Hòa Thượng Khánh Hòa thế danh là Lê Khánh Hòa, pháp hiệu Như Trí, sinh ngày 22 tháng 4 năm Mậu Dần (1877), quê quán làng Phú Lễ, tổng Ba Tri, huyện Kiến Hòa, tỉnh Gia Định (địa danh Phú Lễ có thời gian thuộc tổng Bảo An, quận Ba Tri, và nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Ngài sinh trong một gia đình trung lưu có nề nếp Nho học, từ nhỏ đã được tiếng thông minh và nết hạnh. Là người anh cả, sau Ngài còn có hai em, một trai, một gái. Người em trai kế cũng xuất gia tu học sau này, người em gái đã mất lúc còn nhỏ.
Hòa Thượng là một nhà sư có học vấn uyên thâm, am tường Phật Pháp, cũng là một giảng sư có tài thuyết phục người nghe. Ngài còn là người tiến bộ, cánh chim đầu đàn trong phong trào Chấn Hưng Phật Giáo tại Nam Bộ Việt Nam.
Năm Ất Mùi (1895), khi 19 tuổi, Ngài đến chùa Long Phước, Ba Tri (có tài liệu ghi là chùa Khải Tường) xin xuất gia học đạo. Sau đó đến tham học tại chùa Kim Cang, tỉnh Tân An, nơi đây được Hòa Thượng Long Triều trực tiếp giảng dạy. Thời gian này Ngài rất chăm chỉ học đạo, nên nghe đâu có bậc thạc đức thì Ngài luôn tìm đến cầu học, không ngại gian khó, chẳng nài xa cách. Nhờ tinh thần tiến thủ đó mà Ngài đi đến đâu cũng đều được các bậc trưởng thượng quý mến.
Năm Giáp Thìn (1904), Ngài nhập hạ đầu tiên tại chùa Long Hoa, quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Nơi đây, được sự khuyến khích của Chư Tôn Đức, Ngài đã giảng kinh Kim Cang Chư Gia, rất được các vị Pháp Sư và đại chúng ở trường hạ quý mến. Từ đó về sau mỗi lần nhập hạ, Ngài đều có giảng kinh. Nhờ đó mà bảo hiệu Khánh Hòa đã sớm vang khắp nơi.
Năm Bính Thìn (1916), lúc này Ngài đang trụ trì chùa Tuyên Linh, tỉnh Bến Tre. Với trình độ thâm đạt Phật lý và đức tính ôn hòa, Ngài luôn trăn trở trước viễn cảnh ngôi nhà chánh pháp có nguy cơ sụp đỗ, thường hay than rằng: “Phật Pháp suy đồi, Tăng-đồ thất học và không đoàn kết”, do đó Ngài quyết tâm thi hành nhiệm vụ của một sứ giả Như Lai, mong muốn thực hiện thống nhất Phật Giáo và chỉnh đốn Tăng-già. Mong muốn rất to lớn và chính đáng này, trong hoàn cảnh trung thời bấy giờ, không phải ai cũng có.
Biết được Ngài đang ôm ấp hoài bão thiết tha đó, một vị Hòa Thượng hỏi Ngài với đại ý việc cổ động chấn hưng Phật Giáo ấy có mấy người đồng tình, đồng tâm hưởng ứng và tại sao nhiều chùa giàu có không đứng ra chung lo với Ngài? Ngài từ tốn đáp rằng: “Ở đời, vàng bạc bao giờ cũng ít, ngói đá lúc nào cũng nhiều. Chúng ta dù ít nhưng cố gắng sẽ thành công. Khó gì bằng lìa bỏ tình yêu cha mẹ vợ con và đời sống cao sang quyền quý, vùi thân trong núi tuyết, rừng già mà Đức Bổn Sư ta còn bỏ được và làm được thay!”
Năm Canh Thân (1920), Ngài cùng quý Hòa Thượng khác lập ra Hội Lục Hòa. Đó là mục tiêu ban đầu nằm trong hoài bão, nhằm tạo sự đoàn kết, tương thân theo đúng pháp Phật trong giới Tăng Sĩ. Ngài còn lo mở trường “gia giáo” để đào tạo Tăng tài hầu đảm nhiệm trọng trách hoằng dương chánh pháp, dìu dắt người sau. Bên cạnh đó Ngài cần mẫn dịch Kinh, Luật, Luận ra chữ quốc ngữ để phổ cập được trong mọi tầng lớp quần chúng.
Năm 1927, Ngài cử Sư Thiện Chiếu ra Bắc Bộ để vận động chấn hưng Phật Giáo. Không thành công, năm 1928 Sư Thiện Chiếu về Sài Gòn.
Năm 1928, Ngài cùng các vị Thiện Chiếu, Từ Nhẫn, Chơn Huệ và Thiện Niệm lập Thích Học Đường và Phật Học Thư Xã tại chùa Linh Sơn (Cầu Muối, Sài Gòn). Cùng năm này, Chư Tôn đức tỉnh Bình Định mở trường hạ tại Tổ đình Long Khánh (Quy Nhơn), đã cung thỉnh Ngài làm Pháp Sư chủ giảng suốt 3 tháng tại đây.
Tháng giêng năm Kỷ Tỵ (1929), khi trở lại quê nhà, vẫn không nản lòng với ước nguyện cao cả, Ngài quyết định đi cổ động chấn hưng Phật Giáo khắp các tỉnh Nam Bộ, kêu gọi sự đồng tình, ủng hộ với ba phương châm:
Tâm lực cao cả đó là hành trang theo Ngài trên mọi nẻo đường từ tỉnh này sang tỉnh khác. Ngài đem hết can tràng tha thiết chỉ rõ sự suy đồi và nguy cơ bị tiêu diệt của Phật Giáo nếu không sớm CHẤN HƯNG. Tuy nhiên chỉ có các vị Huệ Quang, Kim Huê, Vạn An, Liên Trì, Viên Giác… tỏ ra đồng tình ủng hộ triệt để và hết lời ca ngợi việc làm cao đẹp này. Ngoài ra, hầu hết chỉ nghĩ đến tông môn mình, chùa mình và từ chối thoái thác cộng tác. Đôi khi Ngài còn bị những người ấy công kích, hủy báng hết sức thậm tệ. Có lúc Ngài tự than rằng: “Ôi! Phật Pháp suy vi, Tăng-đồ hủ bại đến thế là cùng. Rồi đây, họ sẽ bị trào lưu đào thải!” Nhưng Ngài vẫn không nản chí, mà ngược lại càng nhẫn nại và sáng suốt hơn bao giờ hết.
Để đẩy mạnh việc truyền bá Phật Pháp, Ngài cùng các Hòa Thượng khác cho xuất bản tập san Phật học bằng chữ quốc ngữ tên là Pháp Âm. Số đầu tiên ra ngày 13/8/1929. Sau đó là tập san Phật Hóa Tân Thanh Niên ra đời năm 1930 cũng bằng chữ quốc ngữ nhưng có nội dung tiến bộ hơn, nhắm vào hàng Cư Sĩ trí thức và Tăng Sĩ trẻ. Không lâu sau, nhiều nội ngoại chướng dồn dập, hai tập san đều ngưng hoạt động.
- Năm 1931, Ngài cùng nhiều vị tôn đức và các học giả thành lập Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học, đặt hội quán tại chùa Linh Sơn - Sài Gòn, sau đó cho xuất bản tạp chí Từ Bi Âm.
- Năm 1932, Ngài được cử làm Hội trưởng, kiêm chủ nhiệm báo Từ Bi Âm. Ngài đã cổ động hàng cư sĩ Phật tử Trà Vinh, thỉnh hiến cúng Tam tạng kinh điển cho hội, để có tài liệu nghiên cứu và diễn dịch. Được cư sĩ Lâm Quang Thời và bà Hai Sáng ở Trà Vinh cúng 1000 đồng (trị giá 100 lượng vàng). Tổ Chí Thiền chùa Phi Lai – Châu Đốc cúng 300 đồng. Bà Lê Thị Nghĩa – Bến Tre cúng 300 đồng. Tổ Chánh Quả chùa Kim Huê cúng 60 đồng để thỉnh Tạng kinh làm tài liệu nghiên cứu và phiên dịch. Tạng kinh đã được thỉnh, nhưng không có nơi lưu trữ, vì vậy Ngài về chùa Tuyên Linh bàn bạc với bổn đạo xin được dỡ sườn gỗ tốt của chánh điện bán đi, thay vào gỗ xấu lợp lại chánh điện, để có tiền xây Pháp Bảo phường, lưu trữ Tam Tạng Pháp Bảo. Hiện Tam Tạng Pháp Bảo vẫn còn tại chùa Linh Sơn quận Nhứt - Sài Gòn.
- Sau hai năm hoạt động, Hội Nam kỳ Nghiên cứu Phật học đang có chiều hướng tiến triển, trường Phật học cũng chỉ được khai giảng một năm thì bị thế lực thân Pháp buộc giải tán. Nhận thấy nguy cơ không có khả năng chỉnh đốn lại, nên Ngài cùng tổ Huệ Quang lui gót về Lục tỉnh.
- Năm Qúy Dậu (1933), vẫn không nản lòng, Ngài cùng các tổ Huệ Quang, Pháp Hải, Khánh Anh... thành lập Liên đoàn Phật học xã nhằm tiếp tục con đường đào tạo tăng tài. Tổ chức này có hình thức di động, không đặt trụ sở một chỗ, mà luân phiên mỗi chùa ba tháng phải chu toàn, đài thọ các mặt hoạt động của liên đoàn. Bắt đầu từ chùa Từ Hòa làng Long Hòa, Tiểu Cần - Trà Vinh của tổ Huệ Quang, rồi tại chùa Thiên Phước – Trà Ôn – Vĩnh Long của tổ Chánh Tâm. Sau đến chùa Viên Giác – tỉnh Bến Tre của tổ Lâm Quang. Khóa học được nửa chừng thì bị thế lực thân Pháp của ông Conmis Chấn phá hoại, vu khống, đành phải tạm ngưng.
- Năm Giáp Tuất (1934) Ngài lại cùng các tổ Huệ Quang, Khánh Anh, Pháp Hải… và các cư sĩ tỉnh Trà Vinh thành lập Hội Lưỡng Xuyên Phật học, xuất bản tạp chí Duy Tâm và thỉnh Đại tạng, Tục tạng để làm tài liệu nghiên cứu phiên dịch, đồng thời kiến lập Thích Học Đường khai giảng vào năm Ất Hợi 1935 với số lượng học tăng 30 vị. Trong số đó có các ngài Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hành Trụ, Thái Không, Bửu Ngọc... về sau có một số vị được cử ra miền ngoài, tiếp tục học ở trường Phật học Tây Thiên với hòa thượng Phước Huệ và trường Báo Quốc với pháp sư Trí Độ. Về sau khi trở về các vị này tiếp tục công hạnh của Tổ, lập giáo hội Tăng già, và Phật học đường Nam Việt – trụ sở đặt tại chùa Ấn Quang, Phật học viện Giác Sanh đặt tại chùa Giác Sanh. Sau đó, tiếp tục mở Phật học Ni viện Dược Sư, Phật học Ni viện Từ Nghiêm và Trường cao trung Phật học Huệ Nghiêm. Tất cả các Phật học viện tăng và ni trường tại Sài Gòn, hòa thượng Thích Thiện Hòa đều làm giám đốc, hòa thượng Thích Thiện Hoa làm đốc học. Có công nhiều nhất trong phong trào chấn hưng Phật giáo miền Nam giai đoạn từ thập niên 50, 60, 70 phải kể đến là hòa thượng Thiện Hòa và hòa thượng Thiện Hoa.
Hội Lưỡng Xuyên Phật học và tạp chí Duy Tâm tồn tại cho đến khi chiến tranh xảy ra năm 1945.
Khi tuổi gần 70, do sức khỏe có phần suy giảm, Ngài lui về chùa Vĩnh Bửu – huyện Mỏ Cày - tỉnh Bến Tre để tĩnh dưỡng, chuyên tu. Những tưởng Ngài đã phần nào yên lòng với những thành công đã đạt được. Nào ngờ, chính nơi đây Ngài cho mở Ni trường Phật học cho ni giới. Các ni sư tốt nghiệp từ Ni trường này có ni sư Diệu Ninh, thường gọi là ni sư Vĩnh Bửu (sư bà Vĩnh Bửu). Sau này sư bà Vĩnh Bửu được cử quản lý hai Ni trường Dược Sư và Ni trường Từ Nghiêm. Năm 1964, Ni bộ Bắc tông được thành lập, đặt trụ sở Ni bộ tại chùa Từ Nghiêm - Chợ Lớn, quận 10 ngày nay.
Trong thời gian lưu trú tại chùa Vĩnh Bửu, Ngài cùng chư tôn đức khác đã đúc kết sơ lược thành tựu của phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam qua việc thành lập các tổ chức Hội Phật giáo ba miền:
Tổ an tường thị tịch lúc 11 giờ 30 phút, ngày 19, tháng 6, năm Đinh Hợi 1947 tại chùa Tuyên Linh. Trụ thế 72 năm, hạ lạp 48 mùa an cư kiết hạ.