại TP.HCM, ông đồng thời dự các khóa học dự thính về phương pháp cấy mô hoa lan tại Đại học Nông Lâm TP.HCM. Sau khi tốt nghiệp Giảng sư Phật học, Thượng tọa trở về Đà Lạt thực nghiệm những kiến thức học được. Dần hình thành 2 cơ sở nghiên cứu bảo tồn các loài lan quý tại Việt Nam và trồng hoa lan tạo công ăn việc làm cho phật tử quanh vùng, xuất khẩu hoa lan ra thị trường thế giới, nhất là Nhật Bản.
Bên cạnh hoa lan, từ năm 2008, ngài lên núi Ngọc Linh tìm cây sâm Ngọc Linh tự nhiên về nghiên cứu nhân giống. Đặc biệt hơn, dù chưa qua bất cứ trường lớp đào tạo nào, nhưng Thầy lại là người nghiên cứu và nhân bản vô tính thành công giống sâm Ngọc Linh - "quốc bảo" của Việt Nam. Công trình này đã được Cục Sở hữu Trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ cấp Bằng sáng chế độc quyền cho “Quy trình trồng cây sâm Ngọc Linh nuôi cấy mô” vào cuối năm 2012, được Ban Tôn giáo Chính phủ tôn vinh Thầy là “Nhà khoa học đầu tiên của Phật Giáo Việt Nam".