Từng biên tập cho các báo và tạp chí: Văn Hoá, Việt Bút, Tiếng Chuông, Tin Sớm, Ánh Sáng, Dân Tộc, Tin Lửa, Nhân Loại, Tạp Chí Phổ Thông…
Giám đốc Nhà Xuất Bản: Tân Việt Nam (1949), Lá Dâu (1966).
Dạy văn học Việt Nam ở nhiều trường Trung học.
A. THẨM THỆ HÀ, NHÀ THƠ
Năm 14 tuổi, khi còn ở ban Trung học, Thẩm Thệ Hà đã làm chủ bút tạp chí Bạn Trẻ quy tụ nhiều nhà văn, nhà thơ trẻ miền Nam như: Hường Hoa, Khổng Dương, Vân An, Đoàn Giỏi, Ngọc Thạch v.v…
Từ năm 1937 Thẩm Thệ Hà đã sáng tác nhiều thơ đăng ở các báo và tạp chí Hà Nội và Sàigòn như: Phổ Thông bán nguyệt san (Hà Nội), Đồng Thinh, Chúa Nhật, Thanh Niên, Điện Tín (Sàigòn) ký bút hiệu Thành Kỉnh. Thơ ông đượm chất trữ tình trong sáng, lời thơ nhẹ nhàng bay bướm, truyền cảm đậm đà. Đặc sắc nhất là bài: Bến đò chiều, Dòng mơ chung thủy, Rồi một chiều xuân, Xuân thanh sắc, Trịnh Đán…
Từ sau Cách mạng mùa Thu, ông đổi bút hiệu là Thẩm Thệ Hà, chuyển sang loại thơ tranh đấu, là một trong những ngòi bút tiên phong của nền văn học tranh đấu miền Nam hoà nhịp với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và cải tạo xã hội của toàn dân. Ông thường cho đăng thơ ở các báo: Việt Bút, Văn Hoá, Phổ Thông, Tiểu Thuyết Thứ Bảy…
Trong giai đoạn nầy thơ ông đượm hào khí Vịêt Nam anh hùng bất khuất, nhằm động viên tinh thần yêu nước của toàn dân chống kẻ thù chung của dân tộc. Đặc sắc nhất là các bài thơ: Trời nổi phong yên, Việt Nam mến yêu, Tống biệt hành, Khoé mắt u hoài, Trường Thành Sông Đua… Ngoài ra, ông sáng tác vở kịch thơ ngắn “Tinh Phi”, do Tân Việt xuất bản năm 1950, được độc giả yêu thơ mếm mộ, được tuyển đăng lại ở các báo Việt Bút, Tiểu Thuyết Thứ Bảy.
Thơ ông được tuyển đăng các Tuyển tập như: Thi nhân Việt Nam hiện đại của Phạm Thanh, Thơ mùa giải phóng (Nhà xuất bản Sống Chung), Thi ca Việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Kiệt, Mùa Xuân tuổi trẻ tình yêu (Nhà xuất bản Long An 1989).
Ông có hai thi phẩm chưa xuất bản:
1.-Thâm Thúy (trước 1945)
2.-Trời nổi phong yên (sau 1945)
B. THẨM THỆ HÀ, NHÀ VĂN
Năm 1949, ông cho xuất bản hai quyển truyện dài đầu tay: Vó ngựa cầu thu, Gió biên thùy (Nhà xuất bản Tân Việt).
Những tác phẩm này đều mang màu sắc tranh đấu, dưới hình thức “bình cũ rượu mới”. Tuy mang màu sắc tranh đấu nhưng tác phẩm vẫn chứa đựng đậm đà chất thơ.
Năm 1949, ông cùng Vũ Anh Khanh sáng lập Nhà xuất bản Tân Việt Nam, phát triển mạnh nền Văn chương tranh đấu miền Nam.
Tác phẩm nổi bật của ông trong giai đoạn này là 2 quyển truyện dài “Người yêu nước” và “Lưu động” đã gây tiếng vang lừng lẫy một thời. Truyện “Người yêu nước” phát hành được một tháng phải tái bản ngay để thoả mãn đòi hỏi của bạn đọc. Truyện “Lưu động” vừa xuất bản đã bị tịch thu toàn bộ và bị cấm lưu hành toàn quốc. Đó là 2 tác phẩm sáng tác theo khuynh hướng hiện thực, lãng mạn cách mạng có tác dụng mạnh mẽ trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp lúc bấy giờ.
Về chính luận, ông có tác phẩm “Việt Nam trên đường cách mạng Tân văn hoá”.
Năm 1966, ông cùng Tô Nguyệt Đình sáng lập Nhà xuất bản Lá Dâu, tiếp tục phát triển nền văn học tranh đấu, chuyển mũi nhọn sang chống thực dân mới. Tác phẩm nổi bật của ông trong giai đoạn trong giai đoạn này là 2 truyện dài: Đời tươi thắm và Bạc áo hào hoa. Quyển Đời tươi thắm đề cao tinh thần đấu tranh chống đế quốc của toàn dân, không phân biệt giai cấp, tôn giáo. Quyển Bạc áo hào hoa phản ảnh xã hội đồi trụy tha hoá dưới chế độ thực dân mới và kêu gọi đấu tranh đòi hỏi hoà bình cho tổ quốc.
Về văn dịch thuật, ông có 3 tác phẩm: Mũi tên đen (The Black Arrow của R.L.Stevenson), Con đường cứu nước (Maroussia của P.J.Stahl) và 1001 truyện ngắn hay nhất thế giới.
Ngoài ra, ông sáng tác ruyện dài “Hoa Trinh Nữ” nhằm giáo dục thanh niên nhân sinh quan và luyến ái quan mới, đồng thời ông còn viết nhiều truyện thiếu nhi nhằm giáo dục đạo đức truyền thống và nếp sống lành mạnh như:
- Bài học thương nhau, Con chim xanh, Tiểu anh hùng, Tàn giấc mơ tiên (Nhà xuất bản Sống Mới).
- Thần điểu và hoa hồng, Thiên tài lạc lối, Nhân ngư công chúa, Ngọc Tuyền thảm sử, Đoàn quân áo đen, Chưa tròn tuổi mộng, Tài không đợi tuổi, Rửa tay gác kiếm, Ông Nghè Dê, Con chim vàng anh (Nhà xuất bản Khai Trí).
C. THẨM THỆ HÀ, NHÀ GIÁO
Từ 1952, Thẩm Thệ Hà là giáo sư văn chương ở nhiều trường Trung học: Nguyễn văn Khuê, Chi Lăng, Tân Thanh, Đặng Văn Trước, Đức Trí, Dân Trí, Trần Hưng Đạo.
Năm 1962, ông chủ trương Việt Nam giáo khoa tập san, cổ xúy việc dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ ở các cấp học.
Ông biên soạn nhiều sách giáo khoa ban Trung học. Nhờ phương pháp giảng dạy tiến bộ, tài liệu chính xác, lập trường tư tưởng vững vàng, sách giáo khoa của ông được phổ biến rộng rãi ở các trường Trung học khắp miền Nam. Có sách tái bản đến lần thứ 15.
Sách giáo khoa của ông đã xuất bản: Phương pháp làm văn nghị luận – Phân tích và nghị luận văn chương, Chánh tả văn phạm, Giảng văn (từ lớp 6 đến lớp 12) Quốc văn toàn thư (từ lớp 6 đến lớp 9).
Hiện nay Thẩm Thệ Hà là hội viên Hội Nhà Văn thàng phố Hồ Chí Minh, hội viên Hội Văn Nghệ Tây Ninh. Mặc dù tuổi đã cao, ông vẫn còn hăng say sáng tác. Ông đã cho đăng tác phẩm của mình ở các tạp chí và tuần báo: Văn, Bách Khoa Văn Học, Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Văn Nghệ Tây Ninh, Hoa Cảnh, Giác Ngộ, Saigon Giải Phóng Thứ Bảy, Xưa và nay v.v..
Ông vừa cho tái bản vài tác phẩm: Bạc áo hào hao, và Hoa Trinh Nữ (Nhà xuất bản Tiền Giang 1989), Đời tươi thắm, Vó ngựa cầu thu, Người yêu nước (Nhà xuất bản Văn Nghệ TP. HCM 2002)