Sư Bà Chứng Nghiêm
Pháp sư tục danh Vương Cẩm Vân, pháp húy Chứng Nghiêm, hiệu Tuệ Chương, sinh ngày 11/05/1937 (Đinh Sửu) tại trấn Thanh Thủy, huyện Đài Trung, Đài Loan.
"Bất luận là ai, dẫu thế nào?
Nhân tình thế thái có ra sao?
Tấm lòng con Phật không dời đổi
Bảo bọc, thương yêu vẹn trước sau!"
Những lời khai thị này xuất phát từ tâm linh kiên định và chân thiện mỹ của Pháp Sư Chứng Nghiêm.
Thông qua việc đích thân tham gia trợ giúp cho nhân sinh chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, với tinh thần cần tuân theo chí nguyện, hành Bồ tát đạo kiên định của thầy, các chúng đệ tử luôn học tập và làm theo tấm gương đạo đức Pháp sư Chứng Nghiêm.
Lấy Từ bi Trí tuệ thanh lương của Phật Đà, kiên thành phụng hành tâm nguyện của Pháp sư:
Pháp sư tục danh Vương Cẩm Vân, pháp húy Chứng Nghiêm, hiệu Tuệ Chương, sinh ngày 11 tháng 5 năm 1937 (Đinh Sửu) tại trấn Thanh Thủy, huyện Đài Trung, Đài Loan.
Khi lên bảy tuổi, Pháp sư trải qua những cuộc không kích mà chiến tranh thế giới thứ hai mang đến khi Nhật Bản chiếm đóng Đài Loan. Những gì Pháp sư chứng kiến in sâu vào tâm trí thời non trẻ của mình đối với sự tàn ác của chiến tranh. Trong suốt những năm phát triển của mình, Pháp sư đã có rất nhiều câu hỏi về cuộc sống và ý nghĩa của nó.
Thuở nhỏ Pháp sư rất lanh lợi, 12 tuổi đã đãi lao được việc cực nhọc cho cha, giúp mẹ phân bổ việc nội trợ trong nhà.
Các bạn trẻ khắp cả trong thành phố, ai cũng đều biết Pháp sư là một cô con gái có tính thuần hậu, rất hiếu thảo với cha mẹ. Năm lên 15 tuổi, gia đình gặp chẳng lành. Khi mẫu thân của Pháp sư bị thủng dạ dầy cấp tính, cần phải phẫu thuật ngay, bệnh tình trong thời điểm hết sức nguy hiểm, ảnh hưởng đến sinh mạng của bà, Pháp sư kiên nhẫn tha thiết thành tâm cầu nguyện đức Bồ tát Quán Thế Âm, nguyện dâng hiến 12 năm tuổi thọ của của cuộc đời mình để cầu phúc thọ cho mẫu thân và phát nguyện ăn chay. Do lòng hiếu thảo cảm thông được đức Bồ tát cùng chư thiên mà bệnh tình của mẫu thân được thuyên giảm, không cần phải phẫu thuật và tốn kém nhiều cho việc điều trị thuốc men. Sau đó; để hoàn nguyện lời khấn cầu, Pháp sư phát tâm ăn chay suốt đời.
Khi Pháp sư được 21 tuổi xuân, một sự kiện xảy ra đã làm thay đổi cuộc sống của Pháp sư. Một ngày nọ, Phụ thân của Pháp sư bị bạo bệnh và đột nhiên ông qua đời. (09.06. Mậu Tuất - 25.07.1958). Cái chết của ông là một cú sốc lớn đối với Pháp sư và thúc đẩy Pháp sư thắc mắc tìm hiểu nhiều câu trả lời về việc sinh tử sự đại. Từ đó Pháp sư thường lui tới Từ Vân tự để tham cứu Phật pháp với Hòa thượng Pháp sư Tu Đạo.
Năm Canh Tý (1960) Pháp sư đến ngôi chùa ở địa phương, Phong Nguyên tự, lễ trụ trì Diệu Quảng Pháp sư cầu học Phật pháp và được ban tặng quyển Giải Kiết Khoa nghi. Sau khi mai táng Phụ thân xong, Pháp sư đến Từ Vân tự, phát nguyện lễ Lương Hoàng Sám kinh để cầu siêu cho Phụ thân, cầu phúc thọ cho hiền mẫu, thời gian đọc tụng lễ sám, Pháp sư thể hội đạo lý nhân sinh vô thường, bắt đầu manh nha ý định xuất gia.
Chứng kiến kiếp sống mong manh vô thường khiến Pháp sư phản ánh: “Tại sao cuộc sống quá ngắn ngủi! Sinh ra từ đâu đến! Khi chết đi về đâu?".
Tại thời điểm này, Pháp sư đã tiếp cận với Phật giáo. Khi học tập giáo lý Phật đà, Pháp sư dần dần cảm thấy người ta nên mở rộng tình yêu dành cho gia đình của mình để toàn xã hội và toàn thể nhân loại. Từ đó; Pháp sư khao khát để chăm sóc đại gia đình nhân loại, thay vì một gia đình nhỏ.
Với quan điểm này về cuộc sống, Pháp sư rời gia đình của mình để bắt tay vào con đường tâm linh, từ bỏ một cuộc sống tương đối thoải mái. Tuy nhiên; sau đó không lâu, gia đình tìm thấy Pháp sư và xin Pháp sư trở về nhà. Pháp sư ưng thuận. Nhưng với niềm tin thiêng liêng của mình, thực sự Pháp sư có thể thay đổi nội dung cuộc sống cũ của mình. Trong năm Canh Tý (1960), Pháp sư một lần nữa rời bỏ gia đình của mình để theo đuổi con đường tu hành.
Năm đó, Pháp sư 23 tuổi. Từ phía Tây Đài Loan, Pháp sư đã đến phía Đông Đài Loan và cuối cùng định cư tại Hoa Liên, một thị trấn nhỏ ở bờ biển phía đông tương đối kém phát triển của Đài Loan. Mặc dù cuộc sống rất khó khăn, nhưng nó đã không làm giảm kết quả của sự tu hành.
Năm Nhâm Dần (1962), Pháp sư đảnh lễ Đại sư Ấn Thuận (vị cao tăng nổi tiếng trước tác thời cận đại), xin Ngài nhận làm đệ tử xuất gia. Đại sư dạy rằng: “Ngươi có nhân duyên thù thắng được xuất gia, được dự vào hàng Tăng bảo, là trang Thích tử thì phải luôn luôn vì Phật giáo, vì chúng sinh!”. Sau đó Đại sư ban cho pháp danh Chứng Nghiêm hiệu Tuệ Chương, và được thọ giới Sa di ni.
Năm Quý Mão (1963), chùa Lâm Tế, Đài Bắc Khai đàn Truyền giới, kiết giới trường tại Giảng đường Huệ Nhật, Hòa thượng Bổn sư cho đăng đàn thọ Tam đàn Cụ túc giới tại Lâm Tế Tự.
Sau khi thọ Cụ túc giới, Pháp sư trở về Phổ Minh Tự, phát nguyện mỗi cuối tuần thụ trì lễ bái Kinh Pháp Hoa, nghiên cứu giáo nghĩa Kinh Pháp Hoa. Bước đầu về đây không thọ nhận sự cúng dường, sinh hoạt khép kín trong sự khổ hạnh. Tháng 10 năm Quý Mão (1963), Pháp sư chuyển về Hoa Liên Từ Thiện Tự giảng Kinh Địa Tạng, giảng liên tục khoảng thời gian tám tháng, pháp duyên hưng thịnh, trước mắt Tĩnh Tư Tịnh Xá, thu hút ni chúng đệ tử tựu về, kết duyên tập chúng đông đầy cùng tu học. Sau đó; Pháp sư cùng một vài đệ tử trở về Phổ Minh Tự kết duyên Bồ đề quyến thuộc Phật pháp cùng tu hành.
Pháp sư tự lập Thanh Quy tu hành, tự lực cánh sinh, cùng hai môn đệ ở Tĩnh Tư tịnh xá tự làm nến, sản xuất bột đậu nành và các ấn phẩm để có phương tiện tất chi phí mọi thứ bản, chứ không bao giờ chi tiêu một đồng xu cắc bạc nào của Tổ chức đóng góp.
Năm Bính Ngọ (1966), Pháp sư chính thức thành lập Phật giáo Khắc nạn Từ Tế Công Đức Hội. Vào thời điểm đó, bờ biển phía Đông của Đài Loan, nơi mà Pháp sư đầu tiên định cư, đã không phát triển và nghèo khó. Pháp sư và các đệ tử tu viện đã hỗ trợ bằng cách may giày em bé, tái chế bao bê tông thành túi thức ăn gia súc nhỏ, đan áo len để giúp nâng cao cuộc sống riêng của họ.
Vào mùa xuân năm Bính Ngọ (1966), trong khi Pháp sư Chứng Nghiêm đến thăm một bệnh nhân tại một bệnh viện địa phương nhỏ, nhìn thấy một vũng máu trên sàn nhà. Pháp sư đã nói rằng máu từ một người phụ nữ bản địa bị biến chứng lao động.
Gia đình của cô đã đưa cô từ ngôi làng miền núi của họ. Họ đã đi bộ tám giờ, nhưng khi họ đến bệnh viện, họ không có NT $ 8000 (sau đó 200 USD) lệ phí cần thiết. Họ chỉ có thể mang cô trở lại không được điều trị. Nghe điều này, Pháp sư xót xa trong lòng, tâm tư quay quắt với nỗi buồn vời vợi. thầm nghĩ: Một tu viện nghèo làm sao hỗ trợ giúp mình được? Mình có thể làm gì để giúp đỡ những người nghèo đây?
Từ sau năm Bính Ngọ (1966) cho đến nay, thế giới Từ Tế với lòng từ bi và dưới sự dìu dắt của Pháp sư đã từng bước vững tiến và phát triển tốt đẹp. Ngày nay thành viên của hội Từ Tế có mặt khắp các nơi để góp phần giảm thiểu khổ đau và tai nạn trên thế giới
Pháp sư thành lập Phật giáo Khắc nạn Từ Tế Công Đức Hội. Ngoài việc tiết kiệm 5 đồng hằng ngày bằng ống tre đến tích lũy tài sản hiện nay được hàng tỷ đô la. Từ buổi ban đầu chỉ có 30 người đến hiện tại có trên 4 triệu hội viên, nhiều hơn số thành viên của Quốc Dân đảng và Dân Tiến đảng - hai đảng phái Đài Loan hiện nay. Từ việc cứu trợ một cụ già cùng khổ, không có áo mặc đến cứu giúp cả hàng vạn người tật bệnh không có phương tiện sống, thậm chí cứu tế cả Trung Quốc đại lục, các nước châu Phi, Afghanistan, Hàn Quốc, Triều Tiên, Kosovo và các nước khác trên thế giới.
Mỗi khi có thiên tai địch họa phát sinh, các nhân viên Từ Tế Công Đức Hội luôn vượt qua tốc độ cứu trợ của chính phủ để đến tận nơi cứu trợ trước tiên. Bất kể là sóng thần ở Indonesia, SARS ở Trung Quốc, bao gồm cả việc ghép tủy v.v..., trong đó đều có sự góp phần chia sẻ của Từ Tế Công Đức Hội. Bất kể là làm môi trường, cấy ghép tế bào gốc, Từ Tế Công Đức Hội đều hoàn thành nhiệm vụ, điều mà tổ chức khác không thể làm được.
Pháp sư đã sáng lập Phật giáo Khắc nạn Từ Tế Công Đức Hội - một tổ chức công ích Từ thiện xã hội lừng danh thế giới. Tạp chí “Thiên hạ”, một trong những tờ tạp chí nổi tiếng Đài Loan đã từng bình chọn ai là nhân vật có sức ảnh hưởng lớn nhất Đài Loan trong 4 thế kỷ trở lại đây; kết quả, lúc chọn ra trong top 50 nhân vật ảnh hưởng đó, Pháp sư đứng thứ 2 với uy danh và sức ảnh hưởng của Pháp sư tại Đài Loan đã được xếp vượt qua Quốc phụ Tôn Trung Sơn (Cha đẻ Đài Loan), trên cả Lãnh tụ Quốc Dân đảng Tưởng Giới Thạch, Tưởng Kinh Quốc.
Là người phụ nữ duy nhất trong 10 vị anh hùng Đài Loan, nhiều lần Pháp sư được đề cử giải Nobel hòa bình. Pháp sư trước đây đã đón nhận các giải thưởng phục vụ xã hội như giải phụng hiến xã hội Châu Á Ramon Michael, giải quốc tế hòa bình, giải phụng sự y tế, và năm nay, Pháp sư nhận Giải thưởng quốc tế quay of Honor, được xếp hạng là vinh dự cao nhất 2014 v.v... Pháp sư được xưng tụng là người mẹ hiền Đông phương Teresa, có người xem Pháp sư thực hành pháp môn cứu khổ cứu nạn của Đức Quan Thế Âm Bồ tát.