Chánh Thư ký Việt Nam Phật học Thừa Thiên - Huế
Phó Tổng Thư ký Tổng hội Phật giáo Việt Nam
Ban điều hành Hội Phật học Nam Việt (Ban Quản Trị) Trích đoạn lời tự thuật
Năm 1951, tôi ở Huế, đang làm Chánh Thư ký Việ t Nam Phật học Thừa Thiên - Huế, khi Tổng hội Phật giáo Việt Nam ra đời, tôi được đề cử vào chức vụ Phó Tổng Thư ký, do cố Đại lão HT. Thích Tịnh Khiết làm Hội chủ và dịp này tôi có cơ duyên gặp đạo hữu Chánh Trí. Nghe tiếng Hội Phật học Nam Việt đã lâu nay được diện kiến người có đạo tâm tôi rất hoan hỉ. Đạo hữu Chánh Trí ngỏ lời mời tôi vào Sài Gòn để cùng làm việc trong Hội. Tôi nhận lời nhưng mãi đến năm 1953 tôi mới vào Sài Gòn được sau khi xin phép các vị Hòa thượng và sắp xếp chuyện gia đình. Từ đây tôi luôn gắn bó với đạo hữu Chánh Trí mà tôi coi như một người anh trong gia đình.
Sự thành lập hội Phật hoặc Nam Việt
Hội Phật học Nam Việt được thành lập ngày 19-9-1950 tại Sài Gòn, là đoàn thể nam nữ đạo hữu Phật học ở miền Nam Việt Nam tổ chức có hệ thống rõ ràng, có điều lệ nội quy được chính quyền lúc bấy giờ công nhận về mặt pháp lý để hoạt động và kết hợp bước đầu một số Phật tử cả xuất gia lẫn tại gia nam nữ.
Đến ngày mùng 6 tháng 5 năm 1951, một Đại hội Phật giáo toàn quốc được triệu tập tại Huế để thống nhất Phật giáo và thành lập một Hội lớn liên hiệp, gọi là Tổng hội Phật giáo Việt Nam gồm có 6 tập đoàn: Giáo hội Tăng già Bắc Việt, Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt (cư sĩ), Giáo hội Tăng già Trung Việt, Hội Việt Nam Phật học Trung Việt (cư sĩ), Giáo hội Tăng già Nam Việt và Hội Phật học Nam Việt (cư sĩ). Thực ra thì ở Nam Việt lúc bấy giờ khởi sự chỉ có một tổ chức Phật giáo là Hội Phật học Nam Việt công khai đại diện cho cả hai phái xuất gia và tại gia, nhưng vì Bắc Việt và Trung Việt đều có hai phái đoàn: một xuất gia và một tại gia, nên các vị Tăng sĩ ở Nam Việt phải tách ra thành lập Giáo hội Tăng già Nam Việt để tham gia Đại hội Phật giáo toàn quốc lúc đó, vì vậy Hội Phật học Nam Việt từ đó chỉ gồm có các Phật tử đạo hữu tại gia mà thôi.
Hội Phật học Nam Việt đã phát triển đều, trước ngày giải phóng đất nước, có hơn 40 Tỉnh hội và Chi hội, riêng hội sở Trung ương ở Sài Gòn có hơn 6.000 hội viên thực hành có ghi tên gia nhập, ngoài ra còn có một số công đức hội viên cùng một số đông cảm tình viên và thí chủ hết lòng tán trợ, ủng hộ, kể cả hơn 10.000 người.
Lúc đầu, Hội Phật học Nam Việt đặt trụ sở tạm tại một ngôi chùa mượn ở khu Hòa Hưng tên là chùa Khánh Hưng, sau dời về chùa Phước Hòa, khu Bàn Cờ cũng trên địa bàn Sài Gòn nhưng chùa vẫn còn xập xệ, mái lá.
Không biết phải vì biết tin hâm mộ di tích Phật của tín đồ Phật giáo Việt Nam hay không, mà năm 1953, Đại đức Narada, Tọa chủ chùa Vajirarama ở Sri Lanka sang thăm Việt Nam, phụng thỉnh theo 3 viên xá lợi của đức Phật và 3 cây bồ đề con trồng trong 3 lon sữa bò, định cúng cho 3 nơi: Phật giáo Nguyên thủy (Kỳ Viên tự), Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Campuchia (theo lời tuyên bố của Đại đức lúc đến phi trường Tân Sơn Nhất).