- Phẩm I: Quán về Nhân duyên (gồm 16 bài kệ)
- Phẩm II: Quán về Ði lại (gồm 25 bài kệ)
- Phẩm III: Quán về Sáu tình (gồm 8 bài kệ)
- Phẩm IV: Quán về Năm ấm (gồm 9 bài kệ)
- Phẩm V: Quán về Sáu chủng (gồm 6 bài kệ)
- Phẩm VI: Quán về Ô nhiễm, người ô nhiễm (gồm 10 bài kệ)
- Phẩm VII: Quán về Ba tướng (gồm 35 bài kệ)
- Phẩm VIII: Quán về Tác, tác giả (gồm 12 bài kệ)
- Phẩm IX: Quán về Bổn trụ (gồm 12 bài kệ)
- Phẩm X: Quán về Ðốt cháy, bị đốt cháy (gồm 16 bài kệ)
- Phẩm XI: Quán về Bổn tế (gồm 8 bài kệ)
- Phẩm XII: Quán về Khổ (gồm 9 bài kệ)
- Phẩm XIII: Quán về Hành (gồm 9 bài kệ)
- Phẩm XIV: Quán về Hiệp (gồm 8 bài kệ)
- Phẩm XV: Quán về Có, không (gồm 11 bài kệ)
- Phẩm XVI: Quán về Trói, mở, (gồm 10 bài kệ)
- Phẩm XVII: Quán về Nghiệp (gồm 33 bài kệ)
- Phẩm XVIII: Quán về Pháp (gồm 12 bài kệ)
- Phẩm XIX: Quán về Thời (gồm 6 bài kệ)
- Phẩm XX: Quán về Nhân quả (gồm 24 bài kệ)
- Phẩm XXI: Quán về Thành hoại (gồm 24 bài kệ)
- Phẩm XXII: Quán về Như Lai (gồm 16 bài kệ)
- Phẩm XXIII: Quán về Ðiên đảo (gồm 24 bài kệ)
- Phẩm XXIV: Quán về Tứ đế (gồm 40 bài kệ)
- Phẩm XXV: Quán về Niết bàn (gồm 24 bài kệ)
- Phẩm XXVI: Quán về Mười hai nhân duyên (gồm 9 bài kệ)
- Phẩm XXVII: Quán về Tà kiến (gồm 31 bài kệ)
- Phụ Lục
TRUNG LUẬN
(Madhyamaka Sastra)
Tác giả: Nagaruna
Dịch và chú giải: HT Thích Thiện Siêu
---o0o---
Phẩm 3: Quán về sáu tình.
Hỏi: Trong kinh nói có sáu tình là:
1. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Chúng có khả năng tiếp nhận sáu trần, như mắt tiếp nhận sắc…
Trong đây mắt là căn bên trong, sắc là cảnh trần bên ngoài; mắt hay thấy sắc, cho đến ý là căn bên trong, pháp là trần cảnh bên ngoài; ý hay biết pháp.
Đáp: Không phải vậy, vì sao?
2. Con mắt không thể tự thấy con mắt mình; nếu con mắt không thể tự thấy được, thời làm sao thấy các vật khác.
Mắt không tự thấy được chính mình, vì sao? Vì như đèn tự chiếu được mình và cũng chiếu được vật khác, nếu mắt là tướng thấy, thời mắt cũng có thể tự thấy và có thể thấy vật khác, nhưng thật không được như vậy, nên trong bài kệ nói: Nếu mắt không tự thấy được thời làm sao thấy được vật khác.
Hỏi: Tuy mắt không tự thấy được mà có thể thấy được vật khác, như lửa đốt vật khác được, mà không thể tự đốt?
Đáp:
3. Không thể đem lửa làm ví dụ để chứng minh cho con mắt có thể thấy. Việc này đã giải đáp chung trong đoạn đã đi, chưa đi, đang đi rồi.
Tuy ông nêu ví dụ lửa, song nó không thể làm chứng thành cho con mắt thấy, việc ấy đã giải đáp trong phẩm Đi lại: Như trong đã đi thì không có đi, trong chưa đi không có đi, trong đang đi không có đi. Như vậy lửa đã đốt, chưa đốt, đang khi đốt, đều không có đốt. Đã thấy, chưa thấy, đang khi thấy, đều không có tướng thấy.
Lại nữa,
4. Mắt thấy, nếu khi chưa thấy sắc, thời không gọi là thấy. Như vậy, mà nói rằng con mắt thấy có thể thấy, là điều không đúng.
Mắt chưa xúc đối với sắc, thời không thể thấy, khi này không gọi là thấy, nhân xúc đối với sắc mới gọi là thấy. Thế nên trong bài kệ nói: Khi chưa thấy thì không thấy, làm sao cho mắt thấy có thể thấy.
Lại nữa, hai nơi đều không có thấy.
5. Cái thấy không thể có thấy, cái chẳng phải thấy cũng không thấy. Nếu đã phá cái thấy, thời là phá người thấy.
Cái thấy (kiến) không thể thấy, trước đã phá rồi, phi cái thấy cũng không thấy, vì không có tướng trạng thấy. Nếu không có tướng trạng thấy thì làm sao có thể thấy. Cái thấy không có, nên người thấy cũng không có, vì sao? Vì nếu lìa cái thấy có người thấy, thời người không có mắt cũng có thể dùng các căn tai, mũi thấy được. Nếu do cái thấy thấy, thời trong cái thấy đã có tướng trạng thấy, còn người thấy thời không có tướng trạng thấy. Thế nên trong bài kệ nói: Nếu đã phá cái thấy là phá luôn người thấy.
Lại nữa,
6. Tách rời cái thấy hay không tách rời cái thấy, thời người thấy không thể có được. Bởi vì, không có người thấy, thì đâu có cái thấy và cái được thấy.
Nếu có thấy, thời người thấy không thành (vì đã thấy rồi thì cần gì người thấy) nếu không có thấy thời người thấy cũng không thành (vì không có thấy thời như đui, đâu gọi là người thấy). Vì người thấy không có, thì làm sao có thấy và bị thấy. Nếu không có người thấy thì ai dùng cái thấy để phân biệt ngoại sắc. Thế nên trong bài kệ nói: Vì không có người thấy nên không làm sao có thấy và bị thấy.
Lại nữa,
7. Cái thấy và cái bị thấy đều không có, nên bốn pháp là thức, xúc, thọ, ái không có; bốn pháp đã không có, thời bốn thủ (1) và các duyên khác như hữu, sinh, lão tử làm sao có được.
Vì cái thấy và bị thấy không có, nên bốn pháp là thức, xúc, thọ, ái đều không có, vì ái không có nên bốn thủ, mười hai chi nhân duyên cũng không có.
Lại nữa:
8. Mắt như vậy rồi, còn tai, mũi, lưỡi, thân, ý; tiếng và người nghe... nên biết các pháp này cũng có cùng một lý nghĩa như trên.
Như thấy và bị thấy đều không, vì nó thuộc các duyên, không có tính quyết định. Ngoài ra là tai, mũi, lưỡi, thân, ý và tiếng, mùi, vị, xúc, pháp, nên biết cùng đồng một nghĩa như thấy và bị thấy, nên không giải riêng.
Tóm tắt phẩm III: Quán về sáu tình. Sáu căn, ngài La Thập dịch là sáu tình. Nghe phẩm đi lại trên, người ngoài chưa chịu, vì theo họ như trong kinh A Hàm, khi hỏi thế nào là thế gian? thì Phật trả lời là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là thế gian. Như vậy hiện tại ta hiện có sáu căn thấy nghe hay biết rõ ràng, thì làm sao mà không có đi lại. Nên có Phẩm này xét về sáu căn đều không thật có. Phẩm này gồm có 4 phần: 1. Xét về nhãn căn không thành (kệ 1 đến kệ 4). 2. Xét về sự thấy, bị thấy, người thấy không thành (kệ 5,6). 3. Xét về kết quả của sự thấy, bị thấy không thành (kệ 7). 4. Xét về năm căn không thành (kệ 8). (1) Bốn thủ là: Dục thủ: chấp thủ năm dục; kiến thủ: chấp thủ thân kiến, biên kiến; giới thủ: chấp thủ tà giới; ngã ngữ thủ: chấp thủ ngã thông qua ngôn ngữ, vì ngã chỉ có danh, không có thực. Ái, thủ, hữu... là mỗi chi trong mười hai chi nhân duyên. |
---o0o---