329- Hoàng Nguyên Nhuận (1938 – 2016)
Địa chỉ: www.quangduc.comTiểu sử qua bài viết của Quán Như:
Tôi gặp Hoàng Nguyên Nhuận, anh em hay gọi là Anh Giàu, lần đầu tại chùa Ấn Quang sau khi cuộc cách mạng 63 thành công. Đây là lần đầu ban chấp hành hai Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn và Huế gặp nhau. Không khí dĩ nhiên là phấn khởi vì tất cả đang bận rộn tổ chức đại hội Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất lần đầu tiên, kể từ khi vấn đề thống nhất Phật Giáo được đặt ra từ năm 1950. Người quen biết cả hai bên là Tôn Thất Chiểu, đứng ra giới thiệu. Anh Giàu và anh Phan Đình Bính lúc đó là hai người được anh em Sài Gòn ngưỡng mộ nhiều nhất vì thành tích gan lì trong tù. Không hiểu sao tôi vẫn còn nhớ rõ ràng anh mặc áo sơ mi tay ngắn mầu xanh nhạt, ít nói chỉ cười, khi cần phê bình thì giọng nói như đanh đóng cột. Hai ban chấp hành Sài Gòn và Huế đang thảo luận phương thức thống nhất để thành lập Vụ Sinh Viên Phật Tử. Một tháng sau, giáo hội thưởng công cho anh chị em sinh viên Phật Tử Sài Gòn bằng cách tổ chức chuyến viếng thăm Huế. Ra Huế tôi ít khi gặp anh xuất hiện, chỉ gặp các lãnh tụ khác như Vĩnh Kha và Bửu Tôn. Nhưng anh em trong đoàn không ai quan tâm, vì phái đoàn được mấy chị đoàn viên thuộc hai trường Nữ Hộ Sinh và Cán Sự Điều Dưỡng xinh như mộng, dịu dàng như các cành trúc la đà và hấp dẫn hơn bánh bèo Vỹ Dạ, tiếp đón! Không ai buồn nhớ tới Anh Giàu!
Từ năm 1964 đến 1966 Phật Giáo dùng sức mạnh của dân chúng - People Power - trong những cuộc vận động để làm giảm cường độ chiến tranh, trong khi bộ ba McNamara, MacGeorge Bundy và Maxwell Taylor nhất quyết leo thang chiến tranh. Anh em học sinh, thanh niên, sinh viên và Gia Đình Phật Tử dĩ nhiên là đóng một vai trò nồng cốt trong các vụ biểu tình chống Hiến Chương Vũng Tàu vào tháng 8 năm 1964 và Thủ Tướng Hương vào đầu năm 1965. Đây là thời gian mà sinh viên Phật Tử Huế hoạt động hứng khởi nhất, và Anh Giàu "oai" như nhân vật Lý Hoàng Phong trong quyển truyện Bản Tango Cuối Cùng của Lệ Hằng. Hai hoạt động nuôi dưỡng trí thức và nghệ sĩ, con tim và khối óc của phong trào tranh đấu miền Trung, là tờ Lập Trường và Tuyệt Tình Cốc và một sản phẫm thành công nhất làm rung động con tim của nhiều thế hệ là Trịnh Công Sơn.
Tôi chỉ bắt đầu thân cận với Anh Giàu vào năm 1967. Lúc đó nhờ Nguyễn Long, người tổ chức tất cả các cuộc biểu tình chống Khánh, chống Hương và Thiệu-Kỳ ở Sài Gòn Chợ Lớn, giới thiệu với thầy Minh Châu. Thầy xin biệt phái ba giáo chức từ Bộ Giáo Dục về làm việc tại Đại Học Vạn Hạnh, là Long, Đoàn Viết Hoạt và tôi. Long được Thầy Minh Châu thương mến nhất vì gan dạ và thường phải lẫn trốn cảnh sát tại chùa Pháp Hội, tiền thân của Đại Học Vạn Hạnh. Tôi xin được một phòng nhỏ trên lầu ba Trung Tâm Quảng Đức và Anh Giàu và một số sinh viên chạy thoát từ Huế vào như Vĩnh Tùng, Vĩnh Kha, Huỳnh Ngọc Ghênh, Nguyễn Thế Côn, Trần Xuân Kiêm và nhiều anh em khác nữa cũng vào ở lẫn lộn trong cư xá. Sau khi thi hành chiến dịch ba giai đoạn của Rostow, chủ tịch Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ, dưới sự trợ giúp công khai của Cabot Lodge, Kỳ dẹp tan được phong trào tranh đấu miền Trung [1]. Kỳ và Loan cũng cho người ném lựu đạn ám sát Thầy Thiện Minh. Hai người được lệnh ám sát sau đó đến gặp Thầy xin sám hối. Sau khi tạm bình phục và trong khi Thầy Trí Quang đang tuyệt thực 100 ngày, Thầy Thiện Minh nắm vai trò lãnh đạo và là người thực sự chủ động tất cả những chiến thuật chính trị để đối phó với Thiệu-Kỳ. Theo lời thầy Trí Quang trong Tiểu Truyện Tự Ghi, Kỳ lúc đó đang tranh chấp quyền hành với Thiệu để được đại diện quân đội ra tranh cử Tổng Thống, Kỳ có đến gặp các nhà lãnh đạo Phật Giáo nhờ ủng hộ. Kỳ và cảnh sát của Loan biết là các sinh viên trong phong trào tranh đấu miền Trung đến trốn tại Trung Tâm Quảng Đức và tại Đại Học Vạn Hạnh, nhưng Kỳ không dại gì làm ông Ác dưới con mắt Phật Tử.
Thầy Thiện Minh thay đổi chiến thuật, thay vì chống đối trực tiếp chánh quyền, Phật giáo bắt đầu tham dự giới hạn vào các hoạt động chánh trị như đưa người ra tranh cử hạ viện và thượng viện, ủng hộ ứng cử viên hoà bình Trương Đình Dzu trong cuộc bầu cử tổng thống. Nếu Thiệu-Kỳ không gian lận, Dzu đã đắc cử tổng thống [2]. Anh Giàu dĩ nhiên trở thành cánh tay mặt và là một cố vấn của thầy Thiện Minh và chúng tôi thường gọi đùa anh là Ông Cố Vấn. Tôi có mặt trong buổi Dzu đến trình bày về phương thức thực hiện hoà bình để thuyết phục thầy Thiện Minh ủng hộ và Anh Giàu là người đại diện anh em để chất vấn Dzu. Dzu là bạn học, hay là người cùng thời, với các người lãnh đạo trong Mặt Trận và ông cho biết là ông được toà đại sứ Mỹ cam kết bảo vệ an ninh. Có lẽ Mỹ không muốn Thiệu-Kỳ trơ trẽn độc diễn làm mất vết sơn dân chủ lòe bịp đối với các nước khác, nên đưa con bài Trương Đình Dzu và các con bài khác ra tranh cử. Thầy Thiện Minh đồng ý ủng hộ Dzu vì lập trường hoà bình và vì những ứng cử viên khác không đủ tầm vóc lãnh đạo quốc gia.
Người mà Phật Giáo hoàn toàn ủng hộ là Bác Sĩ Phan Huy Quát, nhưng sau khi bị Bùi Diễm phản bội, nhận lịnh Mỹ để tìm cách trao quyền hợp pháp cho quân đội, BS Quát ngán ngẫm nhân tình và nhất quyết giã từ chính trường. Thân phụ của Diễm đã ủy thác cho BS Quát nhờ chăm sóc Diễm và BS Quát xem Diễm như là một đứa con nuôi. BS Quát ngán ngẫm là phải! Tôi và Vĩnh Tùng nhận nhiệm vụ chuyển quyết định ủng hộ Dzu của Giáo Hội cho các quý thầy Chánh Đại Diện tại ba tỉnh Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Khi trình bày lý do tại sao giáo hội lại ủng hộ Dzu, tôi còn nhớ rõ phản ứng của thầy Tâm Hoàn. Thầy nói là dù mới gặp chúng tôi lần đầu, Thầy tin tưởng chúng tôi ngay, không phải chỉ vì cái chứng minh thư của Thầy Huyền Quang cấp, mà vì thái độ tha thiết của chúng tôi khi nói về ước vọng hòa bình. Bình Định là quê hương của Dzu và là đơn vị mà Dzu được số phiếu cao nhất, cho chúng tôi thấy rõ ước vọng và sức mạnh của quần chúng Phật tử. Trong thời gian khó khăn sau khi phong trào tranh đấu Miền Trung bị đàn áp, chúng tôi tìm cách tụ tập và củng cố tinh thần "anh em". Một số cán bộ trung kiên của Phật Giáo sau 1966 không có đường lui nên đã vào khu với Mặt Trận. Trường hợp của Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân ở Huế, và Trần Triệu Luật ở Sài Gòn là những thí dụ điển hình. Một số khác ra đầu thú và đóng vai một thứ hàng thần lơ láo. Một số cán bộ khác bị Thiệu-Kỳ bỏ tù cho đến sau năm 1975 mới được ra tù [3]. Phần đông vẫn còn trung thành với giáo hội, nhưng tinh thần bắt đầu dao động mạnh. Tôi còn nhớ một sinh viên trẻ, anh Vĩnh Lộc, có lần hỏi tôi : "Mình với họ (Mặt Trận) khác nhau ở chỗ nào?". Ở cư xá Quảng Đức có một sân thượng phía trước, nhưng phải chịu khó trèo mới lên được. Anh Phạm Thế Mỹ và tôi rủ Vĩnh Lộc lên uống trà và giải thích cho Vĩnh Lộc chỗ khác nhau giữa Phật Giáo và Mặt Trận. Không biết lý luận của tôi có thuyết phục Vĩnh Lộc tới mức nào, nhưng Lộc bỏ ý định vào khu. Sau đó Lộc thi rớt bên khoa học, bị kêu động viên vào Thủ Đức, và chừng 2 tháng sau khi ra trường thì bị tử trận.
Trường hợp Lộc ám ảnh tôi một thời gian lâu. Nếu tôi đừng cản Lộc, có thể anh ra khu (có thể không) và có lẽ sống sót và hồ hỡi sau năm 1975 hay có thể bị chết vì bom B52 như Trần Triệu Luật! Tôi nhớ lời đối thoại giữa chị Cao Ngọc Phượng (bây giờ là Sư Cô Chân Không) và Đổ Trung Hiếu tự là Mười Anh - do chính anh ta kể lại... Khi Đổ Trung Hiếu hỏi tại sao Phật Tử chống Mỹ và Thiệu kịch liệt như vậy mà lại không ủng hộ Mặt Trận, chị Phượng trả lời: "Anh có lý tưởng của anh, điểm nào phù hợp tôi sẽ hết lòng giúp anh. Tôi không cản trở hay làm hại anh, nhưng tôi cũng không theo anh". Trong khi bị cộng sản cầm tù, Anh Giàu cũng bị hỏi nhiều lần tương tự và câu trả lời cũng tương tự. Trong thời gian này chính tôi cũng bị dụ dỗ. Anh Phan Long Côn, bạn thân của anh Trần Văn Long, một sinh viên tranh đấu đã nếm mùi chuồng cọp ở Côn Đảo, có một lần đến thăm, cho mấy trái xoài. Sau một hồi chuyện trò, anh nhập đề thẳng, hỏi tôi có muốn vào thăm khu giải phóng không. Nếu muốn anh sẽ đưa đi. Tôi từ chối vì có nhiều người đi trước báo động là khi đã vào thăm khu giải phóng, các cán bộ Mặt Trận sẽ báo tin cho Tổng Nha Cảnh Sát biết để "đóng cửa chặt cầu", lúc đó không muốn ủng hộ hay làm việc cho Mặt Trận cũng không được. Tôi kể dài dòng thể độc giả thấy những khó khăn của Giáo Hội, và của riêng cá nhân Anh Giàu, khi không chịu đầu Hán mà cũng không chịu quy Tào.
Chính trong thời gian này Đức Tăng Thống ra một thông điệp hòa bình kêu gọi cán bộ Phật tử không nên gia nhập các lực lượng chánh trị "thiếu giác ngộ", bên này cũng như bên kia. Trong Thông Điệp Hoà Bình mùa xuân Kỷ Dậu 1969, Đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết xác nhận thế đứng của Phật Giáo rất rõ ràng: Chiến tranh ở Việt Nam là hậu quả của một tranh chấp ý thức hệ và nạn nhân là người dân Việt Nam bình thường, đã bị hy sinh và tiếp tục bị hy sinh và nhục nhằn trong một cuộc chiến bất công. Nếu còn ai nghi ngờ về lập trường chống đối chiến tranh và chống đối các thế lực tranh chấp, Đức Tăng Thống tuyên bố tiếp: "Chúng ta tiếp tục chống đối những thế lực chính trị vô minh đã làm dân tộc đau khổ. Những từ ngữ viện trợ, giúp đỡ cũng như từ ngữ giải phóng cần phải được xem xét cho thật kỹ. Viện trợ không phải để qua mặt những người nhận và bắt buộc họ phải tuân lịnh người cho. Giải phóng không có nghĩa là dùng súng để thanh toán những người không đồng chính kiến với mình" [4]. Những ai quen với lý luận và văn phong của Anh Giàu, đều biết là thông điệp của Đức Tăng Thống có dấu ấn của Anh Giàu.
Những Phật tử trung kiên nhất quyết không chọn con đường chiến tranh của các chánh quyền quân phiệt, nhưng cũng nhất quyết không ủng hộ Mặt Trận, lâm vào một tình trạng lưỡng đầu thọ địch. Anh Giàu là một thí dụ điển hình. Anh bị bọn Giê-Su-Ma fundamentalists (để giữ được ái ngữ, tôi không dịch chữ này ra tiếng Việt!) gọi Anh Giàu là thân cộng, cánh tay nối dài của cộng sản. Bọn hàng thần lê láo như Lê Tuyên và Ngô Văn Bằng tấn công thầy Thiện Minh và nhất là Anh Giàu, gọi bằng những lời lẽ thô bỉ và trân tráo trên tờ Công Luận. Nhóm chủ trương thành phần thứ ba mà không có quần chúng, nhóm Tin Sáng, bất mãn vì Anh Giàu chống phá âm mưu lợi dụng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (Ấn Quang), nên đã gọi Anh Giàu là giáo gian. Khi Anh Giàu nhân danh Vụ Trưởng Sinh Viên Phật Tử Vụ giải tán Đoàn Sinh Viên Phật Tử Sài Gòn - Vạn Hạnh đang bị các sinh viên trong Mặt Trận thao túng, sinh viên Trần Văn Long (hiện là Phó Giám Đốc Ban Du Lịch thành phố Hồ Chí Minh) đem súng dọa bắn anh! Thiệu sau khi đã thanh toán tay chân của Kỳ trong vụ "bắn lầm" trong vụ Mậu Thân, Thiệu ra lịnh bắt Thầy Thiện Minh và các sinh viên tranh đấu tại Trung Tâm Quảng Đức, ghép tội Thầy về tội chấp chứa đào binh! Anh Giàu cũng như một số anh em khác vào tù và sau đó đưa nhập ngũ và phục vụ ở Sư Đoàn 21 ở Chương Thiện U Minh.
Khi tôi trở lại làm việc tại Bộ Giáo Dục vào đầu năm 1970, anh đã được biệt phái về Tổng Cục Chiến Tranh Chánh Trị. Sau 1975, tôi mất liên lạc với Anh Giàu. . (Huệ Hương ST)