176- Drukpa VN
Lịch sử Truyền thừa Drukpa khởi nguồn từ Đức Phật Nguyên Thủy Kim Cương Tổng Trì, Ngài là chủ của một trăm Phật Bộ và là hiện thân của tất cả chư Phật trong ba đời. Nguồn Pháp mạch Truyền thừa được ban truyền trực tiếp từ Đức Phật Kim Cương Tổng Trì tới Đại thành tựu giả Ấn Độ thế kỷ thứ X là Đức Tilopa, rồi được Đức Tilopa trao truyền trọn vẹn tới đệ tử của mình là Đại thành tựu giả Naropa (956–1050). Sau Đức Naropa, Truyền thừa được tiếp nối đến Đại Thượng sư Marpa (1012–1096) rồi truyền xuống Đại thành tựu giả Jetsun Milarepa (1040–1123), thành tựu giác ngộ đại hợp nhất ngay trong một đời. Sau đó, Đức Milarepa truyền trao giáo pháp cho Đức Gampopa (1079–1153), “Trăng rằm” vô song, đã được Đức Phật Thích Ca huyền ký trong nhiều Kinh điển và Mật điển. Từ Đức Gampopa, Truyền thừa lại được truyền xuống tới Đức Phagmo Drupa (1110–1170), hóa thân của Phật Ca La Ca Tôn Đại – Đức Phật thứ hai của hiện kiếp này. Pháp mạch Truyền thừa được truyền tiếp tới Đại Thành tựu giả Lingchen Repa (1128–1188), thành tựu hạnh xả ly với sự chứng ngộ cao quý tuyệt đối.
Kế đến, pháp mạch Truyền thừa được truyền tới Đức Drogon Tsangpa Gyare (1161–1121), Đại đệ tử vô song của Đại thành tựu giả Lingchen Repa, được kính ngưỡng là chân hóa thân của Đức Phật Quan Âm với sự đản sinh, danh tính và công hạnh được huyền ký trước đó tại nhiều Kinh điển, Mật điển. Đức Drogon Tsangpa Gyare chính thức đặt tên cho Truyền thừa là Druka (có nghĩa là “Thiên Long”), qua đó trở thành Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ I. Ngài thâu nhận vô số đệ tử đều là các thành tựu giả, hoằng truyền giáo pháp và để lại tầm ảnh hưởng rộng khắp tại các quốc gia và lãnh thổ trên dãy Himalaya như Ladakh, Nam Ấn, Tây Bengal, Lahaul, Kinnaur, Nepal, Bhutan, Sikkim,... Đây là truyền thống tu tập trứ danh với những pháp tu trì thâm diệu thành tựu Phật quả ngay trong một đời như “Sáu Pháp Yoga của Naropa”, giáo pháp khẩu truyền tâm yếu “Đại Thủ Ấn”, những giáo pháp thiền định đặc biệt như “Sáu Pháp Vị Bình Đẳng”, “Bảy Pháp Duyên Khởi”. Kể từ đời thứ II trở đi, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa cũng là nắm giữ “Sáu sức Trang Hoàng của Naropa”, Pháp bảo tối thắng tượng trưng cho sự chứng đắc Mật thừa Tantra vô song. Các xá lợi quý giá bao gồm: Sáu Trang Hoàng bằng xương và bình quán đỉnh mà Đức Naropa đã từng sử dụng khi tu trì Kim Cương thừa, chiếc vương miện đen rực rỡ tết bằng tóc cúng dàng của một trăm ngàn vị Dakini tới Ngài và các bảo báu được trang trí vào thêm sau đó. Những ai có phúc duyên chiêm ngưỡng các xá lợi này sẽ được ban thần lực gia trì kiến tức giải thoát.
Tương truyền, tầm ảnh hưởng của Truyền thừa Drukpa trong thời cực thịnh rộng lớn đến nỗi “chim linh thứu sải cánh bay mười tám ngày không ngừng nghỉ cũng chưa hết địa phận các trụ xứ”. Ngạn ngữ nhân gian vùng núi tuyết còn lưu truyền câu kệ sau: “Một nửa người dân là đệ tử Truyền thừa Drukpa, Một nửa đệ tử Truyền thừa Drukpa là hành giả Yogi, Một nửa hành giả Yogi là Đại Thành tựu giả”. Lịch sử Phật giáo Kim Cương thừa còn ghi lại vào thời kỳ Phật pháp bị suy vi do ngoại đạo tàn phá, các Thành tựu giả Truyền thừa Drukpa đã phô diễn vô số đại thần thông bất khả tư nghì, điều phục ngoại đạo và giáo hoá chúng sinh bằng hành vi, thái độ, cung cách phi thường cùng những phương tiện thiện xảo giúp chuyển hóa sâu sắc thế giới nội tâm, qua đó đánh đổ hủ tục và tập khí huân tập lâu đời, đồng thời tạo luồng sinh khí năng động, tích cực cho xã hội.
Kể từ thời điểm Đức Tsangpa Gyare thành tựu Đại giác ngộ rồi sáng lập Truyền thừa Drukpa, với tâm nguyện phụng sự nhân loại, lợi ích chúng sinh, Ngài đã liên tục hóa thân chuyển thế 12 lần với pháp danh và thời điểm như sau:
Nhập thể
Tên Phật sống
Trụ thế
Gyalwang Drukpa đời thứ 1
Drogon Tsangpa Gyare (Người họ Gyare đến từ vùng Tsang)
1161–1211 (50 năm)
Gyalwang Drukpa đời thứ 2
Kunga Paljor
1428–1476 (48 năm)
Gyalwang Drukpa đời thứ 3
Jamyang Chodrak
1478–1523 (45 năm)
Gyalwang Drukpa đời thứ 4
Kunkhyen Pema Karpo (Bạch Liên tôn giả)
1527–1592 (65 năm)
Gyalwang Drukpa đời thứ 5
Pagsam Wangpo
1593–1641 (48 năm)
Gyalwang Drukpa đời thứ 6
Mipham Wangpo
1641–1717 (76 năm)
Gyalwang Drukpa đời thứ 7
Kagyü Trinle Shingta
1718–1766 (48 năm)
Gyalwang Drukpa đời thứ 8
Künzik Chönang
1768–1822 (44 năm)
Gyalwang Drukpa đời thứ 9
Jigme Mingyur Wangyel
1823–1883 (60 năm)
Gyalwang Drukpa đời thứ 10
Mipham Chökyi Wangpo
1884–1930 (46 năm)
Gyalwang Drukpa đời thứ 11
Tendzin Khyenrab Geleg Wangpo
1931–1960 (29 năm)
Gyalwang Drukpa đời thứ 12
Jigme Pema Wangchen (Vô Úy Liên Hoa Quyền Lực Tự Tại)
1963–nay