Phép màu nhiệm này, trong cuộc trò chuyện sáng 11/7 tại Hà Nội, thượng tọa Thích Huyền Diệu bảo chính là nhờ vào hồn thiêng đất Việt.
Mua đất dựng chùa
Năm 1987, thượng tọa Thích Huyền Diệu mua đất xây dựng chùa Việt Nam Phật quốc tại Bodh Gaya (Bồ đề tràng đạo) tại Bang Bihar, Ấn Độ, nơi Đức Phật khai minh và thành chính quả.
Ngôi chùa với chiếc mái ngói cong vút hình con thuyền, trông như những cánh sen vươn lên, hướng về chánh pháp là đặc điểm không thể nhầm lẫn giữa chùa Việt Nam với nhiều ngôi chùa khác trên đất Phật.
Khắp nơi trong chùa, từ cổng trước, cổng sau, chánh điện, nhà tăng, đi đâu cũng gặp hình tượng Việt Nam với tấm bản đồ nhỏ, màu nâu đậm khắc nổi lên tường. Hiện chùa đã có đại hồng chung nặng 2,5 tấn và trống sấm đường kính 2m.Cả hai đều được làm từ Việt Nam và mang đậm nét đặc thù văn hóa Việt Nam.
Ngoài tòa chính điện, trong chùa còn có tháp Vạn Phật bảy tầng và Quan Âm đài mô phỏng hình dáng chùa Một Cột ở Việt Nam nhưng qui mô lớn hơn. Nhiều tảng đá lớn trong chùa được khắc đục các bài thơ cổ thời Lý, Trần.
Các nhu yếu phẩm sinh hoạt trong chùa đều được tự cấp từ những mảnh ruộng gần chùa như lúa, gạo, rau xanh, trái cây. Ngoài ra, thượng tọa Thích Huyền Diệu còn sưu tầm, gây giống một vườn cây cảnh gồm các giống cây và hoa từ trong nước mang sang như thiên lý, đào, tre, trúc, lan, sứ...
Thượng tọa Thích Huyền Diệu tiếp tục xây ngôi chùa tới thứ hai tại Lumbini (Lâm Tỳ Ni), Nepal. Với uy tín của mình, năm 1993, thượng tọa đã được Quốc vương Nepal cho máy bay riêng chở đến Lumbini (Lâm Tỳ Ni), một thánh địa khác của đạo Phật, nơi sinh Đức Thích ca để chọn đất dựng chùa.
Việt Nam Phật quốc tự thứ hai này là ngôi chùa quốc tế đầu tiên tại Lâm Tỳ Ni. Hai ngôi chùa Việt Nam này đã góp phần tạo dựng hình ảnh Việt Nam tại quê hương linh thiêng của Phật giáo thế giới.
Tại Bồ đề tràng đạo, từ ngôi chùa Việt Nam Phật quốc đầu tiên do thượng tọa xây dựng, đến nay đã có bốn ngôi chùa Việt Nam được dựng trên vùng đất Thánh này. Việt Nam Phật quốc tự là chỗ trú chân của người Việt khắp thế giới khi hành hương về đất Phật, là nơi nương tựa lúc khó khăn của nhiều du học sinh Việt Nam.
Thượng tọa Thích Huyền Diệu tâm sự, biết bao nhiêu nhọc nhằn khi xây ngôi chùa đầu tiên do thiếu kinh phí. Phải đến 6 năm sau nó mới hoàn thành, nên thượng tọa không bao giờ nghĩ rằng mình có thể xây được thêm một ngôi chùa nữa.
Vậy mà khi tới Lâm Tỳ Ni, thượng tọa lại ao ước có thể xây thêm được một ngôi chùa Việt nữa. Lâm Tỳ Ni với sự khai mở của thượng tọa Thích Huyền Diệu đã thành một “Liên hiệp quốc Phật tự” với 19 công trình chùa triền của nhiều nước đã và đang được xây dựng.
Từ chối đề cử giải Nobel Hòa bình
Thượng tọa Thích Huyền Diệu, thế danh là Lâm Trung Quốc, đã tốt nghiệp khoa thần học tại Đại học Sorbornne, Pháp. Sau đó, thượng tọa tiếp tục sang Ấn Độ học và tu hành. Xa đất nước đã hơn 40 năm, thượng tọa tự nhận vốn tiếng Việt của mình không tốt bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, mặc dù vậy, thượng tọa rất thích được nói chuyện bằng tiếng Việt.
Với uy tín của mình và ngôi chùa Việt, thượng tọa đã được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn Phật giáo quốc tế Lâm Tỳ Ni. Kể từ sau vụ thảm sát hoàng cung năm 2002 tại Nepal, đất nước này lâm vào nội chiến triền miên.
Năm 2005, thượng tọa Thích Huyền Diệu đã gửi thư cho nhà vua cùng ban lãnh đạo các đảng phái chính trị đề nghị kiến lập hòa bình cho khu vực Lumbini nói riêng và đất nước Nepal nói chung. Lá thư tâm huyết của thầy đã có một tiếng vang trong dư luận và một lần nữa hình ảnh Việt Nam được đề cao trong giới Phật giáo quốc tế.
Từng được Nepal đề cử giải Nobel Hòa bình nhưng thượng tọa Thích Huyền Diệu từ chối. Thượng tọa bảo, thượng tọa thích an bình để có thể làm được nhiều việc hữu ích khác.
Một Phật tử đã nhận xét: “Thầy Huyền Diệu là một con người kỳ diệu dám nghĩ dám làm những chuyện to lớn và hữu ích, mang lại niềm vinh dự lớn lao cho Phật giáo, cho dân tộc Việt Nam, chỗ nào trong khuôn viên của chùa cũng có hình đất nước và tất cả các vật dụng, Pháp khí đều mang biểu tượng Văn hóa Việt Nam, nhằm giới thiệu cho bạn bè Phật giáo và thế giới”.
Việt Nam Phật quốc tự toạ lạc trên một diện tích rộng, giữa cánh đồng bao la, cách Bồ đề đạo tràng khoảng 2 km. Khuôn viên rộng rãi và thoáng mát tạo nên một khung cảnh yên tĩnh.
Chiều cao chính điện là 24m, gồm 3 tầng. Tầng trệt là pháp xá sức chứa cho 50 vị khách tăng mỗi khi trở về chiêm bái Thánh địa.
Tầng thứ hai dùng để trưng bày những di tích, kinh sách, pháp khí trong và ngoài nước. Tầng thứ ba là tôn thờ Đức Bổn Sư Thích-ca và chư vị Bồ-tát.
Phía sau chính điện là hậu Tổ, tôn thờ các vị Thánh đệ tử và các vị Thánh Tăng Việt Nam qua các triều đại. Đối diện với bàn thờ Tổ là bàn tưởng niệm các vị anh linh tổ quốc Việt Nam
Lan Anh
Hồn Việt của ngôi chùa Việt Nam trên đất Phật
Thật ra có đến 2 ngôi chùa Việt Nam trên đất Phật, một ở Bồ đề Đạo tràng và một ở Lâm Tì Ni. Nói hai nhưng chỉ một, vì cả hai cùng có tên chùa “Việt Nam Phật Quốc Tự”, cùng người sáng lập và trụ trì - Thượng tọa Thích Huyền Diệu - và cũng khác với các ngôi chùa khác.
Ấn Độ là quê hương của Phật giáo. Gần 50 năm hành đạo, đức Phật từng vân du qua 45 địa điểm thuộc bang Bihar và Utta Pradesh, trong đó 4 địa điểm thiêng liêng bậc nhất được gọi là “Tứ thánh địa”, gồm: Bồ đề Đạo tràng, nơi đức Phật giác ngộ. Lâm Tì Ni, nơi đức Phật đản sinh. Vườn Lộc Uyển, nơi đức Phật giảng pháp lần đầu. Và Câu Thi Na, nơi Ngài nhập niết bàn. Ngày nay, cả “Tứ thánh địa” này đều được xếp vào hàng di sản văn hóa thế giới. Đang có kế hoạch xây dựng Bồ đề Đạo tràng thành Trung tâm Phật giáo Thế giới, Trung tâm hành hương của các tín đồ đạo Phật, cũng như Vatican đối với Thiên chúa giáo hay Mecca đối với đạo Hồi. Quanh các Thánh địa này có rất nhiều chùa của các quốc gia Phật giáo, trong đó có ngôi chùa Việt Nam.
Có 19 ngôi chùa của các nước bạn quanh Bồ đề Đạo tràng như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan... đều do ngân sách nhà nước cung cấp xây dựng, nhưng Việt Nam Phật Quốc Tự chỉ do một mình Thầy Huyền Diệu cùng với sự trợ giúp của các đệ tử và tăng ni Phật tử mà thành. Chùa của các nước bạn tập trung một khu, vươn ra mặt tiền, ồn ào, chộn rộn, chùa Việt Nam cách xa “xóm chùa” hơn 1km, ẩn mình trong một không gian yên tĩnh chứa chan thiền vị. Chùa của các chùa bạn to và rộng, chùa Việt Nam nhỏ nhắn nhưng cao hơn. Vườn chùa của chùa bạn không quá 1.000m2, vườn chùa Việt Nam đến 33.000m2. Không thể nhầm lẫn chùa Việt Nam với bất cứ chùa nào khác bởi mái ngói cong vút hình chiếc thuyền bát nhã, trông như những cánh sen vươn lên từ tục lụy bùn đen, hướng về cái thiện, hướng về chánh pháp.
Chùa nước bạn mang bản sắc của Phật giáo nước họ, chùa Việt Nam còn mang cả phong cách, tính cách, khát vọng của đất nước Việt Nam. Thầy Huyền Diệu nói, “Dân tộc mình có lịch sử 4.000 năm, có quá trình phát triển Phật giáo lâu đời còn hơn cả Trung Quốc và Nhật Bản. Vậy tại sao không là mình? Tại sao phải giống người ta. Dân mình bao lâu khổ vì theo ngoại bang. Đã đến lúc mình phải vươn vai đứng dậy cho bằng người ta chứ”. Một chi tiết biểu hiện khía cạnh này là sau hậu điện, đối diện với bàn thờ Tổ còn có bàn thờ anh linh Tổ quốc, hồn thiêng sông núi. Những ai có công với đất nước với nhân dân đều được thầy vọng thờ ở đây. Nhiều vị cán bộ sang công tác Ấn Độ, đến thăm chùa, đứng bên bàn thờ Tổ quốc đã không cầm được nước mắt. Tôi hiểu được chiều sâu kín của những giọt nước mắt đó... Tôi băn khoăn không hiểu sao chùa không lấy tên mang tính chùa như Linh Sơn tự, Huyền Không tự... hay Huyền Diệu tự chẳng hạn, mà lại là Việt Nam Phật Quốc Tự. Hóa ra là thế, Phật giáo Việt Nam mang bản sắc của nền văn hóa Việt Nam, tồn tại trong lòng dân tộc Việt Nam, có trách nhiệm tô bồi cho nền văn hóa Việt Nam; đạo pháp và dân tộc, dân tộc và đạo pháp, không làm gì có thứ đạo pháp chung chung bên ngoài tình tự dân tộc. Hiểu được điều đó không khó nhưng minh định rõ ràng điều đó mới là chẳng dễ chút nào.
Khắp nơi trong chùa, từ cổng trước, cổng sau, chánh điện, nhà tăng, đi đâu cũng gặp hình tượng Việt Nam với tấm bản đồ nho nhỏ, thanh thanh, màu nâu đậm khắc nổi lên tường. Giữa một nơi xa lạ, chợt thấp thoáng sau ngàn cây mái chùa cong cong, thanh thoát, cùng với tấm bản đồ Việt Nam. Từ sâu trong trái tim bỗng dậy lên tình yêu tha thiết về quê hương đất nước mình. Đó là chủ tâm của thầy. Cũng vì chuyện này mà thầy từng gặp khó khăn không ít. Mấy Phật tử nước ngoài điện về hỏi thầy: “Nghe nói xây chùa xong thầy treo cờ đỏ sao vàng và ảnh ông Hồ Chí Minh khắp nơi phải không?”. Thầy hỏi, “Ai nói vậy?”. “Có người nói”. “Thế thì họ nói đúng”. Điện thoại cúp, và cúp luôn nguồn hỗ trợ cần thiết. Tôi hỏi thầy, “Sao thầy không giải thích ngọn nguồn cho người ta hiểu?”. Thầy nói, “Hãy coi sự hàm oan như một lời chúc tụng”. Hẳn phải có đạo lực ghê gớm mới giữ được cái tâm bình thản đến vậy.
Có đến đâu làm đến đó cùng với những khó khăn thuộc loại ấy đã tạo nên một nét khác biệt giữa chùa Việt Nam với các chùa khác: tiến độ thi công chậm. Việt Nam Phật Quốc Tự tại Bồ đề Đạo tràng chẳng hạn, khởi công từ tháng 5 năm 1987, mãi đầu năm 2003 mới khánh thành. Còn ở Lâm Tì Ni, là ngôi chùa xây dựng đầu tiên từ năm 1993, cho đến nay vẫn chưa hoàn thành. Trong lúc 17 ngôi chùa các nước bạn mới khởi công sau này mà đã đâu vào đấy. Như chùa Trung Quốc, nhà nước bỏ ra 4 triệu USD và chỉ hoàn thành trong vòng một năm theo hình mẫu của Thiếu Lâm tự bên bổn quốc. Hoặc chùa Đại Hàn, với kinh phí lên tới 20 triệu USD cũng sắp sửa hoàn thành. Nhìn những công trình lỡ dở phơi mình ngoài mưa nắng chờ đợi những tấm lòng, tôi hết sức ái ngại. Nhưng lòng riêng vẫn thích thà vậy còn hơn chạy vạy, xin xỏ, đổi chác - nghe đâu trên đường vận động quốc tế đến xây dựng chùa trong vùng Thánh địa Lâm Tì Ni, một nước bạn đề nghị giúp thầy 3 triệu USD để xây chùa. Thầy từ chối. Nhất thời những người cùng đi có ý trách thầy, nhưng rồi khi hiểu ra họ đã hoan hỉ cám ơn thầy. Hoặc, một Phật tử ở Mỹ hứa tặng thầy 2 triệu USD chỉ với một điều kiện... Thời gian luôn là thước đo chính xác lòng chí thành và sự kiên định. Cứ thế, cho đến khi hoàn thành, mỗi người có thể tự hào vì công trình nghệ thuật và tôn giáo đó là kết quả cả một quá trình chắt chiu từ những tấm lòng từ ái.
Ở Bồ đề Đạo tràng, do Việt Nam Phật Quốc tự xây theo “thế đất” nên chùa mang dáng vẻ độc đáo rất riêng. Ẩn mình trong ngàn cây, các công trình trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát. Qua khỏi cổng tam quan khoảng 100m, phía bên phải uy nghi một tòa chánh điện 3 tầng, cao 24m. Tầng một là pháp xá, đủ cho 30 khách tăng. Tầng hai trưng bày kinh sách, pháp khí. Tầng ba thờ Tam thế Phật cùng chư vị Bồ tát. Phía hậu điện có bàn thờ Tổ và các vị Thánh Tăng Việt Nam. Đối diện bàn thờ Tổ là bàn thờ anh linh Tổ quốc Việt Nam. Bên trái chánh điện là tháp Vạn Phật, bán kính 12m, 7 tầng, thờ Xá Lợi Phật và 10.000 vị Phật. Tầng hầm thờ chư hương linh quá vãng. Bên phải chánh điện là đài Quan âm, cấu trúc giống như chùa Một Cột, nhằm giới thiệu nét văn hóa độc đáo của Phật giáo Việt Nam cho các nước bạn. Sau khi hoàn tất hai công trình này chùa sẽ tiếp tục xây dựng gác chuông, gác trống. Hiện chùa đã có đại hồng chung nặng 2 tấn rưỡi, đường kính 1,5m, cao 3m. Và Trống sấm đường kính 2m, dài 1,5m. Cả hai đều được làm từ Việt Nam và mang đậm nét đặc thù văn hóa Việt Nam.
Ở cổng tam quan, hai cánh cửa lớn chỉ mở trong những dịp đặc biệt, ngày thường mọi người vào ra thông qua cánh cửa rộng không quá 50cm, cao không quá 1,2m. Đây là điều tôi chưa hề thấy ở các chùa bên quê nhà, tôi thắc mắc, thầy nói: “Nó thay cho một lời nhắc nhở, hãy bỏ “cái ngã” của mình”. Thật là minh triết. Ai cũng biết chính cái ngã dìm ta vào chỗ tham sân si, trần ai, khổ lụy, nhưng làm sao khắc chế nó đây. Với sắc đẹp, tiền tài, địa vị, danh vọng mà khó thế thì với cái ngã sẽ còn khó biết chừng nào. Từ cổng tam quan trở vào, con đường lát đá thiên nhiên quanh co, uốn lượn dưới các tán cây. Cách chánh điện khoảng 300m, sâu bên trong là 2 dãy Pháp xá. Dãy dọc, dài 47m, 3 tầng, 21 phòng, mỗi phòng có thể ở được từ 3 đến 6 người. Dãy ngang, dài 49m, 13 phòng, trong đó có 2 phòng ăn. Dãy này sẽ được tiếp tục xây lên 2 tầng nữa.
Năm 1969, lần đầu tiên thầy Huyền Diệu đến chiêm bái thánh địa Bồ đề Đạo tràng, nơi đã trở thành di sản văn hóa và tâm linh vô giá không chỉ của Phật tử mà còn của nhân loại. Thấy nhiều nước Phật giáo trên thế giới xây chùa, dựng tháp quanh Thánh địa để gìn giữ và phát huy di sản văn hóa và tâm linh vô giá ấy, thầy phát nguyện cũng sẽ góp phần với các nước bạn xây dựng một ngôi chùa Việt Nam trên đất Phật. Qua đó, còn để giới thiệu với nhân loại nền văn hóa Việt Nam, truyền thống văn hóa Phật giáo độc đáo của Việt nam. Và chùa cũng là nơi để quý chư Tôn, Tăng, Ni, Phật tử khắp nơi về chiêm bái Thánh tích có chỗ nghỉ ngơi trang nghiêm, thanh tịnh, tăng trưởng Bồ đề tâm. Do vậy mà ngoài việc đầu tư cho các công trình chính, thầy còn coi trọng trang bị đầy đủ tiện nghi cho pháp xá. Tôi có duyên may được ở lại chùa hai ngày hai đêm. Đó là một trong những kỷ niệm ấm áp không thể nào quên. Bữa cơm chùa chỉ là rau trái trong vườn qua bàn tay chế biến của mấy chị trong đoàn mà sao sang trọng và ngọt ngào đến thế. Tôi sửng sốt về nhận định chân chất của thầy: “Thực phẩm tinh khiết do tự tay mình làm ra, người nấu nấu với một cái tâm an lạc, người ăn ăn với một cái tâm an lạc, thì đó là một bữa ăn tuyệt vời”. Hèn chi, có người suốt đời chỉ ăn toàn cao lương mỹ vị mà chẳng bao giờ biết được vị ngon ngọt là gì.
Ấn tượng sâu đậm nhất về ngôi chùa Việt Nam trên đất Phật là cảnh chùa. Nó làm tôi liên tưởng đến những ngôi chùa trên thành phố Huế thơ mộng của tôi. Mà hình như chỉ Huế thôi. Ngày nay, nhất là ở các thành phố lớn, vườn chùa bị thu nhỏ trong một không gian bé nhỏ giữa bốn bề nhà cửa, đường sá, chộn rộn đủ thứ tạp âm. Chùa ở Huế hầu hết nằm bên ngoài thành phố, ẩn mình trong một vườn cây bốn mùa xanh lá. Vườn chùa mênh mông bát ngát, thường khi rộng đến hai, ba, bốn mẫu, có chùa lên đến 30 mẫu. Mỗi lần “lên chùa” là mỗi lần như lạc vào một cảnh giới khác, nhẹ nhàng, thanh tịnh, chứa chan thiền vị. Dọc theo những con đường nho nhỏ, xinh xinh, quanh co uốn lượn trong khuôn viên chùa có nhiều những loại cây ăn quả vùng nhiệt đới quen thuộc như vải, măng cụt, mít, táo, cam, bưởi, ổi xá lị (có đến 12 loại), xoài (30 loại), trong đó có giống xoài loại ngon nhất thế giới - Thầy đã có kế hoạch tổ chức Đại hội xoài quốc tế vào năm 2005, và thầy nói tỉnh khô, “sẽ đem những giống xoài ngon nhất thế giới về trồng trên đất nước mình”. Vườn chùa là một bộ sưu tập công phu những loài cây liên quan đến cuộc đời đức Phật. Trong số những cây ấy, có nhiều cây là vị thuốc quý, như cây Moringo Lim (cây cứu đời) có tác dụng lọc nước. Cây Tulsi trị run tay, ung thư máu. Cây Hathi, trị cảm cúm, cấp cứu bất tỉnh. Cây Sheshan trị ung thư răng... Thầy lại thao thức, “Làm sao đem mấy cây thuốc này về Việt Nam mình...”.
Thăm “Tòa lâu đài” của thầy - đó là túp lều tranh trong một góc vườn chùa cách không xa dãy Pháp xá ba tầng, 108 phòng, đầy đủ tiện nghi dành cho khách thập phương, tôi chỉ thấy bức ảnh phóng lớn mấy đôi hồng hạc quấn quýt bên chân thầy ngồi đọc sách. Hôm làm thủ tục vào Nepal, tôi lại thấy ở phòng hải quan người ta trân trọng treo mấy tấm ảnh ngôi chùa Việt Nam Phật Quốc tự và ảnh thầy Huyền Diệu thân mật tiếp mấy cô chú hồng hạc mỹ miều trong túp lều tranh của mình. Các nhà khoa học sửng sốt bởi bấy lâu họ ghi nhận loài hồng hạc đã hoàn toàn tuyệt chủng, thế mà lại kéo nhau về chỗ thầy đến 15 đôi. Nhiều chuyên gia môi trường và nhiều đoàn du lịch trên thế giới đổ về Lâm Tì Ni vừa để chiêm bái thánh tích, vừa để xem chim hồng hạc. Nhưng không phải ai cũng may mắn. Thầy nói, “Có phước mới gặp thánh nhân, có duyên mới gặp hồng hạc”. Tôi cứ băn khoăn không biết mình có duyên không! Có bao điều bí ẩn về thầy mà tôi không dám mong hiểu hết. Tôi hỏi Dũng - môt thanh niên Hà Nội sang giúp thầy làm chùa: “Trong cuộc sống, thầy đang ao ước điều gì nhất?”. Sau một phút trầm ngâm, Dũng nói, “Thầy, mong đất nước Việt Nam hùng cường, mong xây cho xong ngôi chùa, mong sớm tìm được vị trụ trì có tài đức, và sau đó lên núi tuyết ẩn tu”.
Khi phát nguyện xây chùa, thầy Huyền Diệu chỉ có vỏn vẹn 60USD. Thế rồi từng ngày từng tháng, Thầy đã đón nhận từ những tấm lòng từ ái sự trợ giúp tích cực để làm nên công trình mà những ai có duyên đến thăm không thể không tự hào. Tôi chia tay thầy nhưng không nói được điều gì để bày tỏ lòng mình. Mấy dòng này xin được thay cho lời hối tiếc, và tấm lòng cầu mong thầy sớm đạt được ước nguyện: hoàn thành mỹ mãn ngôi chùa Việt Nam trên đất Phật.