Bài Ashta Garu Dharma – The Eight Strict Rules for Buddhist Nunscủa tiến sĩ Amarasiri Weeraratne đăng trong tạp chí Yasodhara (Newsletter on International Buddhist Women’s Activities) Vol. 14, No. 4 (no. 56), July - Septemper, 1998 do Cô Chatsumarn Kabilsingh, người Thái biên tập
Tiến sĩ Amasiri Weeraratne là nhà nghiên cứu Phật học nổi tiếng ở Tích Lan từ nhiều thập niên trước đây. Ông đã đóng góp khả năng của mình cho nền Phật học trên nhiều lĩnh vực. Trong bài này, ông khẳng quyết rằng Bát Kính Pháp hoàn toàn do chư Tăng bịa đặt ra, rồi gán cho đức Phật. Điều đó cần phải loại bỏ, vì như vậy là làm hoen ố đức tính từ bi và trí tuệ của một bậc Giác Ngộ. Tuy nhiên, ông quá gay gắt và thiếu căn cứ cho rằng chư Tăng kiết tập Kinh điển lần thứ nhất là những vị khinh ghét phụ nữ và muốn toàn quyền lãnh đạo Tăng đoàn, thậm chí muốn nô dịch hoá phụ nữ. Ông rất đúng khi cho rằng Bát Kính Pháp do các nhà biên tập sau này đặt ra, nhưng không thuyết phục độc giả khi cho rằng chính các nhà biên tập Kinh điển lần thứ nhất bịa đặt ra và gán cho đức Phật. Theo như lịch sử kiết tập Kinh điển lần thứ nhất ghi lại, trong kỳ kiết tập này các vị được mời dự hội nghị đều chứng Thánh quả A-la-hán, không còn các tâm niệm nhiễm ô như khinh ghét phụ nữ hoặc muốn lãnh đạo giáo đoàn, v.v… Do đó, chúng ta có thể kết luận Bát Kính Pháp không phải do chính đức Phật ban hành cho Di mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề, nhưng cũng không thể kết tội là do các vị Thánh Tăng thời kỳ kiết tập Kinh điển lần thứ nhất đề ra. Lịch sử kiết tập Kinh điển thành văn trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và do nhiều nhà biên tập sau này. Chúng ta vẫn chưa có cơ sở nào để quy kết chính các vị Thánh Tăng trong thời sơ kỳ Phật giáo đưa ra Bát Kính Pháp. Để xác định được thời gian nào Bát Kính Pháp được áp dụng cho Ni đoàn và được ghi lại thành điều luật, sự việc này cần phải có những công trình nghiên cứu chuyên sâu hơn.