Tiếng Việt
English
Tiếng Việt
Các bài viết (2)
Đôi nét về tác giả
Danh sách tác giả
Đại Sư Vô Trước
Đại Sư Vô Trước
Vô Trước hay Asaṅga (Sanskrit: Asaṅga ; Tibetan: ཐོགས་མེད།, Wylie: tho
gs med, traditional Chinese: 無著;; pinyin: Wúzhuó;
Romaji: Mujaku), (300-370), là một Đại luận sư của
Phật giáo Ấn Độ
, người sáng lập
Duy thức tông
(sa. vijñānavādin). Sư khước từ quan điểm của
Long Thụ
(sa. nāgārjuna) về
tính Không
tuyệt đối và thiết lập giáo pháp của mình dưới ảnh hưởng của
Thuyết nhất thiết hữu bộ
(sa. sarvāstivādin). Tương truyền Sư được
Bồ Tát
Di-lặc
trực tiếp giáo hoá. Có một số luận sư cho rằng Di-lặc này là một nhân vật lịch sử với tên Maitreyanatha (sa. maitreyanātha).
Được biết trường phái Duy Thức Học (Vijnànavàda ) Phật giáo ra đời vào khoảng thế kỷ thứ
V.TL
;và Đại luận Sư là một trong những người được xem là Tổ sư của trường phái này.
Ngài Vô Trước ( anh em cùng mẹ khác cha với Ngài Thế Thân ) ; cả hai đều là Đại luận sư của trường phái triết học Duy Thức , một trường phái triết học đặc thù của Phật giáo mà tầm vóc và sự ảnh hưởng của nó ,về mặt lịch sử , không thua kém gì giòng triết học Trung Quán của Ngài Long Thọ (Nagàrjuna).
Trích một đoạn trong " Cuộc đời của Bồ Tát Vô Trước" trong Thư Viện Hoa Sen như sau:
Ngài là người được phú cho những đặc tính bẩm sinh của một vị Bồ Tát . Ngài trở thành một vị Tỳ Kheo của Thuyết Nhất Thuyết Hữu Bộ (Sarvastivada), mà sau này thực hànhthiền quán và giải thoát khỏi tham dục. Mặc dù ngài khảo sát lý thuyết của tính không, nhưng không thể thấu hiểu. Ngài định tự tử. Pindola, một vị a la hán, người ở Đông bộ Purvavideha, nhận biết điều này, đã đến gặp ngài tại vùng ấy và giảng giải lý thuyết tính khôngđặc thù của Tiểu Thừa. Ngài đã điều chỉnh lại tư tưởng của ngài phù hợp với những gì ngài đã được dạy và lập tức lĩnh hội được. Mặc dù ngài đã đạt được giáo thuyết tính không đặc thù của Tiểu Thừa, tuy thế, ngài không tìm thấy sự thoãi mái trong ấy. Nghĩ rằng sẽ không đúng nếu từ bỏ vấn đề hoàn toàn, ngài đã lên cung trời Đâu Suất sử dụng tất cả những thần thông đặc biệt của Tiểu Thừa và hỏi Bồ Tát Di Lặc, (vốn lắng nghe Giáo Pháp một cách thân cận khi Đức Phật tại thế, và sau này lên cung trời Đâu Xuất để giảng dạy cho chư Thiên ở đấy) người đã giảng giải chi tiết cho ngài giáo thuyết tính không thuộc Đại Thừa. Khi ngài trở lại Diêm Phù Đề (Jambudvipa), ngài khảo sát tương hợp với nhữngphương pháp đã giải thích cho ngài và chẳng bao lâu đã chứng ngộ. Trong khi ngài tiến hành khảo sát, trái đất bắt đầu chuyển động trong cách (theo cách của nó). Từ khi ngài thông hiểu giáo thuyết tính không, ngài tự gọi mình là “Vô Trước” (Asanga), có nghĩa là “không chấp trước”. Sau đó ngài thường lên cung trời Đâu Xuất nhằm đề hỏi Di Lặc về những lý thuyết của Đai Thừa Kinh Điển. Bồ Tát đã giải thích chi tiết cho ngài. Bất cứ khi nào ngài đạt được bất cứ sự thông hiểu mới nào, ngài sẽ trở lại Diêm phù Đề và giảng dạy cho người khác. Hầu hết những người nghe ngài giảng dạy đã không tin ngài. Vô Trước, Giáo Thọ Pháp Bảo, thế rồi đã cầu nguyện, nói rằng, “Con nay muốn đưa tất cả chúng sinh tin tưởng hoàn toàn trong giáo thuyết của Đại Thừa. Con chỉ cầu nguyện đến Thầy, Ôi Đại Sư, xin hãy xuống Diêm phù Đề để khai triển Đại Thừa để cho tất cả chúng sinh có thể hoàn toàn được thuyết phụcvới chân lý của nó.” Di Lặc, ngay sau đó, theo lời cầu nguyện của ngài , đã đến Diêm phù Đề vào ban đêm, tràn ngập ánh đại quang minh, có một chúng hội lớn của những ai liên hệ với Phật Pháp quy tụ trong giảng đường, và bắt trì tụng kinh Thập Thất Địa (Saptadasabhumi-sutra). Sau khi trì tụng một đoạn, ngài giảng giải ý nghĩa của nó. Mười Bảy Địa được hoàn tất vào ban đêm trong bốn tháng. Mặc dù tất cả đều cùng ởtrong giảng đường nghe thuyết pháp kinh luận, tuy nhiên, chỉ riêng Vô Trước, Giáo Thọ của Pháp Bảo, thân cận với Bồ Tát Di Lặc, trong khi những người khác chỉ có thể nghe ngài từ xa. Vào ban đêm, tất cả đều cùng nghe luận điển từ Di Lặc, trong khi vào ban ngày, Vô Trước - Giáo Thọ của Pháp Bảo, luận giải một lần nữa, vì lợi ích những người khác, trên những gì mà ngài đã được dạy bảo bởi Di Lặc Bồ Tát. Trong cách này tất cả mọi người có thể nghe và tin tưởng giáo pháp Đại Thừa. Di Lặc Bồ Tát đã dạy Vô Trước - Giáo Thọ của Pháp Bảo, học hỏi “nhật quang” tam muội. Khi ngài nghiên cứu theo những gi ngài được dạy, sau đó ngài đã đạt được sự thâm nhập vào tam muộiấy. Sau khi nhập vào tam muội ấy, tất cả những gì xưa kia ngày không thể thấu hiểu đã trở nên dễ hiểu. Bất cứ điều gì ngài đã nghe hay đã thấy không bao giờ quên mất, sức nhớ của ngài trở nên dai dẳng. Bất cứ nơi nào, trước đây ngài không thể thấu hiểu hoàn toàn những kinh điển của Đại Thừa, chẳng hạn như kinh Hoa Nghiêm, được Đức Phật thuyết giảng xưa kia, Di Lặc Bồ Tát đã giải thích cho ngài tất cả những điều này ở cung trời Đâu Suất. Sau đó ở Diêm Phù Đề, ngài đã viết vài bộ luận về kinh điển, trong ấy ngài đã trình bày chi tiết tất cả giáo thuyết Đại Thừa được Đức Phật thuyết giảng. Vô Trước Tôn Giả tiếp nhận giáo huấn từ Di Lặc Bồ Tát và truyền bá khắp thế giới. Ngài giao phó truyền thừa Giáo Pháp này cho Thiên Thân. Giáo huấn Tịnh Độ được truyền đạt từ Di Lặc Bồ Tát cho Vô Trước Tôn Giả.
Tác phẩm
Các tác phẩm quan trọng của Vô Trước là Du-già sư địa luận, Đại thừa trang nghiêm kinh luận, Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận và Nhiếp đại thừa luận, một bộ luận viết bằng văn vần trình bày giáo pháp của Duy thức tông, hiện nay chỉ còn bản dịch
chữ Hán
và
chữ Tây Tạng
. Tác phẩm này gồm có mười chương và bàn luận các điểm sau:
A-lại-da thức
;
Lý thuyết cho rằng tất cả thế giới đều từ tâm thức hiện nên, thuần tuý duy tâm (sa. cittamātra);
Cách chứng ngộ được thuyết này;
Các hạnh Ba-la-mật;
Thập địa
;
Giới
;
Thiền định
;
Bát-nhã
;
Trí huệ siêu việt vô phân biệt;
Tam thân
(sa. trikāya).
Có thuyết cho rằng, Sư cũng là tác giả của
Bí mật tập hội
(sa. guhyasamāja-tantra), một tác phẩm quan trọng thuộc hệ
Vô thượng du-già
, và nếu vậy Sư giữ một vị trí quan trọng trong Mật tông Phật giáo.
Các tác phẩm còn lưu lại dưới tên Sư hoặc dưới tên Di-lặc (trích):
Hiển dương thánh giáo luận (sa. prakaraṇāryaśāsana-śāstra, ārya-śāsana-prakaraṇaśāstra), 20 quyển,
Huyền Trang
dịch;
Du-già sư địa luận (sa. yogācārabhūmi-śāstra), 100 quyển, Huyền Trang dịch;
Nhiếp đại thừa luận (sa. mahāyānasaṃgraha), 3 quyển,
Chân Đế
dịch;
Đại thừa a-tì-đạt-ma tập luận (sa. abhidharma-samuccaya), 7 quyển, Huyền Trang dịch;
Đại thừa kinh trang nghiêm luận tụng (sa. mahāyāna-sūtralaṅkāra-kārikā), 13 quyển, Ba-la-phả-mật-đa-la (sa. prabhakāramitra) dịch, cũng có bản Phạn và Tạng ngữ;
Thuận trung luận (sa. madhyāntānusāra-śāstra), 2 quyển, Bát-nhã Lưu-chi (sa. prajñāruci) dịch;
Năng đoạn kim cương bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh luận tụng (2 bản, sa. āryabhagavatī-prajñāpāramitā-
vajracchedikā-saptārtha-ṭīkā và triśatikāyā-prajñāpāramitāyā-
kārikā-saptati); 3 quyển, Bồ-đề Lưu-chi dịch, Nghĩa Tịnh cũng dịch một bản;
Giải thâm mật kinh chú (sa. ārya-saṃdhinirmocana-bhāṣya), chỉ còn bản Tạng ngữ;
Hiện quán trang nghiêm luận tụng (sa. abhisamayā-laṅkāra-
nāmaprajñāpāramitā-upadeśa-
śāstra [-kārikā] thường được viết ngắn là abhisamayālaṅkāra-śāstra), còn bản Phạn và Tạng ngữ;
Biện trung biên luận tụng (sa. madhyānta-vibhāga-kārikā), bản Hán và Tạng ngữ vẫn còn. Có hai bản dịch tại Trung Quốc, Huyền Trang dịch ra 3 quyển, Chân Đế dịch ra 2 quyển dưới tên Trung biên phân biệt luận;
Pháp pháp tính phân biệt luận (sa. dharma-dharmatā-vibhāga), chỉ còn bản Tạng ngữ.
Kính mời xem bài
Quay lại