- Cố viện chủ chùa Hương tích Chùa Thầy - Hà Nội
– Ủy viên thường trực Hội Đồng Trị Sự Trung Ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
– Phó ban Ban Giáo Dục Tăng Ni – Phó ban Ban Văn Hóa – Phó ban Ban Từ thiện xã hội Trung ương GHPGVN
– Phó trưởng ban thường trực Ban trị sự tỉnh hội Phật giáo Hà Tây
– Trưởng ban Ban trị sự Phật giáo tỉnh Phú Thọ
– Hiệu phó thường trực Trường Trung cấp Phật học tỉnh Hà Tây
– Đại biểu Hội Đồng Nhân Dân tỉnh Hà Tây
– Ủy viên Ủy ban Mặt trận tổ quốc tỉnh Hà Tây
– Trụ trì chùa Hương và chùa Thầy tỉnh Hà Tây, Hà Nội
Ngài vào đạo năm 12 tuổi , năm 15 tuổi ngài được sư tổ Thích Thanh Chân , động chủ Hương Tích đời thứ 10, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây thu nhận làm đệ tử .
Năm 19 tuổi ngài thụ giới Sa di, năm 1972 ngài được đăng đàn thụ giới Cụ túc.
Ngài được Tôn sư cho xuống núi tu học tại trường Trung cấp Phật pháp tại chùa Quảng Bá và Quán Sứ Hà Nội niên khóa 1973-1976 .
Sau khi tốt nghiệm xuất sắc về mọi mặt ngài được tuyển chọn vào Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam – Nay là Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Hà Nội – Khóa I , niên khóa 1981-1985.
Năm 1984 đáp lời thỉnh cầu tha thiết của chính quyền và nhân dân địa phương – Hòa thượng về nhận trụ trì chùa Thầy – Thánh tích của Ngài Từ Đạo Hạnh .
Năm 1985 Ngài được Sư Tổ – Hòa thượng Thích Thanh Chân tin tưởng trao truyền kế đăng trụ trì tổ đình Hương Tích .
Năm 1987 tại Đại hội Phật giáo Việt Nam toàn quốc lần thứ III . Ngài được tấn phong Thượng tọa và được suy cử vào Hội Đồng trị sự Trung Ương GHPGVN .
Tại Đại hội kỳ III Tỉnh Hội Phật Giáo Hà Tây Ngài được bầu là Phó Ban trị sự kiêm chánh thư ký Tỉnh hội.
Năm 1991 Hòa thượng đã cùng các Chư tôn đức trong BTS thành lập trường Trung cấp Phật học tỉnh Hà Tây và Ngài được giao trọng trách làm Phó hiệu trưởng thường trực của trường .
Năm 1993 Ngài được bầu vào Ủy viên thường trực HĐTS TW GHPGVN , Phó ban Ban Từ thiện Trung ương – Ủy viên Ban Hoằng pháp Trung ương.
Năm 1995 Ngài nhận Ấn chỉ của Đức Pháp chủ Je Khenpo đời thứ 68 – Bhutan và là truyền nhân đầu tiên dòng Palden Drukpa kargyu – Bhutan Việt nam.
Năm 1998 , Hòa thượng được suy tôn ngôi Đường chủ hạ trường Chùa Thầy tới khi viên tịch .
Từ năm 1998 Ngài được suy cử làm Phó ban ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương . Trưởng ban Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Phú Thọ .
Ngài Đã cùng với các cơ quan hữu quan , Phật tử và nhân dân địa phương trùng tu ngôi Đại Hùng Bảo Điện, Tổ Đường , Hương Thủy điện …chỉ trong 10 năm, quần thể di tich danh lam chùa Hương được uy nghiêm tráng lệ như ngày nay phần lớn là nhờ công sức của Hòa thượng.
Tại chùa Thầy ngài đã tu bổ nhiều hạng mục công trình , duy trì và phát triển Thánh tích chùa Thầy ngày một khang trang hơn . Cũng chính nơi đây với tâm nguyện hành trì Mật giáo , Hòa thượng đã khơi sáng lại ngọn đèn truyền thừa Mật tông vốn đã được khởi lập bởi Đức Thánh Tổ Từ Đạo Hạnh cách đây gần 1000 năm về trước.
Trong gần 20 năm, Hòa thượng đã có gần 100 đệ tử xuất gia và trưởng thành đảm trách các chức vụ trong Trung ương Giáo Hội cũng như tại các tỉnh, thành phía bắc .
Ngài để lại nhiều tác phẩm , dịch phẩm cho đời sau nghiên cứu và học tập .
Ngài luôn quan tâm đến vấn đề xã hội và vào đời bằng hạnh nguyện Bồ tát , tham gia tich cực các công tác Từ thiện xã hội để đem lại an lạc , hạnh phúc cho nhân sinh.
Do các công lao đóng góp cho Đạo pháp và Dân tộc, ngài được Đảng, Nhà nước và Giáo hội tặng thưởng nhiều bằng khen và giấy khen như : Huân chương lao động hạng ba ; Huy chương vì sự nghiệp đại đoàn kết dân tộc; Huy chương vì sự nghiệp bảo tồn văn hóa dân tộc; Huy chương vì sự nghiệp nhân đạo.
Năm 2002 Cơn bạo bệnh chợt đến. Hòa thượng thuận lẽ vô thường trả tấm thân tứ đại lại cho trần gian mộng ảo để trở về thế giới vô tung bất sinh bất diệt vào lúc 18giờ 40 phút ngày 31 tháng 05 năm 2002 tức ngày 20-4 năm Nhâm ngọ . Trụ thế 53 năm, hạ lạp 32 năm.Hòa thượng luôn là tấm gương sáng , là ngọn tuệ đăng chiếu soi cho Tăng Ni, Phật tử hôm nay và mãi mãi mai sau.
Thành đại nguyện tương ưng Tam muội
Viên quang tâm chân tính Nhị đề.