Là tên theo cách dịch của người Tây Tấn
Còn Tấn_ : Thiên Trúc Cư Sĩ TRÚC NAN ĐỀ
Trúc Nan Đề - vị cư sĩ dịch kinh & Hộ giới
Trúc Nan Đề (Nandi) vốn người Ấn Độ, là chủ tàu buôn thường qua lại giữa Tích Lan và Trung Hoa. Niên đại ông đến Trung Hoa được ghi nhận vào năm Nguyên Gia thứ sáu (429)(1).
Ông là một Phật tử có tâm đạo thuần thành, tinh thông Hán ngữ. Đóng góp của ông tuy không nhiều, nhưng những tác phẩm do ông phiên dịch và những Phật sự mà ông đã làm, là những cơ sở quan trọng, minh chứng cho sự giao lưu giữa Phật giáo Trung Hoa và Phật giáo Tích Lan trong thế kỷ thứ V Tây lịch.
Về dịch phẩm kinh điển
Căn cứ vào các bộ kinh lục như Khai nguyên thích giáo lục, quyển 3; Lịch đại Tam bảo ký quyển 7; Chúng kinh mục lục, quyển 1 và 2; Cổ kim dịch kinh đồ ký, quyển 2, thì tác phẩm của ông bao gồm:
Kinh Đại thừa phương tiện, gồm 3 quyển.
Kinh Thỉnh Quán Thế Âm Bồ-tát tiêu phục độc hại Đà-la-ni.
Kinh Thiện sanh tử (hoặc kinh Oai cách trưởng giả lục hướng bái).
Trong Đại tạng kinh Đại chính tân tu (ĐTKĐCTT) còn bảo lưu tất cả những dịch phẩm của ông, ngoại trừ kinh Thiện sanh tử thì vẫn chưa tìm thấy. Mặc dù vậy, với những dịch phẩm hiện còn, là bằng chứng cho thấy ông là một trong những đại diện truyền bá kinh văn và tư tưởng từ Ấn Độ, Tích Lan đến Trung Hoa.
Trước hết, về bộ kinh Đại thừa phương tiện gồm ba quyển, đây chính là ba phần của hội thứ ba mươi tám, tương ứng với quyển 106,107 và 108 của bộ kinh Đại Bảo Tích(2). Kinh Đại Bảo Tích với nguyên tác bằng ngôn ngữ Prakrit. Bản kinh này thịnh hành ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ V; phiên bản Sanskrit xuất hiện muộn hơn(3). Theo ĐTKĐ CTT, toàn văn của kinh Đại bảo tích được ngài Bồ Đề Lưu Chí (562-727) cùng những người khác dịch và tập thành vào thời nhà Đường. Ở đây, xét về phương diện niên đại, thì cư sĩ Trúc Nan Đề là một trong những người đầu tiên đem kinh Đại bảo tích vào Trung Hoa(4).
Thứ hai, về dịch phẩm kinh Thỉnh Quán Thế Âm Bồ-tát tiêu phục độc hại Đà-la-ni(5). Theo kinh, dân chúng thành Tỳ-xá-ly bị bệnh tật, cầu thỉnh Đức Phật cứu độ. Đức Phật Thích Ca đã giới thiệu Đức Phật Di Đà ở phương Tây cùng với hai vị Bồ-tát Quan Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí. Nhân sự cầu thỉnh của dân chúng Tỳ-xá-ly, Bồ-tát Quán Thế Âm đã ban cho thần chú để mọi người phòng trừ tật nạn.
Về phương diện tư liệu, Pháp uyển châu lâm(6) quyển thứ 60 đã ghi nhận bài kinh này do thương chủ ngoại quốc tên là Nan Đề thời Lưu Tống dịch. Từ bài chú này đã cho thấy, tín niệm về Bồ-tát Quán Thế Âm đã bắt đầu manh nha và định hình tại Trung Hoa thời Nam Tống, và một trong những người đóng góp đầu tiên về nền tảng kinh điển của tín niệm này là cư sĩ Trúc Nan Đề.
Đề cập về tín niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, theo Đại Đường Tây Vức ký, ngài Huyền Tráng (602-664) cho biết rằng, niềm tin vào Bồ-tát Quán Thế Âm rất thịnh hành ở Ấn Độ, nhiều quốc gia từ Bắc Ấn, Trung Ấn và Đông Ấn đều phụng thờ. Cụ thể như ở các nước Già Tất Thí(7), Ô Trượng Na(8), Yết Nhã Cúc Xà(9), Ma Yết Đà(10), Ma Già Đà(11), và Bôn Na Phạt Đàn Na(12) đều tạc hình tượng và phụng thờ Bồ-tát Quán Thế Âm. Từ đây, niềm tin Bồ-tát Quan Thế Âm đã từng bước lan rộng đến nhiều nước và gần nhất là Tích Lan.
Với đảo quốc Tích Lan, đã có một giai đoạn Phật giáo Đại thừa hưng khởi và niềm tin về Bồ-tát Quan Thế Âm phát triển rất mạnh. Bởi lẽ, Bồ-tát Quán Thế Âm của Phật giáo Đại thừa khi đến quốc gia này đã trở thành vị thần bản địa với tên gọi Nātha Deviyo(13). Trong Cao tăng Pháp Hiển truyện, ngài Pháp Hiển đã niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm khi thuyền của ngài gặp nguy cấp trong chuyến trở về Trung Hoa. Do vậy, có thể nói rằng, chỉ sau ngài Pháp Hiển (337-418)(14), cư sĩ Trúc Nan Đề là một trong những người đem tín niệm Bồ-tát Quan Thế Âm đến đất nước Trung Hoa.
Có thể nói, mặc dù số lượng dịch phẩm của cư sĩ Trúc Nan Đề không nhiều, thế nhưng những tác phẩm của ông đều chuyên chở những chất liệu Đại thừa Phật giáo. Sử liệu cho rằng ông vốn là người Ấn Độ, thế nhưng không ghi chép về hành hoạt của ông ở khu vực này. Trong khi đó, ông thường đi lại bằng thương thuyền giữa Sri Lanka, Java và Trung Hoa. Điều đặc biệt kỳ thú về những tác phẩm kinh điển do ông phiên dịch, tuy mang dấu ấn Đại thừa, nhưng lại đến Trung Hoa từ phương Nam.
Về vấn đề Hộ giới
Cư sĩ Trúc Nan Đề là chủ một tàu buôn lớn, hàng năm theo gió mậu dịch đi lại buôn bán giữa các nước vùng Nam Á và Trung Hoa. Chính vì vậy ông còn được gọi là Bạc Chủ Nan Đề (舶主難提). Trong vai trò này, ông đã có nhiều công hiến trong việc hộ giới cho chư Ni Trung Hoa.
Theo Tỳ-kheo Ni truyện, quyển 2, quyển 3; Cao Tăng truyện, quyển 3, Xuất Tam tạng ký tập, quyển 14, vào năm Nguyên Gia thứ sáu (429), có một số vị Ni Tích Lan đã theo thuyền của Bạc Chủ Nan Đề đến Trung Hoa hoằng pháp. Sau khi thăm thú nhiều nơi thì tạm lưu trú ở chùa Cảnh Phước. Tại đây, các vị Ni Tích Lan được biết rằng tại Trung Hoa cũng có Ni chúng. Tuy nhiên, sau khi trao đổi kỹ thì được biết rằng việc thọ giới của Ni chúng tại đây chưa như pháp, nghĩa là không đủ nhị bộ Đại Tăng tác pháp truyền giới cho.
Thể theo sự khuyến cầu của chư Ni, Bạc Chủ Nan Đề đã về lại Tích Lan để thỉnh cầu chư Ni đến Trung Hoa tác pháp truyền giới.
Vào năm Nguyên Gia thứ 10 (433)(15), bằng thương thuyền của mình, cư sĩ Trúc Nan Đề đã phụng tống Ni trưởng Thiết Tát La (Devasara) cùng nhiều vị Ni khác cho đủ túc số, từ Tích Lan đến Trung Hoa. Sau đó chư Ni đã cung thỉnh Tam tạng Pháp sư Tăng Già Bạt Ma(16) làm đàn chủ, tổ chức đại giới đàn tại chùa Nam Lâm17 để truyền Tỳ-kheo Ni giới cho chư Ni. Tại giới đàn này, đã có vài trăm Tăng, Ni đắc giới.
Cũng theo Cao Tăng truyện, quyển 3, Bạc Chủ Nan Đề cũng là người đã phụng tống ngài Cầu Na Bạt Ma từ Java đến Trung Hoa. Theo tư liệu này, khi hay tin Cầu Na Bạt Ma đang hoằng pháp ở Java (闍婆國), vua Tống Văn Đế đã phê chuẩn thư cầu thỉnh ngài đến Trung Hoa. Theo thuyền buôn của cư sĩ Nan Đề, Cầu Na Bạt Ma đã đến Trung Hoa vào tháng Giêng năm Nguyên Gia thứ 8 (431).
Như vậy, trong việc hộ giới cho chư Ni Trung Hoa, cư sĩ Trúc Nan Đề đã có công lao đóng góp rất lớn. Đó là cung thỉnh và phụng tống Ni trưởng Thiết Tát La (Devasara) đến Trung Hoa để tác pháp và truyền giới cho chư Ni.
Kết luận
Trong dòng tất bật mưu sinh của một chủ thuyền buôn, với quỹ thời gian và điều kiện giới hạn, tuy vậy cư sĩ Trúc Nan Đề vẫn dành thời gian hoàn thành những dịch phẩm kinh điển Đại thừa. Không những thế, với điều kiện có sẵn là phương tiện vận chuyển bằng thương thuyền, ông đã hoàn thành xuất sắc vai trò hộ giới cho chư Ni. Xưa nay, khi đề cập về việc truyền giới cho chư Ni Trung Hoa, thì Ni trưởng Thiết Tát La cùng Pháp sư Tăng Già Bạt Ma luôn là những cái tên chói sáng. Ông đã kề cận các vị đó và nỗ lực ủng hộ bằng tất cả sự nhiệt thành. Với những đóng góp nêu trên, ông xứng danh là người cư sĩ đặc thù trong việc dịch kinh và hộ giới.
(Trích đoạn bài viết của Chúc Phú trong Nguyệt San Giác Ngộ)(Huệ Hương ST)