Địa chỉ:www.quangduc.com
Vũ Hoàng ChươngChính quán: Xã Phù Ủng, huyện Ðường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hưng Yên. Sinh quán: thành phố Nam Ðịnh Năm sinh: Ất Mão (1915), tháng Tư, ngày mồng Một, trên giấy khai sinh đã ghi 5.5.1916. Gia đình khoa bảng giàu có. Bố tên Vũ Thiện Thuật, làm tri huyện, mất 1941; mẹ họ Hoàng, hay chữ và chơi đàn nguyệt, buôn gạo tại Bến Thóc, Nam Ðịnh, mất tại Sài Gòn, 1961, (?). Học chữ Hán từ khi lên năm tuổi, học tiểu học tại Nam Định. 1931: Vào trường Trung học Albert Sarraut, Hà Nội. 1937-1938: Tú tài Pháp, phần I Cổ ngữ, phần II Toán. 1938: Học Luật tại Hà Nội.1939: Thôi học, ra làm việc Hỏa Xa, ngạch phó thanh tra, phụ trách đoạn đường Vinh - Na Sầm. 1940: Tự xuất bản Thơ Say, nhà Cộng Lực ấn loát và phát hành. Nxb Nguyễn Ðình Vượng tái bản 1971, Sài Gòn.1941: Thôi việc ở Hỏa Xa, học ban Toán Ðại Cương tại đại học Khoa Học vừa mới thành lập tại Hà Nội.1942: Thôi học, xuống Hải Phòng dạy cho một tư thục. Trở về Hà Nội lập ban kịch Hà Nội cùng với Chu Ngọc và Nguyễn Bính. Diễn vở kịch thơ Vân Muội tại Nhà Hát Lớn Hà Nội (12.12.1942). Gặp gỡ Đinh Thục Oanh, chị ruôt nhà thơ Đinh Hùng, thành hôn 1944.1943: Xuất bản tập Mây, nxb Ðời Nay, Hà Nội (Nxb Văn Học, Hà Nội tái bản 1991, 1995. Nxb Hội Nhà Văn, TP/HCM 1992).1944: Xuất bản tập kịch thơ, gồm ba vở: Vân Muội, Trương Chi, Hồng Diệp; nxb Anh Hoa, Hà Nội.1945: Về Nam Ðịnh, diễn vở kịch thơ Lên Ðường của Hoàng Cầm (sau Cách Mạng tháng 8).1946: Tản cư về vùng duyên hải Nam Ðịnh (Khu Ba).1948: Xuất bản tập Thơ Lửa cùng với Ðoàn Văn Cừ, Thái Nguyên; do cơ quan Kháng Chiến Liên Khu 3. Sang tỉnh Thái Bình dạy học. 1950: Hồi cư về Hà Nội.> 1951: Cho diễn vở kịch thơ Tâm Sự Kẻ Sang Tần; dạy học cho một tư thục, môn Toán Lý Hóa, rồi dạy Việt văn và tiếp tục mãi môn này cho đến 1975.1952: Diễn kịch thơ Thằng Cuội. 1953: Ðăng báo kịch thơ Cô Gái Ma. 1954: Rừng Phong, nxb Phạm Văn Tươi, Sài Gòn, trước hiệp định Genève. Di cư vào Nam, khoảng tháng 8 năm đó, và định cư tại Sài Gòn cho đến 1976. 1959: Hoa Ðăng, nxb Văn Hữu Á Châu (tháng 7). Tập thơ này được giải thưởng Toàn quốc về thơ. Tham dự hội nghị Thi Ca Quốc Tế cứ hai năm họp một lần tại tỉnh Knokke-Le Zoute, nước Bỉ (tháng 9).1960: Tự tái bản hai tập Thơ Say và Mây in chung vào một tập mang tên Mây.Xuất bản tập Cảm Thông (nhan đề Anh ngữ là Communion), gồm sáu bài thơ mới sáng tác sau cuộc Âu du và chín bài cũ lựa chọn lấy tính cách tiêu biểu; do Nguyễn Khang phiên dịch và xuất bản. Tái bản Vân Muội, Trương Chi, Hồng Diệp, do nxb Nguyễn Ðình Vượng. 1961: Kịch thơ Tâm Sự Kẻ Sang Tần, nxb Lửa Thiêng. Tập thơ Tâm Tình Người Ðẹp (nhan đề Pháp ngữ là Les 28 Etoiles) gồm 42 bài thơ Nhị thập bát tú, kèm theo bản dịch của nữ thi sĩ Bỉ Simone Kuhnen de La Coeuillerie, nxb Nguyễn Khang.1962: Tự xuất bản tập Trời Một Phương.1963: Xuất bản tập Thi Tuyển (nhan đề Pháp ngữ là Poèmes Choisis) kèm theo bản dịch của Simone Kuhnen de La Coeuillerie: do nhà xuất bản Nguyễn Khang (tháng 3).Sáng tác bài thơ Lửa Từ Bi ca ngợi Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu, tháng 7. Xuất bản tập Lửa Từ Bi, do nhóm Thanh Tăng (tháng 12).1964: Tham dự hội nghị Văn Bút Á Châu họp tại Bangkok, thủ đô Thái Lan. 1965: Tham dự hội nghị Văn Bút Quốc Tế họp tại tỉnh Bled, Nam Tư cũ. 1966: Xuất bản tập Ánh Trăng Ðạo, do Nha Tuyên Úy Phật Giáo (tháng 7); xuất bản tập Die Achtund - Zwanzig Sterne, thơ dịch ra Ðức ngữ, do nhà Hoffmann Und Campe, tỉnh Hamburg, Ðức. Dịch giả là thi sĩ Áo Kosmas Ziegler (tháng 10).1967: Tham dự hội nghị Văn Bút Quốc Tế họp tại Abidjan, thủ đô Côte d'Ivoire (Phi Châu). Xuất bản tập Bút Nở Hoa Ðàm, do nhà xuất bản Vạn Hạnh (tháng 12). 1968: Xuất bản Nhị Thập Bát Tú I, nxb Văn Uyển; tập II, nxb Lửa Thiêng. Cành Mai Trắng Mộng, nxb Văn Uyển. 1969 - 1973: Chủ Tịch Trung Tâm Văn Bút Việt Nam.1970: Ta Ðợi Em Từ Ba Mươi Năm, nxb An Tiêm, Sài Gòn, in hai 2 lần. Tái bản tại California, Mỹ. Tân Thi, nxb Nam Chi, Sài Gòn; Loạn Trung Bút, tùy bút, văn diễn thuyết, nxb Khai Trí. 1971: Ngồi Quán, nxb Lửa Thiêng. Ðời Vắng Em Rồi Say Với Ai, nxb Lửa Thiêng (Phần I: Tuổi học trò, 17 bài thơ đầu tay 1936 - 1939).1974: Chúng Ta Mất Hết Chỉ Còn Nhau, nxb Rừng Trúc, Paris. Ta Ðã Làm Chi Ðời Ta, hồi ký, nxb Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn. Nxb Hội Nhà Văn tái bản, TP/HCM, 1993.1975: Gia đình từ đường Phan Ðình Phùng dời về Phú Nhuận ở nhà bà Mộng Tuyết, rồi dời về Khánh Hội ở chung với bà Ðinh Hùng, em dâu. 1976: Bị bắt ngày 13/4, giam tại khám Chí Hòa. Bệnh nặng đưa về nhà một thời gian ngắn thì mất, lúc 23 giờ ngày 6.9.1976, nhằm ngày 13 tháng 8 năm Bính Thìn. Bà Vũ Hoàng Chương qua đời ngày 7/5/2005 tại TP/HCM. Ðặng Tiến (sưu tầm và cập nhật Orléans, Tết Dương lịch 2007)<
Vũ Hoàng Chương xuất hiện vào giai đoạn cuối của thời kỳ tiền chiến. Thi phẩm đầu tay của ông Vũ ra đời vào năm 1940, thì Hoài Thanh và Hoài Chân viết về thơ ông vào năm 1941 và Vũ Ngọc Phan viết xong quyển 3 của bộ Nhà Văn Hiện Ðại vào năm 1942. Vậy các nhà phê bình kể trên nói về Vũ Hoàng Chương trẻ, còn chúng ta đang nói về ông Vũ sau 1954, tức thị một Vũ Hoàng Chương già đây chăng? Không hề có chuyện ấy. Không làm gì có một Vũ Hoàng Chương già hơn ông Vũ thuở đôi mươi. Vừa ló ra góp mặt với đời, ông đã già tức khắc. Xuất hiện sau cùng, ông thuộc hạng thi sĩ già nhất thời tiền chiến. Tôi không bịa chuyện lạ để đùa cợt chế giễu ông. Lúc sinh thời ông nghiêm chỉnh khả kính, ngày nay ông đã ra người thiên cổ, tôi không dám thế đâu. Bảo ông Vũ già, là Hoài Thanh và Vũ Ngọc Phan. Họ bảo thế từ hơn nửa thế kỷ trước; không phải tôi. Vũ Ngọc Phan viết: "Thơ ông là thơ của một thanh niên mà nhiều lúc giọng già cóc cách", viết thế nhiều lần trong một bài. Và chính Vũ Hoàng Chương cũng kêu nào "đời tàn trong ngõ hẹp", nào "đời hiu hiu xế tà", nào "xuân đời chưa hưởng kịp, mây mùa thu đã sang". Cũng chính ông Vũ kêu:Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết Một ván cờ thua ngã bóng chiều v.v...Ba mươi tuổi mà đã hết duyên? Thật ra bấy giờ ông đâu đã tới ba mươi tuổi! Cuốn Mây in năm 1943, ông mới hăm bảy; các bài "Ðời tàn ngõ hẹp", "Ngoài ba mươi tuổi" phải viết trước đó, vậy viết từ ngày ông hăm bốn hăm lăm chứ mấy! Ðời sao mà tàn, bóng chiều sao đã ngả, ván cờ đời sao đã kể là thua sớm quá vậy?"Giọng già cóc cách" thế nào không rõ. Nhưng xem cái ý nghĩ của ông thì thấy già rành rành. Nếu ý đã già, giọng cũng già (cóc cách) nữa thì đích thị già trọn vẹn rồi, còn gì nữa? Vũ Hoàng Chương không những già, lại còn xưa. Hoài Thanh ngờ rằng "Vũ Hoàng Chương định nối cái nghiệp những thi hào xưa của Ðông Á." Lại nghĩ rằng: "trụy lạc hay say sưa đều mang theo một niềm ngao ngán. Niềm ngao ngán ấy ta vốn đã gặp trong thơ xưa. Duy ở đây nó có cái vị chua chát, hằn học và bi đát riêng."Trụy lạc hay không trụy lạc, say sưa hay không say sưa, ngao ngán hay không ngao ngán, Vũ Hoàng Chương đều có thể xưa. Ngay trong yêu đương, ca hát, ông cũng có cốt cách một người xưa. Xưa trước ông chừng hai nghìn năm chẳng hạn. Mất Kiều Thu, chàng thanh niên trong tuổi đôi mươi ngồi vỗ chậu hát nghêu ngao hệt Trang Tử! Chàng hát hổng ra sao? Do ré mi fa sol chăng? Không. Chàng hát xế xừ cống xự xang v.v... Chàng mơ gái Tầm Dương, nhắc tích Tây sương, chàng kể chuyện sông Tương, Kinh Kha, Tần Thủy Hoàng v.v...Giữa chừng câu ca thỉnh thoảng chàng nện xuống một tiếng "hề" (Thơ Việt Nam có độ lổn nhổn rất nhiều "hề"; tôi có cảm tưởng là phong trào "hề" thịnh hành từ sau ông Vũ?)Vũ Hoàng Chương lớn lên gặp lúc nước nhà trải qua nhiều đổi thay lớn lao. Thanh niên thế hệ ông xài nhiều các danh từ: cách mạng, cao trào, tự do, dân chủ, đấu tranh, tiến bộ v.v... Còn ông Vũ thì ông hay nói đến chuyện ... làm vua. Vâng, chính ông làm vua. Tên ông lót chữ Hoàng, ông thường tự xưng là Hoàng ("Tố của Hoàng ơi"). Hoàng, chiết tự thành ra Bạch Vương. Người yêu của ông có kẻ tên Khanh, ông xưng hô như thể là vua với hoàng hậu, nghe hách lắm, thích lắm:Hoặc: Ðêm nào, Khanh nhỉ! tình ta mới Hà nội đèn treo đỏ phố phường (Nhớ cố nhân) hoặc: Lớp lớp tình ta đã sóng xiêu Mắt Khanh càng đắm đuối bao nhiêu (Hợp tan)Ông Vũ nghĩ thế thì hãy biết thế. Thực ra có phải mấy bận viếng hồ Ba Bể mà gieo nổi một ý thức bộ lạc? Trong cả ban nhạc sinh viên, mấy kẻ được chọn gieo mầm? còn những kẻ khác? còn tất cả dân cư miền Bắc Cạn có mang cái mầm ấy không?Dù sao cái xưa của Ðinh Hùng đã có Vũ Hoàng Chương giải thích. Còn cái xưa của Vũ Hoàng Chương, ai đứng ra giải thích đây? Không biết. Chỉ dám biết không phải tôi.Ấy là riêng nói về giới thi sĩ. Nếu kể rộng ra đến văn giới, thì ông Vũ còn một bạn chí thân nữa: Nguyễn Tuân. Cũng lại một "người xưa". Là người phục hồi vang bóng của một thời dĩ vãng. Là người dựng nên những câu chuyện hoang đường quái dị, đặt nó vào khung cảnh ông thần núi Tản Viên, thời nàng tiên xác ngọc hát lanh lảnh giữa rừng đó v.v... Thế rồi mùa thu 1945 xảy đến, ông văn sĩ ở lại khúm na khúm núm dưới chân lãnh đạo, đổi họ Nguyễn ra họ sợ, tự vặt râu vặt ria, thoắt cái biến thành người mới. Còn ông Vũ với ông Ðinh, hai thi sĩ vào Nam thì được yên lành, tha hồ tiếp tục già, tiếp tục xưa.Cái già cái xưa không phải của một ông Vũ mà ít nhất liên kết cả ba tên tuổi lớn, phải chăng đó là một xu hướng văn nghệ của giai đoạn cuối thời tiền chiến? Tại sao nẩy sinh ra cái xu hướng ấy? Các cụ thời Ðông Dương, Nam Phong thì đạo mạo, nhóm Phong Hóa, Ngày Nay đã mang tiếng cười đến làm trẻ trung hóa không khí văn nghệ, tại sao tiếp liền ngay sau đó văn nghệ lại vội vàng quơ râu đeo vào? Ai là kẻ tình nguyện giải thích hiện tượng này? Không biết. Chỉ dám biết đó không phải công việc tôi lúc này.Lúc này chỉ xin ghi nhận một khía cạnh tâm hồn của Vũ Hoàng Chương, cái khía cạnh không thay đổi suốt đời ông.*Ở Vũ Hoàng Chương, một đặc điểm khác cũng đeo dính vào ông suốt một đời. Ðó là lời nói trau chuốt, cầu kỳ. Từ thuở ban đầu, thơ ông đã bày rõ cái sở trường (và sở đoản) ấy. Vũ Ngọc Phan chê ông gọt dũa kỹ quá cho nên lời thơ "lẽ tự nhiên" kém thành thực, ít làm cho người đọc cảm động; chê thơ ấy có hay chăng là hay nhờ nhờ chữ khéo chọn nhờ âm điệu nhịp nhàng, chứ không hay về ý, về những rung cảm của thi nhân.Bảo rằng Vũ Hoàng Chương không có ý hay và không có rung cảm sâu, tôi không dám tán thành: ông Vũ này đã bất công với ông Vũ kia. Nhưng bảo rằng Vũ Hoàng Chương gọt dũa kỹ thì quả có thế. Quả lời thơ của ông không bao giờ là lời giản dị tự nhiên. Vũ Hoàng Chương có thể nói thuộc vào số thi sĩ Việt Nam có những lời thơ đẹp đẽ nhất. Ðẹp đẽ một cách cầu kỳ và kiêu kỳ. Vũ Hoàng Chương và Nguyễn Bính đứng ở hai thái cực. Vũ ông thích gọt dũa, khoái trau chuốt, mê say xoa nắn chữ nghĩa. Chàng trai họ Vũ ham tỉa chữ cũng như cậu bé Khổng Khâu ham bày trò cúng bái. Ai có khiếu nấy. Lớn lên Khổng Tử soạn kinh Lễ, về già Vũ ông tỉ mẩn bày ra thơ nhị thập bát tú với thơ truyền Kiều. ("Nhị thập bát tú" tức bài thơ 28 chữ; về hình thức, là một bài thất ngôn tứ tuyệt. "Truyền Kiều" cũng là bài thơ thất ngôn bốn câu, lời thì lấy từng mảng từ những câu lục bát trong Truyện Kiều ra. Vũ ông, khi làm thơ "truyền Kiều" thì tự xưng là "Người Truyền"!)Khi người ta đã tỉ mỉ gọt tỉa ra vài chục lời thật điêu luyện, thì việc nảy ra cái ý nắn nót trình bày những lời châu ngọc ấy dưới dạng chữ thật đẹp, trên nền giấy trang nhã, cũng là tự nhiên. Thế cho nên Vũ Hoàng Chương (cũng như Ðông Hồ) thường thực hiện những công trình thi họa rất được yêu quí trong văn giới: tờ hoa, bút lông, mực tàu, triện son, chữ ký bay bướm ... Những trang thơ như thế hoặc để trưng vào tờ báo xuân, hoặc lồng vào khung kính treo ở thư phòng. Chuyện ấy nhắc đến những thiếp Lan Ðình, đến truyện nét chữ của người tử tù ngày trước (lại trước, lại xưa). Chữ quốc ngữ được trao cho vai trò trang trí, được đua vào tranh, vào thế giới hội họa! Lần đầu tiên ... Ba bốn trăm năm trước, khi lũ chữ móc ngoéo vào nhau, lòng thòng lượt thượt ấy theo chân các ông cố đạo rậm râu kéo vào cái xứ Ðông phương lạ hoắc này, chúng có bao giờ mơ ước tới cái vinh quang lớn đến thế! Kể ra trong cái thú chơi chữ này, Vũ Hoàng Chương cũng không bơ vơ. Trước 1945, ở Bắc, vẫn ông bạn Nguyễn Tuân của ông từng được biết rộng rãi về những trang chữ và những tập bản thảo viết đẹp, trình bày cầu kỳ. Sau 1954 cùng vào Nam với ông có Vũ Khắc Khoan có Mai Thảo văn chương cũng nắn nót (có khi uống éo) kỹ lắm; và rồi, ngoài người bạn cao niên là Ðông Hồ ra, sau đó lại có bao nhiêu đàn em tiếp nối truyền thống bút lông mực tàu vẽ chữ quốc ngữ. Tiếp nối cho đến ngày nay, ra đến ngoài bờ cõi xứ sở.Văn gọt dũa thì kém thành thực, thì thiếu ý tân kỳ, thiếu rung cảm sâu sắc? Không hẳn vậy đâu. Ðọc những câu trước 1945 như:" ... Chiều tàn trong ngõ hẹp Mưa lùa gian gác xép Ngày trắng theo nhau qua Lá rơi đầy ngõ hẹp Ðời hiu hiu xế tà ... "hay: "Nằm say nhựa tỏa cánh xiêu xiêu Giường thấp nghe trời xuống tịch liêu ..." mà bảo là rung cảm không sâu không thấm thía được sao?Ðọc những câu sau 1945 như: " ... Lịch treo giữa ngực kêu thành tiếng Chẳng tiếng nào nghe khác tiếng mưa ... Thời gian từng giọt buông theo máu Lại trở về, không gọi cũng thưa Còn đó mười hai, còn tháng sáu ... Ba mươi năm lẻ vẫn chưa vừa! ..." mà bảo là không có ý hay tứ lạ được sao?Chăm chút cái đẹp của câu thơ trong ngót bốn chục năm trời, Vũ Hoàng Chương có chủ trương nhất định, không phải mấy lời chê bai của Vũ Ngọc Phan mà lay chuyển được. Ông cho rằng thơ phải có vần có điệu, cái vần điệu thích hợp với tâm hồn dân tộc mình. Ông không chịu được thơ tự do, như đã được khởi xướng sau Genève ở miền Nam. Ông bảo chẳng mong có anh cày ruộng chị gặt lúa ru con nào mà buột miệng ngâm thơ Thanh Tâm Tuyền với Nguyên Sa v.v... "Các nhà thơ của trường phái tự do còn phải tranh đấu gian nan mới chiếm được cảm tình của đại chúng." Thơ tự do có thể được nói đến trong sách văn học nhưng "đi vào văn học sử đâu có khó bằng đi hẳn vào lòng người, đâu có bất diệt bằng đi hẳn vào tâm hồn dân tộc." Ông rộng lượng an ủi: "Không phải thơ tự do bị bỏ rơi! Không!" và "Thơ tự do nếu trong sáng, chân thành, vẫn có rung động được lắm." Nhưng tính ông thẳng thắn, nên rốt cuộc vẫn không giấu được nhận định chủ yếu, nó gần như câu xử tử thơ tự do. Nhận định rằng thơ tự do nổi lên thành phong trào từ 1956, "và chỉ một vài năm sau trên thi đàn Việt Nam lại tràn ngập những tiết điệu quen thuộc." Tiết điệu quen thuộc tức những thể thơ cũ, trong đó ông chú trọng nhất là thể lục bát. "Ðến hôm nay thì có thể bảo thơ lục bát đã trở thành Thơ-Hôm-Nay."Ông Vũ vừa không nén được một nụ cười ranh mãnh, mặc dầu bấy giờ ông đang trang nghiêm đọc lời phát biểu trong ngày kỵ thứ 149 của Nguyễn Du, do phủ Quốc Vụ Khanh Ðặc Trách Văn Hóa tổ chức.Trong nửa đầu thế kỷ ở nước ta, cho đến cuối thập niên 30, hoạt động văn học chuyển từ lớp cựu học sang lớp tân học, từ kiến thức và kỹ thuật của Ðông phương sang Tây phương, câu văn từ du dương trầm bỗng sang giản dị tự nhiên, đa số văn nhân tiêu biểu thuộc hạng trí thức trung lưu, xu hướng tinh thần nhằm con đường canh tân tiến bộ. Từ các cụ Phan Kế Bính, Nguyễn Ðỗ Mục, Nguyễn Bá Học ..., cho đến Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ v.v... là thế.Nhưng sau đó một thế hệ, chợt có sự chia tách đột ngột. Một bên, những người như Nam Cao, Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng ...; một bên nữa là Nguyễn Tuân, Ðinh Hùng, Vũ Hoàng Chương v.v... Bên này tách khỏi giới trí thức trưởng giả, giới tiểu tư sản, chọn đứng về phía tầng lớp nghèo khổ, dấn thân vào đấu tranh; bên kia lại tránh xa các tranh đấu xã hội, lại chọn thái độ nhàn du phóng dật. Bên này là nghệ thuật vị nhân sinh; bên kia chủ trương phục cổ, duy mỹ.Nguyên nhân nào đưa tới sự phát sinh những xu hướng văn học đối ngược nhau vào thời điểm ấy? cái phải cái quấy của mỗi bên ra sao? Ðó cũng không phải công việc của chúng ta hôm nay. Ở đây chẳng qua ta chỉ nhận định cái vị trí của ông Vũ trong văn giới bấy giờ.Vũ Hoàng Chương, ngay từ buổi đầu cầm bút, đã chọn chỗ đứng dứt khoát, đã có biệt sắc rõ rệt, có chủ trương minh bạch. Và cứ thế cho đến tận cuối đời, ông Vũ vẫn một ông Vũ ấy, bất tất phân biệt già với trẻ.* Nói một bên dấn thân một bên phiêu du, như vậy không có nghĩa cho rằng Vũ Hoàng Chương thoát ra ngoài thế sự, lòng không bận đến cuộc hưng vong của quốc gia.Ông không nuôi trong lòng cái oán thù sùng sục của kẻ nghèo đối với người giàu, ông không đứng vào hàng ngũ giai cấp này chống giai cấp nọ, ông không ca ngợi ánh sáng của chủ nghĩa này, không tố cáo chủ nghĩa kia v.v... Nhưng ông đâu có bao giờ thờ ơ đối với chuyện đất nước. Sao vàng xòe năm cánh trên năm cửa ô, ông mừng vui ngây ngất. Giặc Tây tràn đến, ông khẳng khái đòi trả ta sông núi. Nhà cầm quyền cộng sản thiết lập chế độ độc tài khát máu, ông phừng phừng kêu gọi Bắc tiến. Một tôn giáo gặp khó khăn, ông ca ngợi lửa từ bi, đốt "thơ cháy lên theo với lời kinh". Cuối cùng khi miền Nam mất vào tay cộng sản thì ông đi tù, chịu chết, không thay đổi thái độ.Vũ Hoàng Chương cũng như Nhất Linh, những người quan niệm làm thơ cốt cho đẹp viết truyện trước hết cốt cho được truyện hay, những người chơi lan ở suối Ða Mê, hút thuốc ở gác mây v.v..., những người ấy không ngại cái chết vì nước non. Từ một quan điểm nghệ thuật mà suy diễn đến nhân cách, đến thái độ ở đời, thái độ chính trị của người ta, e là chuyện phiêu lưu.Giữa Nhất Linh và Vũ Hoàng Chương có đôi điều ngộ nghĩnh. Nhất Linh về sau suy đi xét lại, bèn thay đổi hẳn quan niệm sáng tác của mình, viết sách vạch kẽ những sai lầm của mình trước kia. Vũ Hoàng Chương không hề làm thế. Ông làm trái lại! Năm 1969, vào lúc năm mười ba tuổi, viết lời mở đầu cho cuốn Ta Ðợi Em Từ Ba Mươi Năm, ông xác nhận "đặc biệt ưa thích" những bài thơ tình viết trước buổi qua phân đất nước (1954), nghĩa là viết vào khoảng đôi ba mươi tuổi. (Ta Ðợi Em Từ Ba Mươi Năm là tuyển tập do chính tác giả lựa lấy những bài đã in ở các cuốn Thơ Say, Mây, Rừng Phong, Hoa Ðăng và Trời Một Phương. Hai thi phẩm sau xuất bản năm 1959 và 1962, nhưng các bài được chọn là những bài viết từ trước 1954.) Năm 1985, một số thân hữu và môn sinh của ông ở Hoa Kỳ cho tái bản tuyển tập nói trên; Vũ phu nhân (trong lá thư đề ngày 14-10-1985) đã viết: "Trước khi mất anh Chương cũng căn dặn tôi rằng: 'Tất cả những tác phẩm của tôi chỉ cần giữ lại một cuốn Ta Ðợi Em Từ Ba MươI Năm là đủ rồi.' Bây giờ các bạn của anh lại tái bản đúng cuốn đó, vong hồn anh Chương cũng được ngậm ngùi nơi chín suối."Như thế, trong khi Nhất Linh vượt bỏ những thành tích buổi đầu, thì Vũ Hoàng Chương lại bỏ phiếu cho thi nghiệp sơ khởi của mình. Ấy là vì trước sau ông Vũ không thay đổi chủ trương; trong khi đó năm tháng làm cơ thể ông suy nhược, tình cảm ông vơi cạn dần. Trong thơ ông vào giai đoạn sau có nhiều suy tưởng hơn cảm xúc, nhiều chữ nghĩa hơn ý tình. Thơ đẹp vẫn đẹp, điêu luyện vẫn điêu luyện; nhưng càng ngày thơ càng hướng về phía trò chơi. Ông thành ra thiện nghệ về thơ thù tạc: ông xướng họa, ông liên ngâm, ông "truyền Kiều", ông "chuyển ngữ" ... "Chuyển ngữ" thơ cổ nhân và "chuyển ngữ" ngay cả thơ của chính ông làm bằng chữ Hán. Ông rất mực tài tình trong các thú vui tỉ mẩn ấy. Nhưng vừa thực hiện những công trình tuyệt diệu như thế, ông vừa tiếc nuối thời đã qua.Năm 1982 trên một số báo Ðất Mới xuất bản ở Seattle (tiểu bang Washington) tưởng niệm Vũ Hoàng Chương, bà Quỳ Hương nhắc lại câu chuyện hồi năm 1960, tại trung tâm Bút Việt ở Sài Gòn, khi giới thiệu diễn giả là Vũ Hoàng Chương nói về thi ca, Nhất Linh đã gọi Vũ thi sĩ là "ông vua thơ". Thi sĩ tiền chiến đã bao người xuất hiện và thành danh trên báo Ngày Nay, hay từ nhà xuất bản Ðời Nay củA Nhất Linh: Thế Lữ, XuâN Diệu, Huy Cận ... Giữa bấy nhiêu tài danh, được Nhất Linh chọn phong vương! Vũ Hoàng Chương tiền chiến có cái thành tích đáng sợ chứ.Sau tháng 4-1975, một hôm Mai Thảo đến Gác Bút ở Khánh Hội, trông thấy một Vũ Hoàng Chương mệt nhoài, nằm thiếp trên sàn. Hỏi thì được biết ông vừa đến nhà Mộng Tuyết bên Gia Ðịnh về. Cố gắng đến vì có ông Ðào Duy Anh từ miền Bắc vào nhắn lời rất muốn gặp, và rất muốn có một tập Rừng Phong. Ông Vũ kể rằng hôm ấy ông Ðào đã nói với ông: "Thơ, trước sau tôi vẫn chỉ yêu nhất có hai người. Là anh và Lý Bạch." (Ðất Mới tháng 5-1982).Như thế Vũ Hoàng Chương tiền chiến mãi sau này vẫn được danh gia trong văn giới trọng vọng rất mực, được xếp ngang hàng với thi tiên bên Trung quốc, được tôn làm thi vương thi đế. Vũ Hoàng Chương tiền chiến được người trọng, và cũng được chính ông tự yêu thích; còn Nhất Linh tiền chiến, sau Genève từng có độ gặp một phong trào đả phá chê bai, và ngay chính ông, ông cũng không bằng lòng các tác phẩm thời trước của mình.Giữa Vũ Hoàng Chương và Nhất Linh có chỗ khác nhau như thế, cũng lại có chỗ giống nhau. Kể ra chỗ giống nhau là điểm tâm lý chung của hầu hết các văn thi sĩ tiền chiến ở miền Nam sau 1954: Các bậc tiền bối ấy có cảm tưởng là mình bị thế hệ sau bỏ rơi. Nhất Linh tâm sự với Nguyễn Vỹ là lớp trẻ không hiểu mình, Vũ Hoàng Chương than với Nguyễn Mạnh Côn trong một cuộc phỏng vấn rằng ông từng có lúc muốn chết vì thấy mình sống không cần thiết, thơ viết chẳng có người đọc (xem Văn Học Miền Nam - Tổng quan). Quách Tấn cũng cảm thấy niềm cô đơn ấy:"Thơ không người thưởng thức Mình chép riêng mình ngâm" (Chép thơ)Trong hiện tượng ấy có điều đáng suy nghĩ: Ngay hồi tiền chiến, vào thời điểm xuất hiện của Quách Tấn và Vũ Hoàng Chương thì thơ của họ cũng đã "già", đã "xưa" lắm rồi, tại sao nó không hề lỗi thời mà lại tức khắc làm nên danh tiếng lẫy lừng của họ chính vào thời đại của thơ mới? để rồi mười năm sau thình lình nó hóa cũ cách tức tưởi?*Một con sói già không còn săn được mồi nữa, một lão ngư ông bất lực ngoài biển cả, một nhà văn không sáng tác được vì không bắt kịp thời đại ..., là cả một thảm kịch. Ðã có những văn nhân thi sĩ không chịu đựng được cảnh ấy. Ông Vũ chắc chắn không có ý định "dọa" ông Nguyễn Mạnh Côn. Huống hồ về sau, sau 4 -1975, ông còn gặp những đày đọa nghiệt ngã. Nói về Vũ Hoàng Chương mà không một hồi tưởng về những đau đớn cuối đời ông, mà chỉ toàn chuyện vần với điệu lời với tứ, e tàn nhẫn.Sau tháng 4 - 1975, cái xã hội quanh ông trông chẳng ra làm sao: "Tối chưa tối hẳn, sáng sao đành Gà lợn om sòm cả bức tranh Rằng vách có tai, thơ có họa Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh? Mắt gà huynh đệ bao lần quáng Lòng lợn âm dương một tấc thành Thôi hãy im đi đừng ủn ỉn Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh." (Vịnh Tranh Gà Lợn)và nhìn lại bản thân mình (trong lao tù) thì thật bi đát: "Từ độ vào đây tháng đã mòn Lông hồng gieo xuống nhẹ dường non Một manh chiếu lỉa hồn ngây ngất Ba chén cơm rau xác mỏi mòn Ngày đến bữa ăn càng nhớ vợ Ðêm về giấc ngủ lại thương con Bao nhiêu nước chảy qua cầu nữa Chẳng dễ gì phai được tấm son."Có mấy người bạn đã lui tới với Vũ Hoàng Chương trong những tháng sau cùng ở Sài Gòn kể rằng ông Vũ và phu nhân và người con đã sẵn thuốc độc, nhiều lần toan tính cùng chết với nhau. Việc ấy chưa kịp thực hiện thì ông bị bắt, rồi hơn một tháng sau bài thơ tuyệt mệnh trên đây, ông ra đi một mình.Mười lăm năm sau, trên tạp chí Làng Văn, số xuân năm Tân Mùi, Ðào Trường Phúc có bài tùy bút thật cảm động. Bài viết về Vũ Hoàng Chương, người thầy cũ của ông: "Theo học ban C của Chu Văn An là một trong những ước nguyện lớn nhất của tôi lúc bấy giờ, vì một lý do rất đơn giản: điều đó có nghĩa rằng một năm sau tôi sẽ được theo gót anh tôi, trở thành học sinh Ðệ Nhị C, lớp duy nhất của bậc Trung học tại Sài Gòn được học Việt văn vớI Giáo sư Vũ Hoàng Chương. Ngót ba chục năm sau, mỗi khi gặp lại những bạn bè đồng song và cùng nhau nhắc lại những kỷ niệm dưới mái trường xưa, tôi đều nghiệm ra rằng hình ảnh của "Thầy Chương" là một trong những hình ảnh được tất cả học trò ban C Chu Văn An ghi nhớ một cách thuần nhất và bền bĩ hơn cả."Ông Ðào Trường Phúc nhắc lại một số kỷ niệm, và phân tích cái cảm tình của ông đối với thầy. Ông nhớ bộ đồ thầy mặc, chiếc cặp da thầy cầm, khuôn mặt xương xương bước chân lững thững giọng nói nhỏ nhẹ nụ cười nhẹ nhàng của thầy.Khi đã ra đời, thỉnh thoảng có dịp đến thăm thầy cũ, "trong khi nghe những lời ông nói, những câu thơ ông đọc, tôi bắt gặp trở lại niềm sung sướng và xúc động của ngày xưa, khi tôi còn ngồi trên ghế nhà trường và ngước mặt nhìn dáng dấp ông trên bục giảng. Trong lòng tôi của thời gian ấy, không phải chỉ có sự ngưỡng mộ nhà thơ Vũ Hoàng Chương như trong thời tôi mới lớn, mê thơ ông và ước ao được trở thành học trò của ông. Phải nói là tôi yêu thương ông cũng như yêu thương từng vần thơ của ông (...)"Tôi sung sướng chép lại từng đoạn dài trong bài tùy bút của Ðào quân, một mặt vì những lời như thế hẳn làm vong hồn thi sĩ "được ngậm cười nơi chín suối" như Vũ phu nhân từng nói; mặt khác những lời ấy có thể giải tỏa cảm tưởng nặng nề u ám nơi chính mình, giải tỏa nỗi buồn se thắt hiu hiu trong lòng mình khi đối diện sự nghiệp và cuộc đời một con người, một lớp người tài hoa, lỗi lạc, bị kẹt vào hoàn cảnh éo le.Trong cuốn Văn Học Pháp (Littérature Francaise, tập 9) tác giả bảo 80% các tác phẩm văn nghệ bị quần chúng quên lãng ngay trong năm đầu tiên vừa ra đời, và hai mươi năm sau thì tỉ số bị đời quên lãng là 90%. Từ khi cuốn Say của Vũ Hoàng Chương xuất bản (1940) cho đến mấy lời thương tiếc của Ðào Trường Phúc hơn nửa thế kỷ đã trôi qua."Bao nhiêu nước chảy qua cầu nữa Chẳng dễ gì phai một tấm son."Võ Phiến (Văn Học Miền Nam - Thơ, NXB Văn Nghệ 1999)
BÀI CA BẮC BÌNHKể từ đây đã sáu mươi ngàn lần Mặt trời mọc ở phương Ðông ngùn ngụt lửa Mặt trời lặn ở phương Ðoài máu chứa chan.Kể từ đây cũng đã sáu mươi ngàn lần Trăng tỏ bóng nơi rừng thiêng đất Bắc Trăng mờ gương nơi đồng lúa miền Nam.Ruộng dâu kia bao độ sóng dâng tràn Hãy dừng lại thời gian Trả lời ta - có phải Dưới vầng nguyệt lạnh lùng quan ải Dưới vầng dương thiêu đốt quan san. Sóng hưng phế xô nghiêng từng triều đại Mà chí lớn dọc ngang Mà mộng lớn huy hoàng Vẫn nghìn thu còn mãi Vẫn nghìn thu người áo vải đất Quy Nhơn.Ôi người xưa Bắc Bình Vương Ðống Ða một trận năm đường giáp công Ðạn vèo năm cửa Thăng Long Trắng gò xương chất đỏ sông máu màng Giờ đây lại đã xuân sang Giữa cố quận một mùa xuân nghịch lữ Ai kia lòng có chợt mang mang Ðầy vơi sầu xứHãy cùng ta Ngẩng đầu lên Hướng về đây tâm sự Nghe từng trang lịch sử thét từng trang.Một phút oai thần dậy sấm Tan vía cường bang Cho bóng kẻ ngồi trên lưng bạch tượng Cao chót vót mây năm màu chiêm ngưỡng Dài mênh mông một dải tới Nam QuanBóng ấy đã in sâu vào tâm tưởng Khắc sâu vào trí nhớ của nhân gian Một bành voi che lấp mấy ngai vàng Ôi Nguyễn Huệ người anh hùng áo vải. Muôn chiến công một chiến công dồn lại Một tấm lòng muôn vạn tấm lòng mang Ngọn kiếm trỏ bao cánh tay hăng hái Ngọn cờ rung bao tính mệnh sẵn sàng Người cất bước cả non sông một dải Vươn mình theo dãy hoành sơn mê mải Chạy dọc lên thông cảm ý ngang tàng Cùng chồm dậy đáp lời hô vĩ đại Chín con rồng bơi ngược Cửu Long Giang Người ra Bắc oai thanh mờ nhật nguyệt Khí thế kia làm rung động càn khôn Hịch ban xuống lời lời tâm huyết Lệnh truyền quân ai dám bước chân chồn. Gươm thiêng cựa vỏ giặc không mồ chôn Voi thiêng chuyển vó nát lũy tan đồn Ôi một khúc hoàn ca, hề gào mây thét gió Mà ý tướng lòng quân, hề bền sắc tươi sonHưởng ứng sông hồ giục núi non “Thắt vòng vây lại” tiếng hô giòn Tơi bời máu giặc, trăng liềm múa Tan tác xương thù, ngựa đá bonSim rừng, lúa ruộng, tre thôn Lòng say phá địch, khúc dồn tiến quân Vinh quang hẹn với phong trần Ðống Ða gò ấy mùa xuân năm nào Nhớ trận Ðống Ða hề thương mùa xuân tới Sầu xuân vời vợi Xuân tứ nao nao Nghe đêm trừ tịch hề, máu nở hoa đào Ngập giấc xuân tiêu hề, lửa trùm quan tái Trời đất vô cùng hề, một khúc hát ngao Chí khí cũ gầm trong da thịt mới Vẳng đáy sâu tiềm thức, tiếng mài dao Ðèo Tam Ðiệp hề, lệnh truyền vang dội Sóng sông Mã hề ngựa hí xôn xao Mặt nước Lô Giang hề, là trầm biếc khói Mây núi Tản Viên hề, lọng tía giương cao Rằng: “Ðây bóng kẻ anh hào Ðã về ngự trên ngã ba thời đại” Gấm vóc giang sơn hề, còn đây một dải Thì nghiệp lớn vẻ vang Thì mộng lớn huy hoàng Vẫn ngàn thu còn mãi Ôi ngàn thu người áo vải đất Quy Nhơn Nay cuộc thế sao nhòa, bụi vẩn Lũ chúng ta trên ngã ba đường Ghi ngày giỗ trận Mơ BẮC BÌNH VƯƠNG Lòng đấy thôn trang hề, lòng đây thị trấn Mười ngã tâm tư hề, một nén tâm hương Ðồng thanh rằng: “Quyết noi gương”Ðể một mai bông thắm cỏ xanh dờn Ca trống trận thôi lay bóng nguyệt Mừng đất trời gió bụi tan cơnChúng ta sẽ không hổ với người xưa Một trận Ðống Ða ngàn thu oanh liệt Vì ta sau trước lòng kiên quyết Vàng chẳng hề phai đá chẳng sờn. :: Bài Ca Sông DịchĐời lắng nghe đây trầm tư hồn bể dâu Bàng bạc trường giang lạnh khói Ðìu hiu điệp khúc ly sầu. Ðã mấy thời gian nằm u hoài sông Dịch Tiễn kẻ một đi người kiếm khách Ðông Châu. Ôi sông ngát dư linh trải bao đời có biết Hào khí ai xưa giờ vang bóng nơi đâu? Phải chăng ngươi, phải chăng kìa dấu vết Tinh anh rờ rỡ ngàn sau. Nước trôi đây, nước trôi bờ cõi Việt Âm u rợn tiếng ghê màu. Ai tráng sĩ bao năm mài gươm dưới nguyệt Còn tưởng nghe hồn thép múa sông sâu.Kinh Kha hề Kinh Kha Vinh cho người hề! ba nghìn tân khách Tiễn người đi tiếng trúc nhịp lời ca. Biên thùy trống giục Nẻo Tần sương sa Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà. Buồn xưa giờ chưa tan Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn Bạch vân! Bạch vân! kìa ngang rừng phất phới Ôi màu tang khăn gói lũ người Yên Nhịp vó câu nẻo Hàm Dương tung bụi Ta nghe, ta nghe! này cuồng phong dấy lên.Tám phương trời khói lửa Một mũi dao sang Tần Ai trách Kinh Kha rằng việc người đã lỡ? Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân? Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu Mà thương cho cánh tay thần? Ta chỉ thấy Tơi bời tướng sĩ Thây ngã hai bên Một triều rối loạn Ngai vàng xô nghiêng Áo rách thân run hề, ghê hồn bạo chúa Hùng khí át sao Ngâu hề, nộ khí xung thiên. Một cánh tay đưa mà danh lừng vạn cổ Hiệp sĩ Kinh Kha hề, người thác đã nên.Ta há quan tâm gì việc thành hay bại Thế gian ơi, kìa bãi bể nương dâu Cung điện Hàm Dương ba tháng đỏ Thành xây cõi dựng là đâu? Nào ai khởi nghiệp đế? Nào ai diệt chư hầu? Ca trùng lửa đóm cùng hoàn phản không hư Dù lăng ngà hay cỏ khâu. Riêng tồn tại với thời gian việc làm chính nghĩa Tranh sáng với trăng sao tấm lòng trượng phu Một nét dao bay ngàn thuở đẹp Dù sai hay trúng cũng là dư. Kìa uy dũng kẻ sang Tần không trở lại Ðã trùm lấn Yêu Ly hề, mờ át Chuyên Chư.Ôi Kinh Kha, hào khí người còn sang sảng Ðâu đây lòa chói giấc mơ Nước sông Dịch còn trôi hay đã cạn? Gương anh hùng vằng vặc sáng muôn thu.:: Tết Bính Thìn (1976)Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành Gà lợn om xòm cả bức tranh Rằng vách có tai, thơ có họa Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh Mắt gà huynh đệ bao lần quáng Lòng lợn âm dương một tấc thành Cục tác nữa chi ngừng ủn ỉn Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh.:: Thơ Khóc Tết (Họa Thơ Tản Đà)Ngoảnh đi ngoảnh lại lại đến Tết Ông đến độ này mới thật chết Gạo tẻ đong chịu nếp thì không Áo vợ rách tan chồng cũng hết Cỗ bàn duy có ba ông Công Xu kẽm thì không một vẩy hến Thì ra lúc túng văn càng hay Lại được một bài thơ khóc Tết. Tản ĐàBÀI HỌACậu ấm khóc đâu là khóc Tết Phải đâu núi Tản sông Đà chết Sông dù vặn được tuổi càng thêm Núi có dời đi duyên chẳng hết Kìa bánh đem lòng bóc giữa mâm Lại Rồng phun thuốc dâng đầy hến Thơ đang vời rượu bật lên cười Vang Bính Thìn Xuân Nam Việt Tết. :: Thơ Tự Thọ (Họa Thơ Dương Khuê)Năm mươi lăm tuổi hãy mừng ta Còn bốn mươi năm nữa đó mà Đội đức hải sơn ngày tháng rộng Gẫm mình râu tóc tuyết sương pha Cung đàn ả nguyệt còn yêu trẻ Chén thọ lăng xuân vẫn kính già Lộc nước ơn vua ban đã khắp Được riêng mạnh khỏe phúc nhà ta. Dương KhuêBÀI HỌASáu mươi hai tuổi hãy mừng ta Cũng trích tiên xưa tuổi ấy mà Đời đã xong rồi mau tịch mịch Sống chi nhiều nữa để phôi pha Văn chương đến buổi văn nằm ụ Tết nhất coi như Tết dối già Tái diễn năm nay màn "tróc nguyệt" Không chừng vai chính sẽ là ta. Xuân Bính Thìn 1976:: Thơ Cảm Xuân (Họa Thơ Nguyễn Khuyến)Năm nay tớ đã bẩy mươi tư Rằng lão rằng quan tớ cũng ừ Lúc hứng uống thêm ba chén rượu Khi buồn ngâm láo mấy câu thơ Bạn già lớp trước nay còn mấy Chuyện cũ mười phần chín chẳng như Cũng muốn sống thêm dăm tuổi nữa Thử xem trời mãi thế này ư. Nguyễn KhuyếnBÀI HỌADi cư từ một chín năm tư Đón Tết mừng xuân chỉ ậm ừ Có đất ngòi đây là đất hứa Gõ đầu trẻ cũng đứng đầu thơ Ngã ra thì ngã thân Từ Hải Chôn khó mà chôn mộng Tố Như Nợ đã sông Tiền xuôi ngọn nước Ai còn đeo đẳng khúc đuôi ư.:: Ba Trăm Năm Sau (Họa Thơ Bàng Bá Lân)Chắc gì ba trăm năm sau Dễ ai vào nổi cơn sầu nằm đâyĐọc mấy vần thơ gửi tới nhau Mà thương mà xót dạ thêm sầu Ta buồn nhìn nắng soi hiên vắng Mình giận nghe mưa rót mái lầu Ngõ hẹp sầu dâng vương lối cỏ Đời tàn bóng ngả xế nương dâu Ba trăm năm nữa ai tri kỷ? Hổ với người xưa, thẹn với sau. Bàng Bá LânBÀI HỌAThơ đoạn trường kia liệu khất nhau Vay không với hận, trả thêm rầu Thơ vay bằng huyết tan vào sử Ngọc trả thành mưa đọng dưới lầu Trước đã trời xanh vay má phấn Rồi xem biển lớn trả nương dâu Mình vay mình hãy riêng mình biết Để trả cho mình những kiếp sau.:: Hoàng Hạc Lâu (Dịch bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu)Xưa hạc vàng bay vút bóng người Đây lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi Vàng tung cánh hạc đi đi mất Trắng một màu mây vạn bạn đời Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi Gần xa chiều xuống đâu quê quán Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi.CẢM ĐỀ Hoàng Hạc Lâu - Nguyễn DuĐã bao giớ có hạc vàng đâu Mà có người tiên để có lầu Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở Làm Thôi Hiệu trước Nguyễn Du sau Hạc chưa bay khỏi mê hồn kịch Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu Trăng gió hão huyền như khói sóng Nồi kê chín tới nghĩ mà đau!:: Đọc lại Nguyễn DuVăn tự hà tằng vi ngã dụng Cơ hàn bất giác thụ nhân liênChẳng dùng chi được văn tài Thân này lụy áo cơm ai bất ngờ Phút giây chết điếng hồn thơ Nét đau mặt chữ bây giờ còn đau Chắc gì ba trăm năm sau Đã ai vào nổi cơn sầu nằm đây Nếu không cơm áo đọa đày Như thân nào thịt xương nào bỗng dưng Chết theo vào đến lưng chừng Say từng mảnh rớt mê từng khúc rơi Nửa chiều say ngất mê tơi Khúc đâu lơ láo mảnh đời thì vương.:: Đọc Thôi HộKhứ niên kim nhật thử môn trung Nhân diện đào hoa tương ánh hồngNgày này xưa cổng này đây Hoa đào má đỏ cùng lây ánh hồng Đã ngưng một điểm thời không Mở ra ngoài phía chiếc lồng thiên cơ Đón vào sâu tận cõi bờ Chưa ai vào được hay mơ được vào Chợt nghe má đỏ hôm nào Cười lên từ cổng hoa đào nhặt thưa Cổng ơi mở cũng bằng thừa Đừng tin kích thước gửi vào Đường thi Chàng Thôi ngắm hão rồi đi Một khung chết đứng mong gì ngàn sau.:: Thị LộTôi ở Tây Hồ bán chiếu gon Cớ chi ông hỏi hết hay cònCòn gì đây hết gì đây Chiếu nhà vua gái thơ ngây biết gì Chiếu gon ông hỏi làm chi Dệt nên tôi cũng bán đi là thường Hồ Tây còn nước còn gương Vai tôi còn chiếu tuy ...giường thì không Ông còn đất trải không ông Mà toan mua chiếu mất công hỏi người Sao ông không hỏi ông trời Hỏi thân này trước hỏi đời hôm nay Còn đem non nước làm rầy Cả chiêm bao, cả chiếu này nữa ư?:: Cao Bá QuátMinh nhật dục từ Nam phố đạo Hà nhân cánh xướng Bắc cung thanhĐường Thanh Nghệ Tĩnh chon von Nhịp ba cung Bắc ai còn hát đây Cánh chim lượng gió đong đầy Khói Hoàng đô thoắt liền mây Đế thành Rồng Lê, Phượng Nguyễn tung hoành Chẳng e lưu xú, chẳng dành lưu phương Ba hồi trống giục pháp trường Máu tuông phách đựng phố phường còn mưa Cơn buồn gió lọt mành thưa Mấy mươi giông bão cho vừa nhịp ba Nào ai đáng mặt danh ca Mời ai danh sĩ Bắc hà về nghe.:: Bà Huyện Thanh QuanNgười xưa cảnh cũ giờ đâu tá Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầuNước trong dòng đục thương ai Chiều sương gió tiễn sô gai bốn bề Yếm khăn đi cũng chẳng về Nghiệp văn chương ấy nặng nề đến đâu Lạ gì mưu lũ trọc đầu Cung vua dìm tiếng thơ sầu Thanh Quan Dễ gì khi qua đèo Ngang Chim kêu lại để gan vàng sót sa Mảnh tình riêng ta với ta Phải đâu tâm sự một bà Huyện thôi Nước còn chau mặt không trôi Hồn thu thảo láng chuông hồi cổ kim.:: Hồ Xuân HươngGiơ tay với thử trời cao thấp Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dàiĐo xem đất có dài chăng Với tay xem có thât rằng trời cao Ôi sau đây hận đây sao Văn chương hồ thỉ hôm nào tung hê Sầu không nở trắng hoa lê Hận không chôn chặt bên lề cỏ xanh Cán cân rơi mất thôi đành Túi càn khôn thắt được danh bao giờ Còn tên còn tiếng lửng lơ Còn son để yếm còn thơ để đời Sân đu cọc nhổ còn chơi Ngã ra lại có đất trời ở trong.:: Trước một ngày traoBè mây đã nát thu phong tứ Trùng cửu thơ còn trao ngất ngư Tháng cuối mùa trăng ngày hội hữu Năm đầu gác bút động hoa hư Thơ không thoái vị, trà say khướt Người vẫn đăng cao, mộng ngọt lừ Nam Bắc sương im đầy bóng nhạn May ra bệnh cũng xuống dần ư.