Phật Đà Da Xá
Buddhayazas. Hán dịch: Giác minh,Giác danh, Giác xưng.
Cao tăng người nước Kế tân thuộc Bắc Ân độ, đến Trung quốc dịch kinh vào đời Đông Tấn, là thầy của ngài Cưu ma la thập.
Sư xuất gia năm 13 tuổi, năm 27 tuổi mới thọ giới Cụ túc. Sư chuyên cần tu tập, đọc tụng kinh điển, thông suốt cả Đại thừa và Tiểu thừa. Năm Hoằng thủy thứ 10 (408), đời vua Diêu Tần, theo lời thỉnh cầu của ngài La thập, sư đến Trường an, hỗ trợ ngài La thập dịch kinh Thập trụ, Tứ phần tăng giới bản, Tứ phần luật, rồi cùng với ngài Trúc Phật niệm, dịch kinh Trường a hàm, ngài Đạo hàm làm bút thụ. Sau, sư trở về nước Kế tân, thỉnh được kinh Hư không tạng 1 quyển, gửi người khách buôn đưa đến cho chư tăng ở Lương châu. Những kinh sư dịch gồm 4 bộ, 84 quyển. Vì sư hàm râu đỏ, lại khéo dịch luận Tì bà sa, nên người đời gọi sư là Xích Tì Tì Bà Sa. Lại vì sư là thầy của ngài La thập, nên cũng gọi là Đại Tì Bà Sa. [X. Lương cao tăng truyện Q.2; Xuất tam tạng kí tập Q.14; Lịch đại tam bảo kỉ Q.8; Khai nguyên thích giáo Q.4].