Yên Lang (1940 – 5 tháng 6 năm 2017)[11][20] tên thật là Nguyễn Ngọc Thanh,[2][3][4] là soạn giả cải lương người Việt Nam đã sáng tác hơn 30 tuồng cải lương nổi tiếng
Ông còn dùng bút danh Huyền Thanh Huyền[8] khi viết cho một số tờ báo trước năm 1975.[6] Theo một cuốn sách của Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin và Liên hiệp Các hội Văn hóa nghệ thuật Bạc Liêu, ông được đánh giá là một trong 80 người tiêu biểu nhất trong lĩnh vực hoạt động nghệ thuật ở Bạc Liêu.
Nguyễn Ngọc Thanh sinh năm 1940 tại Giồng Me, Cầu Kè, Bạc Liêu,[4][6][8][9]nay thuộc Phường 2, thành phố Bạc Liêu, Bạc Liêu, Việt Nam.[3] Năm 1955, ông rời quê lên Sài Gòn.[9][19] Khi đang học tại Trường Trung học Tân Thịnh ở Sài Gòn,[29] ông đã gặp nhà thơ Hoài Ngọc và ký giả Phong Vân, những người được cho là đã khuyến khích ông dấn thân vào công việc sáng tác cải lương sau này,[4][5] dù ông từng rất đam mê thơ văn[1][7][29] và từng mong muốn trở thành một nhà thơ.[10] Theo báo điện tử tỉnh Bạc Liêu thì ông từng tham gia làng văn nghệ Sài Gòn với tư cách là một người làm thơ.[3] Với bút danh Huyền Thanh Huyền, Yên Lang đã từng viết văn, làm thơ cho tuần báo Tầm Nguyên và báo Nhân Loại.[6]
Theo một số nguồn, khi học trung học, Yên Lang đã sáng tác vở kịch nói Đường lên ải Bắc trong niên học đầu tiên, khiến ông được chọn làm học sinh giỏi và đã được tham dự trại hè Đà Lạt cùng với hai học sinh khác.
Năm 1960, vở tuồng đầu tiên của ông viết chung với soạn giả Nguyễn Liêu mang tên Nắng chiều lên cổ tháp ra đời và được dàn dựng bởi đoàn Song Kiều.[4] Vở thứ hai của ông là vở Bếp lửa chiều ly biệt do đoàn Bạch Vân dàn dựng, cũng viết chung với Nguyễn Liêu.[7][8] Vở thứ ba của ông là vở Đường về quê ngoại do ông tự sáng tác, được đoàn Song Kiều biểu diễn, đã gây ra tiếng vang lớn.[6] Yên Lang cho rằng ông đã bắt đầu sự nghiệp từ năm 1960.[30]
Năm 1963, khi bị tuồng cải lương Đường về quê ngoại cuốn hút, ông bầu Long của đoàn Kim Chung đã chú ý đến Yên Lang và đã hẹn gặp ông tại văn phòng Kim Chung ở Sài Gòn để bàn việc cộng tác khi hai đoàn hát đang cùng diễn tại Tuy Hòa, Phú Yên, đoàn Kim Chung hát ở rạp Diên Hồng và đoàn Song Kiều, tức đoàn Yên Lang đang làm việc, lúc đó hát ở rạp Nhạn Tháp. Tháng 6 năm 1963 đoàn Song Kiều về hát tại rạp Biên Hùng, Biên Hòa, Yên Lang trở về Sài Gòn thăm cô mình và đã đến văn phòng Kim Chung để gặp ông bầu Long, tại đây Yên Lang được ông bầu thuyết phục và đã đồng ý làm soạn giả thường trực của đoàn. Chỉ sau đó vài tháng thì đoàn Song Kiều tan rã.[17] Tuồng Đường về quê ngoại được ông đổi thành Manh áo quê nghèo sau khi làm soạn giả thường trực cho đoàn cải lương Kim Chung,[6] và vở tuồng này đã được khán giả yêu cầu đoàn Kim Chung diễn lại nhiều lần.[7] Đây cũng là kịch bản cải lương đầu tiên của ông được diễn trên sân khấu Kim Chung và đã được trình diễn liên tục trong một tháng tại rạp Olympic ở đường Hồng Thập Tự, Sài Gòn.[17] Yên Lang đã là soạn giả thường trực cho đoàn Kim Chung từ năm 1963 đến cuối tháng 4 năm 1975.[7]
Năm 1963[5][10] ông bắt đầu nổi tiếng[7] với những tuồng cải lương thuộc thể loại "kiếm hiệp kỳ tình", là thể loại rất được yêu thích tại Việt Nam trong những năm 1960, 1970.[14] Ông từng là soạn giả của các đoàn Song Kiều, Bạch Vân, Việt Nam Minh Vương, Kim Chung,[26] Dạ Lý Hương, Việt Nam, Du Sĩ Ca Quốc Trầm...[25] và lâu nhất là với đoàn Kim Chung.[6] Nhiều nghệ sĩ cải lương đã nổi tiếng vì những vở tuồng của ông.[1][5][14][19]
Ngoài sáng tác, ông còn đào tạo cho nhiều người khác, như Nguyên Thảo (tác giả của Kiếp nào có yêu nhau, em ông) và Lam Tuyền (đã chuyển thể Lá sầu riêng, con trai ông).[9][14][19] Theo báo điện tử Bạc Liêu, Yên Lang còn là một nhà thơ.[21]
Về sau ông vẫn còn sáng tác, thường là các bài ca cổ về Bạc Liêu,[1][10][14][19] theo RFA (2013) thì Yên Lang không còn viết tuồng.[12]
Ông từng bị cải tạo và đã chuyển sang định cư tại Hoa Kỳ[12] vào năm 1995.[6][7][8] Một số người thân của Yên Lang như Nguyên Thảo, Kiều Oanh và Lam Tuyền đều có đóng góp cho cải lương.[