Người sáng lập Tổ Đình Linh Quang, tỉnh Lâm Đồng, VN.
Ngôi thảo am được đặt tên hiệu là Linh Quang, qua một thời gian dài đã thay đổi hình hài sắc tướng, âm thầm chuyển duyên trở thành một thiền tự, cũng chính là ngôi chùa đầu tiên của vùng đất cao nguyên Lâm Viên, là Tổ Đìnnh chung cho Phật Giáo tỉnh Lâm Đồng. Một thành tựu viên mãn đi vào những trang sử vàng của Đạo Từ Bi Hỷ Xả, và của đất nước quê hương. Vị tăng nhân có công đức hoằng dương chánh pháp, hóa đạo lợi sanh vô cùng to lớn vào buổi sơ khai ấy chính là Cố Hòa Thượng thượng Nhơn hạ Thứ, bậc danh tăng thạc đức thuộc dòng Lâm Tế Liễu Quán đời thứ 43.
Cố Hòa thượng Thích Nhơn Thứ, pháp danh Tâm Trung, tự Từ Lý, thế danh Trần Xin, sinh năm Giáp Ngọ (1894) tại xã Văn Hòa, tỉnh Phú Yên. Ngài vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, gặp phước duyên được một phú ông (ở thôn Đại Điền Trung, xã Diên Điền, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa) khi ra Phú Yên mua bò, nhận thấy Ngài bộc lộ tư chất thông minh lanh lợi khác người, nên nhận về làm nghĩa tử, lo cho ăn học tử tế. Thuở thiếu thời, cậu bé họ Trần nhờ thuận duyên gần gũi với chốn già lam ở vùng quê quạnh quẽ, nên thường qua lại vào ra chùa Linh Quang ở Đại An Núi Chúa (huyện Diên Khánh – Khánh Hòa) do Tổ Tu Rau (tức Hòa thượng Thích Nhơn Nguyện) trụ trì, và dần dà gắn bó với câu kinh tiếng kệ, thân quen với tiếng mõ hồi chuông, cũng như những bữa cơm chay rau tương thanh đạm, để rồi niềm tin Phật Pháp, niềm tôn kính Tam Bảo ngày càng tăng trưởng… Và khi đã hội đủ nhân duyên tốt lành, ngày trọng đại của một người con Phật cũng đã đến: Ngài phát nguyện thế phát quy y, xin xuất gia tu học, hầu Thầy từ khi chùa Linh Quang còn là một ngôi chùa nghèo mái tranh vách đất.. Ngài được được Tổ Tu Rau thâu nhận làm đệ tử, ban cho pháp danh là Tâm Trung, tự Từ Lý. Sau này, Ngài còn có thêm pháp tự nữa là Nghĩa Đạo – Minh Đạo.
Từ những mối nhân duyên kể trên, chúng ta quay trở lại với chùa Linh Quang trên vùng đất sương mù lạnh lẽo, mới thấy rõ căn nguyên vì sao chùa cũng mang tên hiệu Linh Quang. Thật ra, từ trước năm 1920, ngài Nhơn Thứ đã vâng lệnh bổn sư là Tổ Tu Rau lên khai phá vùng đất mệnh danh “Hoàng Triều cương thổ”. Như nhận một mệnh lệnh thử thách để ấn chứng Đạo Tâm, thể hiện chí nguyện xuất gia tu hành, ngài đã không chút e dè ngại sợ, mà đã dấn thân nhập cuộc một cách vô ngại tự tại. Bằng chí nguyện rộng lớn kiên cường, và tâm bồ đề kiên cố, giữa những khó khăn vây bủa, thiểu thốn ngáng đường, trở ngai mắc giăng tứ phía, ngài đã từng bước tạo dựng nên một ngôi tự viện trang nghiêm vào năm 1921.
Vào những năm xa xưa ấy, khi chùa Linh Quang hiển hiện trên đồi hoang đất vắng, cảnh vật xung quanh đã trở mình trước một cuộc biến đổi lớn, ánh quang minh của ngôi Tam Bảo chừng như xua tan hết sương mờ và rét lạnh, đẩy lùi ám chướng và tối tăm dạt hết ra xa xa… Ngày mà ngôi thảo am nhỏ trước kia chính thức mang tên hiệu Linh Quang Tự, có sự hiện diện chứng minh của chư tôn đức: Hòa thượng Thích Phước Tường (chùa Thiên Bửu –Ninh Hòa- Khánh Hòa), Hòa thượng Thích Từ Nhãn (chùa Sắc Tứ Long Sơn Bát Nhã- Tuy An- Phú Yên), và Hòa thượng Bổn sư Thích Nhơn Nguyện.
Năm 1933, khi chùa Linh Quang đã trở nên một tự viện thanh tịnh khang trang, Hòa thượng Nhơn Thứ được triều đình nhà Nguyễn phong chức “Tăng Cang”, để tạo điều kiện thuận lợi cho Ngài hoằng truyền chánh pháp trên vùng đất cao nguyên Đà Lạt. Đến ngày 28, tháng 9, năm Mậu Dần 1938, vua Bảo Đại đã ban hiệu “Sắc Tứ” cho chùa. Đến nay, tuy biển ngạch Sắc Tứ đã không còn, do bị cháy trong cuộc binh lửa Tết Mậu Thân 1968, nhưng bản “Quyết định ban Sắc Tứ” do Tham Tri Bộ Lễ ấn ký vẫn còn nhà chùa lưu giữ cẩn thận. Trong đó ghi rõ: “Thần bộ khâm phụng ý chỉ Đoan Huy Hoàng Thái Hậu nên Sắc Tứ biển ngạch cho chùa Linh Quang thuộc làng Đà Lạt ở Haut-Donnai- Khâm thử khâm tuân- Tham Tri Bộ Lễ Tôn Thất Quảng”.
Nhờ đức độ và công hạnh sáng ngời, nên Hòa thượng Nhơn Thứ được triều đình Huế, và tông môn đã cung thỉnh làm “Đàn Đầu Hòa Thượng” vào sau những năm 1938. Công đức của Ngài thật to lớn trong công cuộc hoằng hóa lợi sanh, với đạo hạnh trang nghiêm cùng lòng từ bi rộng trải, nên Ngài đã cảm hóa và giúp đỡ rất nhiều người. Ngài được mọi người biết đến như một vị “ lương y thiền sư” rất “mát tay” trong việc chữa các bênh nan y bằng thuốc Nam, và cả chế ngự được các bệnh điên tà trong dân gian. Tiếng lành đồn xa, hương đạo hạnh tỏa lan khắp chốn, hàng hàng lớp lớp người tin Phật đã tìm về xin quy y thọ giáo Ngài mỗi ngày càng đông, đạo tràng ngày càng phát triển lớn mạnh…
Ngày 10 tháng 3 năm Tân Tỵ (1941), sau một cơn cảm sốt nhẹ, Hòa thượng Nhơn Thứ nhận biết ngày ra đi của mình sắp đến, liền gọi đồ chúng vào dặn dò cặn kẽ, sắp đặt chu đáo hết mọi việc trong ngoài trước sau. Sau đó, Ngài bảo thị giả để một tượng Phật Di Đà ở trước ngực, rồi từ giấy phút ấy Ngài chuyên tâm chú niệm, tay lần xâu chuổi, theo dõi những chuyển biến trong nhục thể của mình, gạt bỏ và quên hết ngoại cảnh.
Ba hôm sau, vào lúc 21h 45 phút, ngày 13 tháng 3, Ngài bảo đệ tử chong đèn đốt nhang, xông trầm trên chánh điện, rồi cử ba hồi chuông trống Bát Nhã. Vừa dứt hồi trống, Ngài đã xả thân ngũ uẩn, an nhiên thị tịch đúng vào 22 giờ, trong tiếng niệm Phật râm ran của môn đồ tăng chúng, trụ thế 48 năm, trên 30 hạ lạp. Bảo Tháp của Ngài được xây lên ngay trong khuôn viên chùa, đó chính là Tháp Tổ Sư Khai Sơn Sắc Tứ Linh Quang Tự.(Huệ Hương ST)