Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hội Thứ VI Đại Bát Nhã hay Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã

26/06/202519:03(Xem: 819)
Hội Thứ VI Đại Bát Nhã hay Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã


duc phat thanh dao

ngon hai dang

Phật lịch: 2569, Nông lịch: Ất Tỵ; Tây lịch: 2025

 

 

 

HỘI THỨ VI ĐẠI BÁT NHÃ

HAY

Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã”

 

 

 

Việt dịch: HT THÍCH TRÍ NGHIÊM

Chiết giải: CƯ SĨ THIỆN BỬU

   

🌼🍁🌺🍀🌹🙏🙏🙏🏵️🌼🍁🌺🍀

 

 

TỰA

 

 

Muốn biết Kinh văn Hội Thứ VI bắt nguồn từ đâu thì phải đọc Đại Bát Nhã. Kinh Đại Bát Nhã do nhóm của Ngài Huyền Trang dịch hay sao lại các Kinh khác có trước khi Đại Bát Nhã ra đời. Đây là một đại tùng thư do Phật thuyết làm 16 pháp hội tại 4 địa điễm là: 1. Núi Thứu Phong nơi thành Vương Xá; 2. Vườn Cấp Cô Độc; 3. Cung Trời Tha Hóa Tự Tại và 4. Tịnh Xá Trúc Lâm gần ao cò trắng trong thành Vương Xá; gồm cả thảy có 600 quyển, trong số 777 quyển thuộc 41 hay 43 bộ Kinh, tức chiếm hết 4/5 hệ Bát Nhã nói riêng và 1/3 Đại Tạng Kinh Phật học nói chung. Nhưng các Hội của Đại Bát Nhã thường không lập tên phẩm riêng. Vì vậy, nên phải biết nội dung của từng pháp hội:

1. Hội thứ I có tên là Đại Phẩm (Phạm: Zatasàhasrikà- prajĩàpàramità) tổng cộng 400 quyển, là Hội dài nhất của Kinh Đại Bát Nhã nguyên bản tiếng Phạm gồm có 132.600 kệ tụng, tương đương với 100.000 kệ tụng Bát Nhã. Nội dung nói về việc mở rộng và tu tập pháp quán Bát Nhã, hạnh nguyện của Bồ Tát và sự sâu xa thù thắng của Bát Nhã; tường thuật nhân duyên tán thán cúng dường của các vị Đại đệ tử, chư Thiên, Thích, Phạm và công đức rộng lớn của việc thọ trì Bát Nhã dù chỉ với một câu, đồng thời, căn cứ vào nhân duyên thọ lãnh Bát Nhã của hai Bồ Tát Thường Đề và Pháp Dũng mà nói rõ việc được nghe Bát nhã Ba la mật là việc hi hữu;

2. Hội thứ II gọi là Đại bản (Phạm: Paĩcaviôzatisàhasrikà-prajĩàpàramità) gồm 78 quyển tương đương với 25.000 kệ tụng Bát Nhã hiện còn. Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa 27 quyển do Ngài Cưu ma La thập dịch vào đời Diêu Tần đồng bản với Hội này. Nội dung giống như Hội thứ I, nhưng văn từ ngắn gọn hơn nhiều. Đó là lý do tại sao Bồ Tát Long Thọ dùng Hội này để biên soạn Đại Trí Độ Luận;

3. Hội thứ III: Tạng giáo gọi là Zes-rab-kyi Pha-rol-tu phyin-pa khri-brgyad-stoí-pa. Gồm 31 phẩm, 59 quyển. Nguyên bản tiếng Phạm của hội thứ III gồm 18.000 kệ tụng, tương đương với 18.000 tụng Bát Nhã của bản dịch Tây Tạng. Nội dung cũng như hai Hội trên nhưng ngắn gọn hơn;

4. Hội thứ IV gọi là Tiểu Bản Bát Nhã (Phạm:Awỉasàhasrikà-prajĩàpàramità), gồm 29 phẩm, 18 quyển tương đương với Kinh “Tiểu Phẩm Bát Nhã Ba La Mật Đa”, 10 quyển do Ngài Cưu ma la thập dịch vào đời Hậu Tần hay Kinh Phật Mẫu Xuất Sinh Tam Pháp Tạng Bát Nhã Ba La Mật Đa, 25 quyển do Ngài Thi Hộ dịch vào đời Bắc Tống. Bản tiếng Phạm của Hội này gồm 8.000 kệ tụng, tương đương với 8.000 tụng Bát Nhã hiện còn. Văn từ của Hội này tỉnh lược ngắn gọn hơn các Hội trước nhiều. Vì vậy, Hội này được nhiều người ngưỡng mộ hơn;

5. Hội thứ V gồm 24 phẩm, 10 quyển, bản tiếng Phạm có 4.000 tụng. Nội dung rất vắn tắt, có thể xem như bản tóm lược của 5 Hội đầu.

Đó là lược tóm 5 phần chánh của ĐBN được thuyết giảng trong 5 Hội đầu, còn 11 Hội sau cùng đại cương như sau:

 

6. Hội thứ VI gồm 17 phẩm, 8 quyển. Nội dung hội này là đức Phật nói pháp Bát Nhã và cách tu tập Bát Nhã cho Thắng Thiên Vương nghe. Hội này cùng bản với Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật Đa 16 phẩm, 7 quyển do Ngài Nguyệt Bà Thủ Na dịch vào đời Trần thuộc Nam triều. Pháp Uyển Châu Lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục nói, nguyên bản tiếng Phạm của hội này là 2.500 kệ tụng.


7. Hội thứ VII:
Phần Mạn thù Thất lợi, 2 quyển, tương đương với 700 kệ tụng Bát Nhã (Phạm: Saptazatikà-prajĩàpànamità) tiếng Phạm, không lập tên phẩm riêng, cùng bản với Kinh “Văn Thù Sư Lợi sở thuyết Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật” 2 quyển, do Ngài Mạn Đà La Tiên dịch vào đời Lương và Kinh “Mạn Thù Sư Lợi Sở Thuyết Bát Nhã Ba La Mật”, 1 quyển, do Ngài Tăng Già Ba La dịch (cũng vào đời Lương). Pháp Uyển Châu Lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục nói bản tiếng Phạm của hội này có 800 kệ tụng.


8. Hội thứ VIII:
Phần Na già Thất lợi, 1 quyển. Hội này là đồng bản với Kinh “Nhu thủ Bồ Tát Vô Thượng Thanh Tịnh Phân Vệ”, 2 quyển, do Tường Công dịch vào đời Tống, có 400 kệ tụng.


9. Hội thứ IX
: “Năng Đoạn Kim Cương phần”, 1 quyển, tương đương với Kinh “Kim Cương Năng Đoạn Bát Nhã Ba La Mật Đa” (Phạm: Vajracchedikàprajĩàpàramità) tiếng Phạm. Hội này có rất nhiều vị chiết giải nhất so với các Kinh khác trong hệ Bát Nhã. Pháp Uyển Châu lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục nói bản tiếng Phạm hội này có 300 kệ tụng.


10. Hội thứ X
: Phần Bát Nhã Lý Thú, 1 quyển, tương đương với 150 kệ tụng Bát Nhã Lý Thú (Phạm: Prajĩàpàramità-nayazatapaĩcàzatikà) tiếng Phạm hiện còn. Các kinh: “Thực Tướng Bát Nhã Ba La Mật” do Ngài Bồ đề Lưu chi dịch vào đời Đường, Kim “Cương Đính Du Già Lý Thú Bát Nhã” do Ngài Kim Cương Trí dịch, “Đại Lạc Kim Cương Bất Không Chân Thực Tam Ma Da” do Ngài Bất Không dịch, “Biến Chiếu Bát Nhã Ba La Mật” do Ngài Thí Hộ dịch vào đời Tống v.v... mỗi thứ 1 quyển, đều là cùng bản với hội này.


11. Hội thứ XI
: “Phần Bố thí Ba la mật đa”, 5 quyển.


12. Hội thứ XII
: “Phần Tịnh giới Ba la mật đa”, 5 quyển.


13. Hội thứ XIII
: “Phần An nhẫn Ba la mật đa”, 1 quyển.


14. Hội thứ XIV
: “Phần Tinh tấn Ba la mật đa”, 1 quyển.


15. Hội thứ XV
: “Phần Tĩnh lự Ba la mật đa”, 2 quyển. Theo Khai Nguyên Thích Giáo lục, bản tiếng Phạm của hai hội thứ XI, XII mỗi hội là 2.000 kệ tụng, hai hội XIII, XIV, mỗi hội 400 kệ tụng, hội XV có 800 kệ tụng. Nhưng Pháp Uyển Châu lâm bảo bản tiếng Phạm của hội XIV có 800 kệ tụng.


16. Hội thứ XVI
: “Phần Bát nhã Ba la mật đa”, 8 quyển. Pháp Uyển Châu lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục nói nguyên văn bản tiếng Phạm của hội này gồm 2500 kệ tụng, tương đương tiếng Phạm hiện còn (Suvikràntavikràmiparipfcchà). Toàn Hội nói về trí Bát Nhã và những nguyên lý chỉ đạo của nó.

Đó là Bố cục tổng quát của Kinh Đại Bát Nhã(tóm tắt theo Phật Quang Tự điển). Không phải chúng tôi giới thiệu Đại Bát Nhã mà ở đây chúng tôi muốn trình bài nguồn gốc của Hội thứ VI xuất xứ từ đâu? Bây giờ, ai cũng đều rõ Hội thứ VI là một trong 16 pháp hội của Đại Bát Nhã. Đó là câu trả lời!

 

Giới Thiệu Kinh Văn Hội Thứ VI.

 

Hội thứ VI, ĐBN do nhóm của Ngài Huyền Trang biên soạn(1). Theo một số học giả cũng như những nhà khảo cứu kinh điển cho rằng Kinh văn Hội này không do nhóm của Ngài Huyền Trang dịch toàn bộ từ Phạn sang Hán, mà sao lại một số bản dịch của người khác và ghi vào Hội thứ VI. Nếu so chiếu bản dịch của Hội thứ VI, ĐBN với Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật Đa” gọi tắt là “Thắng Thiên Vương Bát Nhã (TTVBN)” do Nguyệt Bà Thủ Na dịch(Đại Tạng Kinh Việt Nam mang số thẻ 0231, 7 quyển, 16 phẩm do vương tử Nguyệt Bà Thủ Na, người nước Ưu thiền ni dịch từ Phạn sang Hán vào đời Trần thuộc Nam triều): Hội và Kinh giống nhau như hai giọt nước. Vì không có nguyên bản bằng chữ Hán để so chiếu(chỉ so chiếu bản Việt dịch của HT Thích Trí Nghiêm với bản Việt dịch của nhóm Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng), nên chúng tôi không thể quả quyết nhóm dịch thuật của Ngài Huyền Trang sao lại bản dịch của vương tử Nguyệt Bà Thủ Na.

Trong Hội thứ VI ĐBN, Phật trực tiếp thuyết Kinh Bát Nhã và cách tu tập Bát Nhã cho Thắng thiên vương nghe. Ngoài ra, Phật còn dạy Thắng thiên vương về tịnh hạnh. Tịnh hạnh là hạnh cao cả tế nhị mà bất cứ ai tu Bồ Tát hạnh hay Bồ Tát đạo cũng phải chấp trì nghiêm mật. Lại nữa, văn phong của Hội và Kinh rất thanh thoát, giáo lý bình dị, dễ hiểu, dễ học... nhưng không kém phần vi diệu. Vì vậy, chúng tôi cho rằng Hội thứ VI và Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã” đặc biệt tuy có 8 quyển(2) trong số 777 quyển thuôc hệ Bát Nhã so với các Kinh khác(3)!

Pháp hội thứ VI, ĐBN trước hết có thể nói:

1- Như một bản tóm lược 5 Hội đầu của Kinh Đại Bát Nhã: Năm Hội đầu của Kinh Đại Bát Nhã chiếm hết tổng cộng 565 quyển, trong số 600 quyển Đại Bát Nhã mà tất cả những nhà khảo cứu kinh điển, các học giả, các bậc tu hành... đều đồng ý là quá trùng tụng. Kinh Đại Bát Nhã được xem là một bộ Kinh đồ sộ mà Phật đã mất tổng cộng 22 năm xiển dương trong 45 năm(4) hóa đạo của Ngài. Vì Kinh quá dài và quá trùng tụng nên trong lịch sử Phật đạo ít có ai chiết giải trọn vẹn Kinh này(5). Hội thứ VI hay Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã” ngắn gọn, văn từ thanh thoát lại hầu như gồm thâu được các giáo lý chính 5 Hội đầu. Nên chúng tôi chiết giải Hội này để cho những ai muốn thọ trì Kinh Đại Bát Nhã mà không có điều kiện;

2- Sau nữa trong 16 Hội của Đại Bát Nhã Ba Mật cũng như trong 41 hay 43 bộ Kinh thuộc hệ Bát Nhã, Hội thứ VI là một Hội đặc biệt. Vì Hội này thay vì thuyết chung “Thập Nhị Chơn Như” với nhau lại chia phẩm “Chơn như” thành 3 phẩm Pháp giới, Pháp tánh, Bình đẳng tánh và thuyết trong ba phẩm khác nhau. Điều này nói lên tầm quan trọng trong việc tu tập thập nhị chơn như: Vì sao? Vì ai chứng được thập nhị chơn như được xem như nhập pháp giới hay nói khác là giác ngộ! Chúng tôi có sơ giải Hội thứ VI, ĐBN trong Tổng luận Đại Bát Nhã, tuy căn bản nhưng cảm thấy không được đầy đủ. Vì vậy, nên viết lại thành sách riêng lấy tên là “Hội thứ VI, ĐBN hay Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã”(6).

 

Cho nên, những ai muốn nhập pháp giới, muốn giác ngộ nên đọc tụng thọ trì nghiêm mật Hội thứ VI và Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã”. Đó là cốt tủy của Hội này!

Thích nghĩa cho phần giới thiệu Kinh:

(1). Các nhà khảo cứu và các học giả Phật học khi chú giải Kinh ĐBN cho rằng: Trong 600 quyển của Kinh ĐBN chỉ có 481 quyển ở các Hội thứ 1, 3, 5, 11, 12, 13, 14, 15 và 16 (9 Hội) là do nhóm của Ngài Huyền Trang dịch. Còn lại 119 quyển thuộc các Hội thứ: 2, 4, 6, 7, 8, 9, 10 (7 Hội) đã có các vị đi trước dịch rồi và nhóm của Ngài Huyền Trang chỉ sao lại thôi và bỏ vào Kinh Đại Bát Nhã.

(2). Hội thứ VI, ĐBN gồm 8 quyển, 17 phẩm, trong khi Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã” trong Đại Tạng Kinh Việt Nam theo Tuệ Quang Wisdom Light Foundation, mang số thẻ 0231, chỉ có 7 quyển, 16 phẩm. Vì Hội thứ VI, ĐBN chia phẩm “Thông Đạt” của Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã” ra làm hai: 1- Là phẩm “Duyên Khởi” và 2- Là phẩm “Thông Đạt hay Thông Suốt”. Vì vậy, Hội thứ VI mới có 8 quyển, 17 phẩm mặc dù nội dung của cả Hội lẫn Kinh chỉ là một.

(3). Theo Tuệ Quang Wisdom Light Foundation, hệ Bát Nhã trong Đại Tạng Kinh Việt Nam tổng cộng có 41 bộ Kinh(nhiều chỗ lại cho hệ Bát Nhã có 42 hay 43 bộ Kinh), gồm 777 quyển như đã nói ở trên.

(4). Phật thuyết pháp tổng cộng 45 năm nói theo Kinh sách Nguyên thỉ, còn theo Kinh sách Bắc tông thì nói 49 năm, chia ra như sau:

 

Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhựt

A Hàm thập nhị, Phương Đẳng bát

Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm

Pháp Hoa, Niết Bàn cộng bát niên.

 

Dịch:

 

Trước nói Hoa Nghiêm hăm mốt ngày

A Hàm mười hai, Phương Đẳng tám

Hai mươi hai năm nói Bát Nhã

Pháp Hoa, Niết Bàn cộng tám năm.

 

Riêng Bát nhã Ba la mật, Phật thuyết tổng cộng 22 năm trong suốt 45 hay 49 năm du hành thuyết pháp độ sanh của Phật so với các Kinh khác. Vậy mới biết tầm quan trọng của các Kinh thuộc hệ Bát Nhã.

(5). Đại Bát Nhã do nhóm của Ngài Huyền Trang dịch từ Phạn sang Hán, tổng cộng có tới 600 quyển, khoảng 167.300 bài tụng(sloka) tính theo Pháp Uyển Châu Lâm Q.100 và Khai Nguyên Thích Giáo Lục Q.11. Nếu diễn dịch Kinh ĐBN ra chữ thì tổng cộng hơn 5 triệu chữ. (Mỗi bài tụng gọi là sloka gồm 4 hàng, mỗi hàng gồm 8 chữ. Vậy, 1 sloka có 32 chữ; 32 chữ nhân cho 167.300 sloka bằng 5.353.600 chữ. Nhưng theo nguyên bản bằng chữ Phạn hiện còn thì Đại Bát Nhã Ba La Mật có tới 200.000 kệ tụng. Nếu tính ra bằng chữ tổng cộng có tới 200.000 X 32 = 6.400.000 chữ. Vì Kinh quá dài và quá trùng tụng nên suốt dòng lịch sử Phật đạo 26 thế kỷ chỉ có một số tác giả chiết giải từng quyển, từng Hội hay từng Phần của Kinh này mà thôi, không có ai chiết giải toàn bộ Đại Bát Nhã trừ Bộ Tổng Luận Đại Bát Nhã do chúng tôi biên soạn.

(6). Hội thứ VI, ĐBN được sơ giải trong Tổng luận Đại Bát Nhã phiên bản III do Quảng Đức Tùng Thư ấn hành, Phật lịch 2569, Nông lịch: Ất tỵ, Tây lịch 2025, có đăng trên Trang Nhà Quảng Đức. Vì thấy Kinh văn rất bình dị dễ hiểu, ngắn gọn nhưng không kém phần thâm diệu. Nên chúng tôi chọn Kinh này chiết giải để cống hiến độc giả xa gần tu học, thay vì tụng đọc toàn bộ Đại Bát Nhã dài hơn 7.000 trang.

 

Đây là một bộ Kinh nhỏ nhưng giáo lý vô cùng rộng lớn! Hội này tuy thuộc hệ Bát Nhã, nhưng không có thuyết nhiều về Thập Ba la mật, 18 pháp Không hay các pháp mầu Phật đạo nói chung. Điểm đáng chú ý là Hội này thuyết về “Thập nhị Chơn như”, lại chia phẩm “Chơn Như” thành ba phẩm riêng biệt là Pháp giới, Pháp Tánh và Bình đẳng tánh. Đó là ba phẩm cốt tủy của Hội này.

Bởi vì, tu “Thập nhị chơn như” hay “12 tên gọi của thật tướng” mà thành tựu thì thấy được thật tướng tất cả pháp như chúng tôi thấy: “Cây cỏ đối với ta đồng gốc, sông núi đối với ta đồng nguồn”, tức nhập pháp giới hay nói khác là Giác ngộ. Đó là con đường tu ngắn nhất hay gọi là “tu tắt” nói theo Thế tục. Ước vọng quyển sách nhỏ này đem lại nguồn sinh lực mới cho những ai thọ trì hệ Bát Nhã.

 

---o0o---



httringhiem-qd
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm

 

 

Mục lục

 

TỰA...............................................................................01

Giới thiệu kinh văn.........................................................04

Mục lục với các phẩm:...................................................08

01. Phẩm “Duyên Khởi”................................................09

02. Phẩm “Thông Đạt Hay Thông Suốt”........................18

03. Phẩm “Hiển Tướng”.................................................49

04. Phẩm “Pháp Giới”....................................................65

05. Phẩm “Niệm Trụ”.....................................................99

06. Phẩm “Pháp Tánh”.................................................117

07. Phẩm “Bình Đẳng”.................................................153

08. Phẩm “Hiện Tướng”...............................................169

09. Phẩm “Vô Sở Đắc”.................................................184

10. Phẩm “Chứng Khuyến”..........................................203

11. Phẩm “Hiển Đức”...................................................215

12. Phẩm “Hiện Hóa”...................................................227

13. Phẩm “Đà La Ni”...................................................235

14. Phẩm “Khuyên Răn”..............................................242

15. Phẩm “Nhị Hạnh”...................................................250

16. Phẩm “Tán Thán”...................................................261

17. Phẩm “Phó Chúc”.........................................269 - 274

 

Hết Hội thứ VI

 

---o0o---

 

 

HỘI THỨ VI.

(Bố cục)

 

6. Hội thứ VI: Gồm 8 quyển, 17 phẩm. Nội dung hội này, đức Phật nói pháp Bát Nhã và cách tu tập Bát Nhã cho Thắng thiên vương nghe. Hội này cùng bản với Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật Đa 7 quyển do Ngài Nguyệt Bà Thủ Na dịch vào đời Trần thuộc Nam triều. Pháp Uyển Châu Lâm và Khai Nguyên Thích Giáo lục nói, nguyên bản tiếng Phạm của hội này có 2.500 kệ tụng.

 

---o0o---

 

 

01. PHẨM “DUYÊN KHỞI”

Đầu quyển 566, Hội thứ VI, ĐBN.
(Tương đương với các phẩm “Duyên Khởi” của các Hội trước)

 

Tóm lược:

 

Quyển 566

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời Bạc Già Phạm (Phật) ngự ở đỉnh núi Thứu Phong(1), thuộc thành Vương Xá(2), cùng với chúng đại Bí sô bốn vạn hai ngàn(3) người đều là bậc A la hán, các lậu đã sạch, không còn phiền não, được chơn tự tại, tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn, như ngựa khôn được tập luyện, cũng như rồng lớn, việc đáng làm đã làm xong, đã vứt bỏ gánh nặng, đã đạt được lợi ích, dứt hết các kiết sử, chánh trí giải thoát, tâm được tự tại rốt ráo đệ nhất. Các Ngài đó là: Cụ thọ Giải Kiều Trần Na, Đại Ca Diếp Ba, Cấp Phòng Bát để, Hạt Lệ Phiệt Đa, Đại Thải Thục Để, Đại Ca Đa Diễn Na, Tất Lan Đà Phiệt Ra, Xá Lợi Tử, Mãn Từ Tử, Bạt Câu La, Ưu Ba Ly, La Lổ La, Vô Diệt Thiện Hiện làm thượng thủ. Trừ một mình A Nan Đà còn ở địa vị hữu học đắc quả Dự lưu.

Lại có bảy vạn hai ngàn(4) đại Bồ Tát  đều đã thông đạt pháp tánh sâu xa, đã điều thuận dễ hóa, diệu hạnh bình đẳng, đắc pháp môn Đà la ni vô ngại biện, là bạn lành chơn tịnh của tất cả hữu tình, có thể chuyển vận bánh xe chánh pháp(5) vi diệu bất thối, thương xót thế gian, hộ trì tạng pháp, đã từng cúng dường vô lượng Như Lai, tiếp nối làm hưng thịnh ba ngôi báu(6), thường khiến cho không dứt diệt, thông đạt cảnh giới sâu xa của chư Phật, còn một đời làm đệ tử chơn thật của đấng Pháp vương, thường có thể tiếp nối Phật, chuyển vận bánh xe chánh pháp; mặc dù ở thế gian nhưng không bị nhiễm. Các Ngài đầy đủ vô lượng công đức như thế, từ nước Phật này hoặc từ phương khác, vì nghe pháp nên đi đến chỗ Phật. Đó là: Bồ Tát Bảo Tướng, Bồ Tát Bảo Thủ, Bồ Tát Bảo Ấn, Bồ Tát Bảo Kế, Bồ Tát Bảo Quang, Bồ Tát Bảo Phong, Bồ Tát Bảo Hải, Bồ Tát Bảo Diễm, Bồ Tát Bảo Tràng, Bồ Tát Bảo Tạng, Bồ Tát Kim Tràng, Bồ Tát Tịnh Tạng, Bồ Tát Đức Tạng, Bồ Tát Định Tạng, Bồ Tát Trí Tạng, Bồ Tát Nhật Tạng, Bồ Tát Nguyệt Tạng, Bồ Tát Như Lai Tạng, Bồ Tát Liên Hoa Tạng, Bồ Tát Kim Cang Tạng, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Phổ Âm, Bồ Tát Phổ Giới, Bồ Tát Phổ Hành, Bồ Tát Phổ Nhãn, Bồ Tát Quảng Nhãn, Bồ Tát Liên Hoa Nhãn, Bồ Tát Trí Tuệ, Bồ Tát Thượng Tuệ, Bồ Tát Thắng Tuệ, Bồ Tát Liên Hoa Tuệ, Bồ Tát Kim Cang Tuệ, Bồ Tát Nhật Quang, Bồ Tát Nguyệt Quang, Bồ Tát Trí Quang, Bồ Tát Trí Đức, Bồ Tát Hiền Đức, Bồ Tát Hoa Đức, Bồ Tát Nhật Quán, Bồ Tát Nguyệt Quán, Bồ Tát Vô Nhiễm, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Đại Âm Vương, Bồ Tát Sư Tử Hống, Bồ Tát Sư Tử Du Hý, Bồ Tát Hiền Thủ, Bồ Tát Thập Lục Hiền, Bồ Tát Từ Thị v.v...

Các Bồ Tát ở Hiền kiếp: Bồ Tát Quán Tự Tại, Bồ Tát Diệu Cát Tường làm thượng thủ.

Lại có vô lượng chúng trời: Tứ Đại vương, Tứ Đại Thiên vương làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời: Ba mươi ba, Thiên vương Đế Thích làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời: Dạ ma, Thiên vương Tô dạ ma làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Đổ sử đa, Thiên vương San đổ sử đa làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời: Nhạo Biến Hóa, Thiên vương Thiện Hóa làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Tha Hóa Tự Tại, Thiên vương Tự Tại làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Phạm Chúng v.v... Thiên vương Đại Phạm làm thượng thủ. Lại có vô lượng trời Tịnh Cư, trời Tự Tại làm thượng thủ... Các Thiên vương ấy dẫn quyến thuộc đến chỗ Phật nghe pháp.

Lại có vô lượng vua A tu la, trong đó có: Vua A tu la Cụ Lực, vua A tu la Kiêm Uẩn, vua A tu la Tạp Oai, vua A tu la Bộc Chấp làm thượng thủ, đều thống lãnh vô lượng trăm ngàn quyến thuộc, đi đến chỗ Phật nghe pháp.

Lại có vô lượng Đại Lực Long vương, trong đó có: Long vương Vô Nhiệt, Long vương Mãnh Ý, Long vương Hải Trụ, Long vương Công Xảo làm thượng thủ, đều thống lãnh vô lượng trăm ngàn quyến thuộc, đi đến chỗ Phật nghe pháp.

Lại có vô lượng Đại thần Dược xoa, nhơn phi nhơn v.v... và các quyến thuộc, đi đến chỗ Phật nghe pháp.

Khi ấy, núi Thứu Phong cao rộng khoảng bốn mươi do tuần, đầy dẫy đại chúng, mặt đất và hư không, chẳng có chỗ xen hở.

Thế Tôn ngồi ở tòa Sư tử, vô lượng đại chúng vây quanh trước sau, cung kính cúng dường, tôn trọng khen ngợi, chấp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan.

Như Lai hiện năng lực thần thông, từ nơi miệng phát ra các thứ hào quang muôn sắc chiếu khắp vô biên thế giới trong 10 phương, hiện việc hy hữu rồi các hào quang quay về chỗ Phật, lượn quanh bên phải ba vòng và chui vào diện môn.

 

- Bấy giờ, ở phương Đông, cách cõi Phật này hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới Phật tên là Trang Nghiêm, Phật hiệu là Phổ Quang Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn (Bạc già phạm), khi ấy đang an ẩn trụ trì cõi kia, tuyên thuyết chánh pháp tương ưng với Nhất thừa cho các chúng đại Bồ Tát. Ở thế giới của Phật kia, từ Nhị thừa còn chẳng nghe, huống là có người siêng năng tu tập pháp đó. Các Bồ Tát kia đều đắc Bất thối chuyển, các hữu tình kia chẳng thọ thực như cõi phàm, chỉ sống bằng thiền định giải thoát. Cõi đó chẳng cần ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, chỉ có hào quang nơi thân Phật ngày đêm thường chiếu. Cõi đó không có gai độc, sỏi đá, khe, lạch, hang, núi, gò… đất bằng như bàn tay. Ở đó có Bồ Tát tên là Ly Chướng, thấy hào quang này, tâm còn do dự, cùng các chúng đại Bồ Tát  đi đến trước Phật cõi đó, đảnh lễ sát chân Phật, phủ vai bên trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên nào mà có điềm lành này?

Khi ấy, Phật Phổ Quang bảo Ly Chướng:

- Về phương Tây, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Kham Nhẫn, Phật hiệu Thích ca Mâu ni Như Lai, mười hiệu đầy đủ, đang thuyết Đại Bát nhã Ba la mật cho các chúng đại Bồ Tát. Do nhân duyên này nên hiện điềm lành.

Bồ Tát Ly Chướng nghe xong, bạch:

- Bạch Thế Tôn! Nay con xin qua thế giới Kham Nhẫn quan sát, đảnh lễ, cúng dường Như Lai Thích ca để nghe và lãnh thọ chánh pháp. Cúi xin Thế Tôn cho phép.

Phật Phổ Quang bảo Ly Chướng:

- Nay đã đúng thời, ngươi nên mau đi.

Bồ Tát Ly Chướng được Phật cho phép, vui mừng hớn hở liền cùng với vô lượng chúng Bồ Tát đồng đi đến Thứu Phong, đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui ngồi một bên.

 

- Về phương Nam, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Thanh Tịnh Hoa, Phật hiệu Nhật Quang, 10 hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Nhật Tạng.

 

- Về phương Tây, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Bảo Hoa, Phật hiệu Công Đức Quang Minh, 10 hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Công Đức Tạng.

 

- Về phương Bắc, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Thanh Tịnh, Phật hiệu Tự Tại Vương, ở đó có Bồ Tát tên là Quảng Văn.

 

- Về phương Đông Nam, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Hỏa Diệm, Phật hiệu Cam Lồ Vương, 10 hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Bất Thối Chuyển.

 

- Về phương Tây Nam, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Thanh Tịnh Công Đức, Phật hiệu Trí Cự, 10 hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Đại Tuệ.

 

- Về phương Tây Bắc, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Duyệt Ý, Phật hiệu Diệu Âm Vương, 10 hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Công Đức Tụ.

 

- Về phương Đông Bắc, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Tuệ Trang Nghiêm, Phật hiệu Trí Thượng, 10 hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Thường Hỷ.

 

- Về phương Trên, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Bất Động, Phật hiệu Kim Cang Tướng, 10 hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Bảo Tràng.

 

- Về phương Dưới, cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Nguyệt Quang Minh, Phật hiệu là Kim Cang Bảo Trang Nghiêm Vương, 10 hiệu đầy đủ, ở đó có Bồ Tát tên là Bảo Tín.

 

Như thế, tất cả đều như phương Đông, có nghĩa là các Bồ Tát (ở chín phương khác) xin phép chư Phật cõi mình đến thế giới Kham Nhẫn cúng dường Như Lai Thích Ca để nghe và lãnh thọ chánh pháp.

 

Thích nghĩa:

(1). Núi Thứu Phong: Còn gọi là núi Linh Thứu hay núi Kỳ Xà Quật nằm ở phía Đông Bắc thành Vương Xá, nước Ma Yết Đà hay Ma Kiệt Đà, Trung Ấn. Hình dáng núi này giống như đầu con chim thứu (kên kên) và trong núi cũng có nhiều chim thứu, nên đặt tên là Linh thứu. Ngoài Kinh ĐBN, Đức Như Lai từng tuyên thuyết các Kinh Đại thừa khác như Kinh Pháp Hoa... ở đây, cho nên núi này đã trở thành Thánh địa Phật giáo.

(2). Vương Xá thành: Xứ Ma Kiệt Đà (Skt & P là Magadha), còn gọi là Ma Kiệt Đề, Ma Yết Đà, Ma Già Đà: Một trong mười sáu vương quốc cổ ở Ấn Độ trong thời Phật còn tại thế, nằm về phía Đông Bắc Ấn, trong đó có Bồ Đề Đạo Tràng, một trung tâm Phật giáo thời cổ, nơi có nhiều tịnh xá gọi là Bahar. Thời Đức Phật còn tại thế, Ma Kiệt Đà là một vương quốc hùng cường, dưới quyền cai trị của vua Tần Bà Sa La (khoảng từ năm 543 - 493 trước Tây Lịch), kinh đô của xứ này nằm trong thành Vương Xá. A Xà Thế là con của Tần Bà Sa La cướp ngôi giết cha, tiếp tục cai trị xứ này. Vua A Dục (vào khoảng thế kỷ thứ III trước Tây Lịch) thống nhất toàn Ấn độ, lấy nước Ma Kiệt Đà làm trung tâm. Khi xưa nước này thuộc các quận Patna và Gaya, tiểu bang Bihar, miền Đông Bắc Ấn Độ. Núi Linh Thứu, và Trúc Lâm Tịnh xá đều nằm trong xứ Ma Kiệt Đà.

Xin xem lịch sử thành Vương Xá và núi Kỳ Xà Quật, phẩm thứ nhất nói về “Trụ Vương Xá Thành”, Tập 1, quyển 3, Đại Trí Độ Luận do Bồ Tát Long Thọ biên soạn. Hơn ai hết Bồ Tát Long Thọ là vị La Hán thứ XIV thay Phật nắm giữ và phát huy Tăng đoàn. Nên hiểu rõ bối cảnh lịch sử hơn ai hết. Đó là nguồn tin đáng tin cậy nhất.

(3). Chúng đại Bí sô bốn vạn hai ngàn(42.000): Theo Phật sử Tăng đoàn do Phật thành lập chỉ có 1.250 vị Tỳ kheo nam và 500 vị Tỳ kheo nữ. Sau khi liệt kê một số Tỳ kheo quen thuộc trong số đó các các đại đệ tử của Phật như Ma ha ca diếp, Xá lợi phất, Mục kiền liên, Tu bồ đề, Ưu ba ly, A nam,… rồi Kinh kết luận tất cả gồm bốn vạn hai ngàn Tỳ kheo. Không biết con số đó từ đâu ra, nên chúng tôi không thể giải thích?

(4). Có bảy vạn hai ngàn: Số Bồ Tát tại thế giới Kham Nhẫn không thể tính đếm được. Kinh bảo có đến bảy mươi hai vạn.  

(5). Chuyển vận bánh xe chánh pháp(chuyển pháp luân): Bánh xe pháp, tỷ dụ cho Phật pháp, có ba nghĩa chính. 1- Phá tan, vì Phật pháp có thể phá tan tội ác của chúng sanh, giống như bánh xe báu của Chuyển Luân Thánh Vương có thể nghiền nát vụn những tảng đá lớn nhỏ; nên cũng gọi là pháp luân. 2- Quay lăn mãi, vì giáo pháp của đức Phật không dừng lại ở bất cứ một người nào hay nơi nào, giống như bánh xe lăn mãi trên đường không dừng lại, nên gọi là pháp luân. 3- Tròn đầy, vì giáo pháp của đức Phật tròn đầy, không khuyết, nên lấy sự tròn đầy của bánh xe mà thí dụ. – Tóm tắt Phật Học Tinh Tuyển.

(6). Ba ngôi báu hay Tam bảo: (S: Tri-ratna, ratna-traya, P: Ti-ratana, ratanattaya, j: sampō, 三寶): Chỉ cho ba ngôi báu, gồm Phật Bảo (佛寶), Pháp Bảo (法寶) và Tăng Bảo (僧寶), mà một tín đồ Phật Giáo cần phải tôn kính, cúng dường; còn gọi là Tam Tôn (三尊). 1- Phật (S, P: buddha, ), chỉ cho đấng tự giác ngộ mình và làm cho người khác giác ngộ, là vị giáo chủ Phật giáo có thể dạy đỗ, hướng dẫn người khác; hoặc chỉ chung cho chư Phật. 2- Pháp (S: dharma, P: dhamma, ), là giáo pháp, lời dạy được đức Phật giác ngộ và tuyên thuyết cho người khác. 3- Tăng (S, P: saṅgha, ), chỉ cho tập đoàn đệ tử của đức Phật chuyên hành tì, tu tập giáo pháp của Ngài. Thường giáo đoàn này phải có 3 người trở lên mới được gọi là Tăng. Ba ngôi báu này có uy đức rất cao tột, vĩnh viễn không thay đổi, giống như bảo vật trên đời, nên có tên là Tam Bảo.- Tóm lược Phật học Tinh Tuyển.

 

Lược giải:

 

Giống như tất cả các pháp hội trong toàn bộ Đại Bát Nhã, pháp hội nào mở đầu cũng đều thuyết về nguyên nhân tại sao có pháp hội? Phật thường phóng quang và làm chấn động 6 cách báo cho tất cả chúng sanh khắp thế giới mười phương biết là Phật sắp thuyết Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật (trong đó có Hội thứ VI tương đương với Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã”). Đó là duyên khởi.

Nhưng quang cảnh của pháp hội này không được tưng bừng lộng lẫy như các pháp hội khác khi ra mắt Kinh Đại Bát Nhã. Tuy nhiên, nhờ hào quang của Phật Thích Ca Mâu ni ở Thiệm Bộ Châu mà chư Phật, Bồ Tát, cùng đại chúng chư Thiên, Phạm thiên cùng Thiên long bát bộ khắp 10 phương thế giới biết là Phật Thích Ca sắp thuyết pháp.

Muốn diễn tả bất cứ một cuộc diễn thuyết nào, ai cũng phải miêu tả quang cảnh buổi hội, giới thiệu diễn giả, khán giả, chương trình nghị sự, v.v… Phật thuyết Kinh này tại đỉnh Linh Thứu, núi Kỳ xà quật, ở phía Đông Bắc thành Vương xá, nước Ma kiệt đà, thuộc Trung Ấn, một quốc gia hùng mạnh thời bấy giờ. Thành phần chủ khách như sau: 

 

- Chủ:

Đại chúng Tỳ kheo bốn vạn hai ngàn người (42.000) trong số đó có các đại đệ tử như Cụ thọ Giải Kiều Trần Na, Đại Ca Diếp Ba, Cấp Phòng Bát để, Hạt Lệ Phiệt Đa, Đại Thải Thục Để, Đại Ca Đa Diễn Na, Tất Lan Đà Phiệt Ra, Xá Lợi Tử, Mãn Từ Tử, Bạt Câu La, Ưu Ba Ly, La Lổ La, Vô Diệt Thiện Hiện làm thượng thủ.

Bậc Đại Bồ Tát cũng có bảy vạn hai ngàn người (72.000) đều thông suốt pháp tánh thâm sâu đã thành đạo nghiệp, gồm các vị quen thuộc như Bồ Tát Bảo Tướng, Bồ Tát Bảo Thủ, Bồ Tát Bảo Ấn, Bồ Tát Bảo Kế, Bồ Tát Bảo Quang, Bồ Tát Bảo Phong, Bồ Tát Bảo Hải, Bồ Tát Bảo Diễm, Bồ Tát Bảo Tràng, Bồ Tát Bảo Tạng, Bồ Tát Kim Tràng, Bồ Tát Tịnh Tạng, Bồ Tát Đức Tạng, Bồ Tát Định Tạng, Bồ Tát Trí Tạng, Bồ Tát Nhật Tạng, Bồ Tát Nguyệt Tạng, Bồ Tát Như Lai Tạng, Bồ Tát Liên Hoa Tạng, Bồ Tát Kim Cang Tạng, Bồ Tát Giải Thoát Nguyệt, Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Phổ Âm, Bồ Tát Phổ Giới, Bồ Tát Phổ Hành, Bồ Tát Phổ Nhãn, Bồ Tát Quảng Nhãn, Bồ Tát Liên Hoa Nhãn, Bồ Tát Trí Tuệ, Bồ Tát Thượng Tuệ, Bồ Tát Thắng Tuệ, Bồ Tát Liên Hoa Tuệ, Bồ Tát Kim Cang Tuệ, Bồ Tát Nhật Quang, Bồ Tát Nguyệt Quang, Bồ Tát Trí Quang, Bồ Tát Trí Đức, Bồ Tát Hiền Đức, Bồ Tát Hoa Đức, Bồ Tát Nhật Quán, Bồ Tát Nguyệt Quán, Bồ Tát Vô Nhiễm, Bồ Tát Diệu Âm, Bồ Tát Đại Âm Vương, Bồ Tát Sư Tử Hống, Bồ Tát Sư Tử Du Hý, Bồ Tát Hiền Thủ, Bồ Tát Thập Lục Hiền, Bồ Tát Từ Thị v.v... Các Bồ Tát ở Hiền kiếp: Bồ Tát Quán Tự Tại, Bồ Tát Diệu Cát Tường làm thượng thủ.

Lại có vô lượng chúng trời, vô lượng vua A tu la, vô lượng Đại Lực Long vương, vô lượng Đại thần Dược xoa, nhơn phi nhơn v.v... Mỗi vị đều đem theo vô lượng trăm ngàn quyến thuộc, kín hết núi Kỳ xà quật, bao quanh khắp 40 do tuần và trên hư không, không còn chỗ hở một lòng chắp tay cung kính Đức Như Lai. Đây là chủ.

 

- Khách:

Gồm một số các Bồ Tát đại diện 10 phương thế giới, như:

Bồ Tát tên là Ly Chướng của thế giới phương Đông,

Bồ Tát Nhựt Tạng của thế giới phương Nam,

Bồ Tát Công Đức Tạng của thế giới phương Tây,

Bồ Tát Quảng Văn của thế giới phương Bắc,

Bồ Tát Bất Thối Chuyển của thế giới phương Đông-Nam,

Bồ Tát Đại Tuệ của thế giới phương Tây-Nam,

Bồ Tát Công Đức Tụ của thế giới phương Tây-Bắc,

Bồ Tát Thường Hỷ của thế giới phương Đông-Bắc,

Bồ Tát Bảo Tràng của thế giới phương Trên, và

Bồ Tát Bảo Tín của thế giới phương Dưới.

 

Tất cả Bồ Tát ấy thấy hào quang muôn sắc chiếu khắp vô biên thế giới trong 10 phương, không biết tại sao có điềm lạ thường này, nên hỏi chư Phật của các cõi ấy, và được chư Phật ở 10 phương trả lời là: Cách đây hơn mười Căng già sa số thế giới, có thế giới của Phật tên là Kham Nhẫn, Phật hiệu Thích ca Mâu ni Như Lai, 10 hiệu đầy đủ, đang thuyết Kinh đại Bát Nhã(trong đó có Hội thứ VI và Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật Đa”) cho chúng Đại Bồ Tát. Do nhân duyên này nên mới hiện điềm lành.

Các Bồ Tát được nghe điều hi hữu đồng thanh xin chư Phật 10 phương: Nay muốn qua thế giới Kham Nhẫn quan sát, đảnh lễ, cúng dường Như Lai Thích Ca để nghe và lãnh thọ chánh pháp. Tất cả chư Phật 10 phương đồng ý cho các Bồ Tát cõi mình sang thế giới Kham Nhẫn đãnh lễ Phật Thích ca Mâu ni và chư Bồ Tát cõi này.

Đó là duyên khởi của pháp hội thứ VI, Đại Bát Nhã cũng là duyên khởi của pháp hội thuộc Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã”.

Mở đầu Hội thứ VI liệt kê được một số lớn tên họ của các Bồ Tát và các Thánh chúng được nhiều người biết đến của thế giới Kham Nhẫn và các thế giới khắp 10 phương như cát sông Hằng. Tuy nhiên pháp hội này kém phần tưng bừng lộng lẫy, không như pháp Hội thứ I, Đại Bát Nhã cũng tổ chức tại đỉnh Linh Thứu, núi Kỳ xà quật thuộc phía Đông Bắc thành Vương Xá, nước Ma kiệt đà. Ngoài ra, nhất nhất đều giống như các phẩm “Duyên Khởi” của tất cả các pháp hội trong các Kinh khác.

 

Đọc  phẩm “Duyên Khởi” của một pháp hội thì có thể biết tất cả các pháp hội khác, chỉ khác là có pháp hội tổ chức linh đình lộng lẫy, có pháp hội khiêm tốn hơn như Hội thứ VI này./.

 

---o0o---

 

 

 

 

 

02. PHẨM “THÔNG ĐẠT hay THÔNG SUỐT”.

 

Cuối quyển 566, Hội thứ VI, ĐBN.  

 

Gợi ý:

Ý nghĩa của phẩm này không khác với các phẩm “Thông Đạt” nằm rải rác trong các Hội thuộc Kinh Đại Bát Nhã. Nhưng ở đây, phẩm “Thông Đạt” này cách diễn đạt thâm thúy hơn. Kinh nhấn mạnh về việc học tập và thực hành 10 pháp Ba la mật thì thông đạt tuệ tức có thể tìm thấy tàu lớn mà sang được bờ kia.

 

Tóm lược:

 

Khi ấy, có Thiên vương tên là Tối Thắng(1), từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, phủ vai bên trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Thế Tôn:

- Con có chút nghi, muốn hỏi Phật, nếu được Thế Tôn cho phép, con mới dám thưa.

Phật bảo trời Tối Thắng:

- Thiên Vương! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tùy theo mối nghi sẽ giải thích cho ngươi.

Trời Tối Thắng được Phật cho phép, vui mừng hớn hở, liền bạch:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát  làm sao tu học một pháp mà có thể thông đạt tất cả pháp?

Phật bảo Tối Thắng:

- Lành thay! Lành thay! Ngươi có thể thưa hỏi Như Lai nghĩa sâu xa như thế. Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ giải đáp điều nghi cho ngươi.

Trời Tối Thắng bạch:

- Cúi xin Thế Tôn! Con nguyện được nghe.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát tu học một pháp mà có thể thông đạt tất cả pháp, pháp đó là Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể thông đạt bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật(2).

 

Này Thiên vương! Thế nào là các Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể thông đạt bố thí Ba la mật?

Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành diệu pháp thí Ba la mật. Nghĩa là dùng tâm thanh tịnh không có điều mong cầu, thuyết pháp cho người chẳng cầu danh lợi, chỉ vì diệt khổ, chẳng thấy mình là người thuyết, chẳng thấy người kia nghe; không hai không khác, vì lìa tự tánh.

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành Vô úy thí Ba la mật. Nghĩa là quán hữu tình giống như cha mẹ, anh em, bà con thân thích, làm cho tất cả mọi người đều gần gũi mình. Vì sao? Vì từ vô thỉ đến giờ lưu chuyển trong 6 nẻo đều là bà con thân thích của nhau. Nếu các hữu tình ở chỗ nguy nan sợ hãi, còn đem thân mạng mà cứu giúp họ, huống lại đem tâm não hại họ. Chẳng thấy mình là người bố thí vô úy thí cho người kia, chẳng thấy kia là người nhận; không hai không khác, vì lìa tự tánh.

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành Bố thí Tư sanh Ba la mật. Nghĩa là tùy theo hữu tình cần dùng những vật gì thì bố thí cho họ những vật ấy và dạy cho họ tu hành 10 thiện nghiệp đạo. Chẳng thấy mình là người bố thí của cải riêng của mình cho người kia, chẳng thấy kia là người thọ nhận; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành Bố thí bất vong báo Ba la mật. Nghĩa là khi hành bố thí chẳng mong cầu quả báo. Bồ Tát bố thí tự nhiên như thế, chẳng thấy mình là người bố thí, chẳng cầu quả báo và chẳng thấy quả báo của sự bố thí; không hai không khác, vì lìa tự tánh.

Nếu Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành Đại bi thí Ba la mật. Nghĩa là thấy hữu tình bần cùng, già bệnh, không có người cứu giúp, phát khởi tâm đại bi mà phát thệ nguyện: Khi ta đắc Vô thượng Bồ đề, làm chỗ nương tựa cho các hữu tình, vì các hữu tình nên đem chút căn lành hồi hướng Bồ đề, cũng chẳng phân biệt mình là người cứu tế, kia là người nhận lãnh; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành Cung kính thí Ba la mật. Nghĩa là tùy theo hữu tình cần vật gì, liền tự kính dâng, chẳng để cho người nhận mong chờ mỏi mệt, chẳng thấy mình là người hành thí cung kính, chẳng thấy kia là người nhận lãnh; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành tôn trọng thí Ba la mật. Nghĩa là đối với hữu tình phát sanh tưởng như bậc Sư tăng, hoặc tưởng như cha mẹ, với tâm tôn trọng mà bố thí. Nếu không có tài vật để ban cho thì dùng thiện ngôn mà cho, chẳng thấy mình là người hành thí tôn trọng, chẳng thấy kia là người nhận lãnh; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.   

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành Cúng dường thí Ba la mật. Nghĩa là thấy bảo tháp, hoặc thấy chỗ ở của chư Tăng thì nên dọn quét, rưới nước, đem các thứ hương hoa và đèn sáng v.v... cúng dường. Nếu thấy tôn tượng và chánh pháp khuyết tổn thì nên siêng năng tu sửa, biên tập. Nếu thấy Tăng chúng thì nên đem thức ăn uống, đồ nằm, thuốc men để cúng dường, nhưng chẳng thấy mình là người cúng dường, chẳng thấy kia là người nhận lãnh; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật thì thường hành bố thí Vô y chỉ Ba la mật. Nghĩa là khi thực hành bố thí chẳng nghĩ: Nguyện nhờ bố thí này được sanh cõi trời, người, làm vua trời, người, giàu sang, phú quý, hưởng thọ sự vui suớng, cho đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, cũng chẳng chấp thủ, mong cầu, vì không sở đắc.

 

(Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã” nói về các loại bố thí như sau:

 “Lợi ích thí tức là thí Pháp. An lạc thí tức thí các nhu cầu sinh sống. Vô tận thí tức thị hiện Đạo. An lạc thí là khiến người sinh thiện. Hữu nghĩa ngữ là khiến người thấy lý. Như pháp ngữ là tùy thuận giáo pháp của Phật. Bất dị ngữ là thuyết Pháp như thực. Tài lợi ích bình đẳng là cái có thể ăn, có thể nuốt, có thể uống, có thể nếm, có thể liếm và y phục, vân vân. Thân lợi ích bình đẳng là những gì cần để thu nhiếp, phòng vệ, lợi ích thân mình, khiến người cũng thế. Mạng lợi ích bình đẳng là chân châu, lưu ly, san hô, mã não, đa phần là ngoại mạng. Tư cụ lợi ích bình đẳng là voi, ngựa, xe, tất cả tiền của chính đáng. Bồ Tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật, tự mình hành và người khác hành đều như nhau”).

Này Thiên vương! Đó gọi là các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã, có thể thông đạt bố thí Ba la mật.

 

Này Thiên vương! Thế nào là các Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật có thể thông đạt tịnh giới Ba la mật?

Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành tịnh giới Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát suy nghĩ: Phật ở trong tịnh giới chỉ dạy Tỳ nại da, thuyết giới Kinh tương ưng với Biệt giải thoát(Giới giúp Phật tử giải thoát bằng cách tránh làm các điều ác, Ba-la-đề-mộc-xoa- prātimokṣa), Bồ Tát nên học, chẳng thấy giới tướng và người thọ trì, chẳng đắm trước giới kiến, cũng chẳng chấp trước ngã; tất cả đều không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành tịnh giới Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát suy nghĩ: Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề của chư Phật chẳng phải chỉ thọ trì tịnh giới liền đắc, cần phải học khắp giới hành Bồ Tát, giới tánh trong mát, tịch tĩnh vô sanh, tất cả đều không hai không khác vì lìa tự tánh.

 Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành tịnh giới Ba la mật, nghĩa là các Bồ Tát suy nghĩ: Thế nào là trì giới có thể dứt trừ phiền não?

Phiền não có ba thứ là: Tham, sân, si. Mỗi phiền não này lại có ba bậc là thượng, trung, hạ. Muốn dứt trừ phiền não phải biết đối trị. Kẻ tham tăng thượng tu quán bất tịnh. Kẻ sân tăng thượng tu quán từ bi. Kẻ si tăng thượng tu quán duyên khởi. Chẳng thấy năng quán và pháp sở quán, không hai không khác, vì lìa tự tánh.

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành tịnh giới Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát suy nghĩ: Bồ Tát xa lìa tư duy bất chánh như thế nào? Bồ Tát chẳng phát khởi tâm: Ta hành tịch tịnh, hành hạnh viễn ly, hành Không, còn các Sa môn, Bà la môn v.v... khác đều không hành viễn ly, hành Không v.v... lại thích ở chỗ huyên náo tạp nhiễm. Nếu Bồ Tát hành Bát Nhã thấy không hai không khác, biết lìa tự tánh, lìa tức diệt tà niệm.

Nếu đại Bồ Tát học Bát Nhã thì có thể hành tịnh giới Ba la mật, nghĩa là các Bồ Tát dù biết các pháp lìa mà vẫn sợ tội. Như Phật đã nói nên trì tịnh giới, tu các phước nghiệp cho đến Bát nhã Ba la mật. Đối với tội nhỏ nhưng mối lo lớn, chẳng giữ trong lòng. Vì Thế Tôn dạy: “Ví như thuốc độc nhiều ít đều có hại”.

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành tịnh giới Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát thường sanh sợ hãi tương ưng với Tín hạnh. Giả sử ở chỗ vắng vẻ đơn độc một mình, không có bạn bè, có không Sa môn v.v... (có người) đem các thứ vật báu như vàng, bạc, lưu ly, trân châu gởi cho Bồ Tát. Bồ Tát không khởi tâm tham lấy các thứ đó, mà suy nghĩ: Thế Tôn thường dạy, thà tự cắt thịt nơi thân mình mà ăn, chứ của cải của người không cho thì chẳng lấy.

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành tịnh giới Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát trì giới vững vàng. Nếu các ác ma và quyến thuộc của ma dùng sắc đẹp để thử Bồ Tát, Bồ Tát đối với sắc đẹp kia tâm chẳng giao động mà tư duy: Thế Tôn thường dạy, sắc v.v... các pháp đều như mộng, huyễn hóa, không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành tịnh giới Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát tuy siêng năng trì giới nhưng chẳng mong cầu ngôi vua trời, người, thân lìa 3 lỗi, miệng dứt 4 lầm, ý tránh 3 tội. Trì giới chẳng thấy ta trì, chẳng thấy giới tướng; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Này Thiên vương! Đó gọi là các Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt tịnh giới Ba la mật.

 

Này Thiên vương! Thế nào là các Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật có thể thông đạt an nhẫn Ba la mật?

Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành an nhẫn Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát thường học nội nhẫn(nhẫn đối với bản thân), hoàn toàn chẳng lệ thuộc ưu sầu khổ não, cũng học ngoại nhẫn(nhẫn đối với người khác). Nếu người đánh đập, mắng chửi, khi dễ, cướp đoạt, lăng nhục, hoàn toàn không sân giận, cũng học pháp nhẫn (pháp tu nhẫn nhục) như Thế Tôn dạy: Thật tánh sâu xa không pháp, không ngã, không sanh, tịch tịnh, tức là Niết bàn.

Nghe nói như thế, tâm không kinh sợ, suy nghĩ: Chẳng học pháp ấy làm sao có thể đắc sở cầu là Vô thượng Bồ đề, lợi ích an vui cho các loài hữu tình cùng tận đời vị lai. Suy nghĩ kỹ: Các độc tham, sân, si như thế là ở chỗ nào khởi lên? Nhân duyên nào sanh? Nhân duyên nào diệt? Quán sát đúng như thật đều chẳng thấy có năng sanh, sở sanh, năng diệt, sở diệt. Tâm nhẫn như thế liên tục chẳng dứt, ngày đêm các thời không xen hở; đối với cảnh nhẫn không có tâm lựa chọn, nghĩa là đối với quốc vương, cha mẹ, Sư trưởng v.v… mình phải tu nhẫn cả sự gia hại khác.

Bồ Tát hành nhẫn chẳng vì sự trả ơn, danh lợi, nhân nghĩa, sợ hãi, xấu hổ. Bồ Tát nên hành nhẫn tự nhiên như thế. Nếu người kia gia hại, đánh đập, nhục mạ, xâm chiếm, cướp đoạt, khinh khi, lăng nhục, tâm cũng chẳng lay động. Nếu Bồ Tát ở ngôi vua, địa vị đại thần v.v... có người bần tiện hủy mắng, sỉ nhục, hoàn toàn không vội vàng tỏ thái độ thị uy: Ta ở ngôi vị cao sang nên theo pháp là phải quở phạt, mà chỉ nghĩ: Thuở xưa ta ở chỗ Phật Thế Tôn phát thệ nguyện rộng lớn là đối với tất cả hữu tình ta đều cứu giúp, khiến cho được Vô thượng Bồ đề. Nay nếu khởi tâm sân thì trái với nguyện xưa.

Ví như thầy thuốc giỏi, phát lời thề như vầy: Thế gian đui mù ta đều chữa lành. Nếu mắt mình không sáng thì đâu có thể chữa lành cho ai được. Như thế, Bồ Tát vì trừ tối tăm cho người mà tự mình phát sanh giận dữ thì làm sao cứu họ cho được? Chẳng thấy mình nhẫn và sự nhẫn được; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Này Thiên vương! Đó gọi là các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt an nhẫn Ba la mật.

 

Này Thiên vương! Thế nào làm cho các Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt tinh tấn Ba la mật?

Thiên vương nên biết, nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành tinh tấn Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát đối với chúng sanh chưa diệt, khiến diệt, chưa độ khiến độ, chưa thoát khiến thoát, chưa an khiến an, chưa giác khiến giác. Khi Bồ Tát hành tinh tấn như thế, có các ác ma làm đình trệ, nói với Bồ Tát : “Thiện nam tử! Bạn chớ tu hạnh này, luống uổng nhọc nhằn. Vì sao? Vì ta xưa kia từng tu hạnh này nhưng hoàn toàn không có lợi ích chân thật. Ta từ xưa đến nay thấy nhiều Bồ Tát tu học hạnh này và đều thối lui. Bạn nên hồi tâm tu đạo Nhị thừa, lấy quả Nhị thừa để tự diệt độ”.

Bồ Tát nghe xong liền biết là ác ma, bảo: “Ngươi hãy lui đi! Tâm ta vững chắc giống như kim cương, chẳng phải vì lời sai lầm của ngươi có thể làm thối thất đạo Bồ đề. Ngươi cố gây trở ngại, luôn luôn tự khổ”. Ma nghe lời này liền biến. Nếu Bồ Tát chưa đắc Bát nhã Ba la mật, tu năm pháp Ba la mật trước, trải qua trăm ngàn kiếp, hành tinh tấn như thế còn chưa có thể vượt qua, huống là bậc Nhị thừa. Như thế, Bồ Tát tu hành Bát Nhã, thành tựu Phật pháp, đều lìa các việc ác. Mặc dù hành tinh tấn, chẳng mau chẳng chậm mà phát nguyện lớn: Mong ta được thân giống như Thế Tôn, có nhục kế trên đỉnh đầu, có lông trắng giữa chặng mày, Phật chuyển pháp luân, ta cũng có thể.

Ví như vàng ròng, các ngọc báu trang sức thì đẹp đẽ, Bồ Tát tinh tấn cũng như thế, lìa các cấu uế, nghĩa là lìa các sự lười nhác biếng trễ, mỏi mệt, chẳng tự rõ biết, chẳng suy nghĩ đúng... nhờ đấy có thể đạt được phước đức trí tuệ thanh tịnh thù thắng để trang nghiêm, thân chẳng mỏi mệt, tâm chẳng chán lười. Tất cả pháp ác bất thiện làm trở ngại đạo đều bị diệt trừ, các pháp trợ đạo hướng đến Niết bàn đều khiến tăng trưởng; một chút ác chẳng khởi, huống chi nhiều.

Giả sử như Hằng sa thế giới 10 phương, trong đó tràn đầy lửa lớn như ngục Vô gián, ở thế giới này chỉ có một hữu tình có thể độ được. Bồ Tát vì hữu tình ấy còn cứu độ, huống là nhiều hữu tình. Các Bồ Tát này chẳng nghĩ: Vô thượng Bồ đề chẳng dễ đắc được. Bồ Tát tu hành như cứu lửa cháy đầu, cần phải trải qua trăm ngàn ức kiếp, gánh nặng như thế thật khó mang vác, mà chỉ nghĩ: Chư Phật quá khứ, hiện tại đều tu hạnh này, chứng đại Bồ đề. Ta cũng như thế, nên chính mình tu tập. Thà trăm ngàn kiếp ở trong địa ngục độ thoát các hữu tình, chứ hoàn toàn không bỏ họ để mau vào Niết bàn.

Bồ Tát khi tinh tấn tu hành như thế, tâm chẳng tự cao, đối với người chẳng tự ti, chẳng thấy pháp năng hành và sở hành; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Này Thiên vương! Đó gọi là các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt tinh tấn Ba la mật.

 

Này Thiên vương! Thế nào là các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt tịnh lự Ba la mật?

Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành tịnh lự Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát trồng sâu căn lành, đối với Đại thừa, đời đời kiếp kiếp tu nhiều diệu hạnh, gần gũi bạn lành, chẳng sanh trong nhà bần tiện, tà kiến v.v... thường sanh trong dòng họ Sát đế lợi, Bà la môn v.v... chánh tín Tam bảo, tăng trưởng pháp lành; nhờ căn lành đời trước, phát khởi ý nghĩ: Hữu tình ngày đêm trôi lăn các nẻo, luân hồi trong khổ não chẳng dừng, đều do tham ái. Bồ Tát nghĩ xong, khởi tâm nhàm chán, xa lìa, biết các xấu xa từ hư vọng phân biệt mà xuất sanh.

Trong Kinh, Thế Tôn dùng vô số phương tiện giảng thuyết: Tội lỗi của dục như gươm dài, mâu ngắn, như dao, như rắn, như bọt, như bèo, nhơ nhớp bất tịnh, thay đổi vô thường. Vì sao người trí lại tham đắm pháp này? Vừa cạo râu tóc xuất gia tu đạo, chưa thấy cho là thấy, chưa đắc cho là đắc, chưa chứng cho là chứng; phải nghe thuyết thọ trì hoặc thế tục đế(3), hoặc thắng nghĩa đế(4), như thật tu hành, như pháp quán sát, đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định(đó là bát chính đạo), xa lìa huyên náo tạp nhiễm, chẳng màng danh dự, cũng chẳng cầu cung kính cúng dường, thân tâm tinh tấn thường không lười bỏ. Tư duy tâm này phần nhiều đi cảnh nào? Là thiện, là ác hay là vô ký? Nếu đi cảnh ác thì tức tốc chấm dứt. Nếu đi vô ký cũng nên rời bỏ. Nếu đi cảnh thiện thì lập tức siêng năng tinh tấn, cố gắng làm cho tăng trưởng căn lành thù thắng.

Vì muốn đối trị pháp ác bất thiện nên lấy 37 Bồ đề phần pháp mà trị. Các Ác nghiệp bất thiện đó là: Tham, sân, si.

- Tham lại có ba bậc là thượng, trung, hạ:

Tham bậc thượng là nghe tên cảnh dục, lòng vui mừng hớn hở, chẳng quán lỗi của dục, chẳng sanh nhàm lìa, tìm tòi phi lý, không biết xấu hổ. Người không xấu hổ, như một mình đi đến đâu, tâm thường nghĩ về cảnh dục, liên tục chưa từng tạm nghỉ; chỉ thấy tốt đẹp, chẳng biết tội lỗi. Cha mẹ, thầy bạn quở trách sự tham dục kia cũng không xấu hổ, vì chẳng biết nên phát khởi tranh cãi. Như thế gọi là người không xấu hổ. Loại này chết sẽ đọa nẻo ác.

Tham bậc trung là khi lìa cảnh dục, dục tâm chẳng khởi.

Tham bậc hạ là chỉ cùng nói cười, dục tình liền hết.

- Sân cũng có 3 bậc: Sân bậc thượng là tức giận. Nếu phát khởi thì tâm mê, mắt loạn, hoặc tạo nhiệp vô gián, hoặc hủy báng chánh pháp, hoặc tạo các nghiệp trọng tội khác, hơn ngũ vô gián nhiều gấp trăm ngàn lần.

Sân bậc trung là do sân giận, tạo các việc ác, lập tức sanh hối hận.

Sân bậc hạ là tâm không hiềm hận, chỉ miệng chê trách, liền ăn năn.

- Si cũng có ba bậc, nên biết đúng lý, mặc dù quán như thế mà biết các pháp đều như huyễn, như mộng, tiếng vang, bóng hình, bóng sáng, quáng nắng, sự biến hóa và ảo ảnh. Vì hư vọng điên đảo, thấy chẳng thật. Cảnh giới bên ngoài diệt thì trong tâm vắng lặng, chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Này Thiên vương! Đó gọi là các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt tịnh lự Ba la mật.

 

Này Thiên vương! Thế nào là các Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt Bát nhã Ba la mật?

Thiên vương nên biết! Nếu các đại Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật thì có thể hành Bát nhã Ba la mật. Đó là các Bồ Tát chánh trí, quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chẳng thấy sắc sanh, chẳng thấy sắc tập, chẳng thấy sắc diệt; thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Vì sao? Vì tự tánh đều là Không, không có chơn thật, chỉ có hư giả thi thiết danh tự mà hành Bát nhã Ba la mật, giáo hóa các hữu tình, trọn chẳng vì nói không nghiệp không quả. Mặc dù biết các pháp đều như huyễn, mộng, vang, tượng, bóng sáng, ánh nắng, biến hóa, thành tầm hương, hư dối, không có ngã, hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la… mà thường tuyên nói có nghiệp có quả.(Q.566, ĐBN)

Bồ Tát tu hành Bát Nhã như thế, quyến thuộc của ma chẳng được tiện lợi. Vì sao? Vì các Bồ Tát này gần gũi bạn lành, thành tựu pháp trợ Bồ đề, lìa pháp thế gian, hoan hỷ khen ngợi chánh pháp sâu xa của các đức Như Lai. Chư thiên, Ma, Phạm và Sa môn, Bà la môn v.v... trừ Phật chánh trí, không ai bằng được. Chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Này Thiên vương! Đó gọi là các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt Bát nhã Ba la mật.

 

Này Thiên vương! Thế nào là các đại Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật có thể thông đạt phương tiện thiện xảo Ba la mật?

Bồ Tát học Bát Nhã, hành Phương tiện thiện xảo Ba la mật, Bồ Tát khéo hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Nếu thấy hoa quả thế gian tốt đẹp thường đem cúng dường chư Phật Bồ Tát, ngày đêm sáu thời từng không tạm bỏ, đem thắng thiện đây hồi hướng Bồ đề. Nếu nghe Khế Kinh Như Lai nói nghĩa pháp sâu xa thì hoan hỷ tin nhận, ưa thích thọ trì đọc tụng và nói lại cho người khác, đem diệu thiện này hồi hướng Bồ đề.

Nếu thấy bảo tháp, hình tượng Như Lai thì liền đem các thứ hương hoa cúng dường, nguyện loài hữu tình lìa hương phá giới, được hương giới thanh tịnh. Quét rưới đất bụi, nguyện các hữu tình uy nghi tề chỉnh. Hoa lọng đèn lồng, nguyện các hữu tình đều lìa buồn bực. Vào Tăng già lam, nguyện các hữu tình đều vào Niết bàn; ra khỏi chỗ Tăng trụ, nguyện các hữu tình ra khỏi cảnh ma. Thấy cửa Tăng mở, bèn phát nguyện: Đem trí xuất thế vì các hữu tình mở cửa chưa mở, đều khiến ngộ nhập. Nếu thấy cửa đóng, nguyện các hữu tình đóng cửa ba cõi, hoặc bốn nẻo ác.

Nếu được ngồi yên, nguyện các hữu tình ngồi tòa Bồ đề. Nếu nằm hông phải, nguyện các hữu tình đều chứng Niết bàn. Lúc ngồi nằm, dậy, nguyện các hữu tình lìa các mê lầm. Nếu khi rửa chân, nguyện các hữu tình lìa bụi nhơ.

Nếu khi lạy Phật, hay nhiễu bên phải bảo tháp, nguyện các hữu tình đều sẽ thành Phật, được trời người cung kính, chẳng lấy đó làm vui mừng.

Nếu có ngoại đạo tà kiến khó giáo hóa, bèn nghĩ: Nếu ta có làm thầy họ thì họ vẫn giữ sự kiêu mạn, chắc chắn chẳng chịu tin. Hãy làm đồng học, hoặc làm đệ tử; tuy ở trong chúng của họ mà giới hạnh đa văn hơn các ngoại đạo, nhân đây hàng phục họ, được họ tôn trọng làm thầy, thì lời nói chắc chắn được tin nhận. Hủy bỏ tà pháp, nói chánh Niết bàn, làm cho nhập vào giáo pháp thanh tịnh của Như Lai, tấn tu phạm hạnh tịnh lự đẳng trì, đắc thần thông thù thắng, tu tất cả diệu thiện.

Thấy người đa dục hóa làm nữ nhơn đẹp đẽ, khiến cho kẻ kia say mê, trong khoảng chốc lát thị hiện vô thường, nhan sắc biến đổi, sình trương bủn nát, hôi thối, khiến cho chán ghét, nhờm gớm và khởi tâm nhàm chán, xa lìa, liền hoàn phục hình cũ là hình tượng Bồ Tát, nhân đó nói pháp yếu sâu xa, khiến cho kẻ kia phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tu hạnh Đại thừa, thành quả Vô thượng.

Thấy người Đại thừa xa lìa bạn lành quen biết, tuy siêng năng tinh tấn học đạo Nhị thừa nhưng đối với quả đó không thể chứng đắc, mất pháp lợi nơi Đại thừa Vô thượng, quán căn tánh của người kia, thuyết Đại thừa cho họ, làm cho người đó hồi tâm, nhập đạo Vô thượng. Người chưa phát tâm, giáo hóa làm cho phát tâm. Nếu đã phát tâm thì khuyên khiến cho bền vững. Thấy người trì giới phạm tội nhẹ, chẳng hiểu để trình bày sám hối nên lo sợ buồn rầu, thối lui; do đó không thể tấn tu đạo cao đẹp, thì liền thuyết pháp cho họ, khiến họ mau sám hối để trừ diệt, tâm lìa buồn rầu, tấn tu đạo cao đẹp. Các chúng Bồ Tát ấy thiểu dục tri túc, chuyên cầu pháp lợi. Vì các hữu tình thuyết về sự cúng dường Như Lai. Do đó liền thành tựu sáu Ba la mật:

Thuyết pháp cúng dường, đó là bố thí Ba la mật.

Hành động chẳng trái với lời nói, đó là tịnh giới Ba la mật.

Các thiên ma v.v... chẳng thể não loạn, đó là an nhẫn Ba la mật.

Tâm tiếp nối nhau chẳng biết mỏi mệt, đó là tinh tấn Ba la mật.

Chuyên tâm nhất niệm, chẳng duyên cảnh khác, đó là tịnh lự Ba la mật.

Thuyết pháp cúng dường, lìa ngã, ngã sở, đó là Bát nhã Ba la mật.

Chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Này Thiên vương! Đó gọi là Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt phương tiện thiện xảo Ba la mật.

 

Này Thiên vương! Thế nào là các đại Bồ Tát tu học có thể thông đạt diệu nguyện Ba la mật.

Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành diệu nguyện Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát có các sở nguyện chẳng vì được hưởng vui sướng khoái lạc thế gian, cũng chẳng vì mình cầu ra khỏi ba cõi, tu đạo Nhị thừa, chứng Niết bàn an lạc, mà chỉ nguyện tất cả hữu tình đều nhập vào cõi Vô dư Bát Niết bàn trước, mình thành chánh giác sau cùng. Người chưa phát tâm thì giáo hóa làm cho phát tâm. Nếu đã phát tâm rồi thì làm cho họ tu đại hạnh. Đã tu đại hạnh rồi thì làm cho được Bồ đề. Đắc Bồ đề rồi thì khuyên mời thuyết pháp, lần lượt cho đến sau khi vào Niết bàn, dùng bảy báu tốt đẹp xây tháp, tôn trí xá lợi, thiết lập sự cúng dường, làm cho vô lượng chúng đạt được phước vô biên.

Lại phát nguyện rằng: Các thế giới có Phật thành Chánh giác đều không thiên ma và các ngoại đạo làm rối loạn. Nguyện do tự trí phát tâm vô thượng, chẳng nhờ duyên ngoài.

Lại phải nguyện: Ta thường ở thế gian thành thục hữu tình, khiến cho đạt được lợi ích an lạc. Nguyện các Bồ Tát v.v... mới phát tâm, nếu nghe Như Lai thuyết pháp, ngộ nhập đúng như thật, tâm không kinh sợ. Nguyện các hữu tình đắc đại trí tuệ, đều thông suốt hoàn toàn vô biên Phật đạo, vô biên Phật cảnh, vô biên đại bi, làm lợi ích vô biên các loài hữu tình.

Các Bồ Tát này phần nhiều lại nguyện tự thân thường sanh ở nước nhơ uế, chẳng sanh cõi tịnh. Vì sao? Vì như có người bệnh mới nhờ thầy thuốc, nếu không có bệnh tật thì thầy thuốc vô dụng. Bồ Tát khi phát diệu nguyện như thế, chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; tất cả không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Này Thiên vương! Đó gọi là các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt diệu nguyện Ba la mật.

 

Này Thiên vương! Thế nào là các đại Bồ Tát tu học Bát nhã Ba la mật có thể thông đạt Lực Ba la mật?

Thiên vương nên biết! Nếu các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành Lực Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát có thể hàng phục Thiên ma, dẹp trừ ngoại đạo, đầy đủ năng lực phước đức trí tuệ, tu hành tất cả Phật pháp, chứng biết tất cả Phật cảnh, dùng năng lực thần thông đem đầu sợi lông nhấc châu Thiệm bộ hoặc cõi bốn châu, hoặc cõi Đại thiên đến vô lượng thế giới như cát sông Hằng trong 10 phương, rồi để lại chỗ cũ mà không hề tổn hại; hoặc dùng năng lực thần thông, ở giữa hư không lấy các thứ báu bố thí cho loài hữu tình, có thể nghe và thọ trì tất cả pháp mà chư Phật thuyết ở vô lượng, vô biên thế giới trong mười phương, chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; tất cả không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Này Thiên vương! Đó gọi là các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt Lực Ba la mật.

 

Này Thiên vương! Thế nào là đại Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt Trí Ba la mật?

Thiên vương nên biết! Nếu các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành Trí Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát quán sát năm uẩn sanh chẳng phải thật sanh, diệt chẳng phải thật diệt, tư duy năm uẩn đều rốt ráo Không, không có ngã, hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi; phàm phu điên đảo hư vọng chấp trước, phàm phu, chúng sanh sai lầm chấp ngã. Năm uẩn không phải là ngã, trong uẩn không có ngã. Ngã không phải là năm uẩn, trong ngã không có uẩn. Phàm phu ngu muội không như thật biết lăn lóc sinh tử như vòng lửa quay. Kẻ phàm phu ngu si vọng chấp là có, nhưng tất cả pháp tự tánh vốn Không, không sanh, không diệt. Duyên hợp lại gọi là sanh, duyên lìa tan thì bảo là diệt; thật không có sanh diệt, tánh chẳng phải Có, nên chẳng thể nói sanh; tánh chẳng phải Không nên chẳng thể nói là diệt. Các Bồ Tát này đối với tất cả cảnh, không pháp nào là không thông suốt. Tu hành Trí Ba la mật này, Nhị thừa, ngoại đạo chẳng thể ngăn cản. Dùng trí quán sát, từ khi mới phát tâm cho đến Niết bàn đều thấu suốt tất cả, có thể dùng một pháp mà biết tất cả cảnh, đạt tất cả cảnh chẳng lìa một pháp. Vì sao? Vì chơn như là một như. Thế nên khi các Bồ Tát tu trí này chẳng thấy năng tu và pháp sở tu; tất cả không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Này Thiên vương! Đó gọi là các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể thông đạt Trí Ba la mật.

Đó gọi là Bồ Tát tu học một pháp, có thể thông đạt tất cả pháp.

 

Thích nghĩa:

(1). Thiên vương nói trong Hội này có tên là Tối Thắng, Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã” (TTVBN) tên khác là “Bát bà la”, nhân vật chính được Phật Thích Ca trao cho chánh pháp trong Hội thứ VI cũng như trong pháp hội của Kinh“Thắng Thiên Vương Bát Nhã” .

(2). Tất cả Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Bát Nhã, Phương tiện xảo, Diệu Nguyện, Lực và Trí Ba la mật: (十波羅蜜) Phạm: Daza-pàramità. Gọi đủ: Thập Ba la mật đa. Hán dịch: Thập thắng hạnh, Thập độ, Thập đáo bỉ ngạn. Mười hạnh thù thắng mà Bồ Tát phải tu tập đầy đủ để đạt đến Đại Niết bàn.

I. Thập Ba La Mật: Sáu Ba la mật chính cộng thêm 4 Ba la mật phụ: Phương tiện, Nguyện, Lực, Trí thành 10 là: 1. Thí Ba la mật (Phạm: Dànapàramità): Có 3 thứ là Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí. 2. Giới Ba la mật (Phạm: Zìlapàramità): Giữ giới và thường tự xét. 3. Nhẫn Ba la mật (Phạm: Kwàntipàramità): Nhẫn nại chịu sự bức hại. 4. Tinh tấn Ba la mật (Phạm:Viryapàramità): Gắng sức tiến tu, không biếng nhác. 5. Thiền Ba la mật (Phạm: Dhyànapàramità): Tập trung tư tưởng khiến tâm an định. 6. Bát nhã Ba la mật (Phạm: Prajĩàpàramità): Mở ra trí tuệ chân thực, hiểu rõ thực tướng các pháp. 7. Phương tiện Ba la mật (Phạm: Upàya-pàramità): Dùng các phương pháp gián tiếp để khơi mở trí tuệ. 8. Nguyện Ba la mật (Phạm: Praịidhàna-pàramità): Thường giữ gìn nguyện tâm và thực hiện các nguyện tâm ấy trong việc tu tập hằng ngày. 9. Lực Ba la mật (Phạm: Balapàramità): Năng lực bồi dưỡng những thiện hạnh thực tiễn và phân biệt chân ngụy. 10. Trí Ba la mật (Phạm: Prajĩàpàramità): Trí tuệ có năng lực rõ biết tất cả các pháp.

Mười Ba la mật đều lấy tâm Bồ đề làm nhân. Kinh Giải thâm mật quyển 4 cho rằng lý do ngoài 6 Ba la mật còn thiết lập thêm 4 Ba la mật là vì Phương tiện Ba la mật giúp đỡ cho 3 Ba la mật Thí, Giới và Nhẫn; Nguyện Ba la mật là giúp đỡ cho Tinh tiến Ba la mật; Lực Ba la mật là giúp đỡ cho Thiền Ba la mật; Trí Ba la mật là giúp đỡ cho Bát nhã Ba la mật. Mật giáo đem 10 Ba la mật phối hợp với 10 vị Bồ Tát và đặt ở viện Hư không tạng trong Mạn đồ la Thai tạng giới để biểu thị cho phúc đức và trí đức của Bồ Tát Hư Không Tạng. Tức về phía bên phải an vị 5 Bồ Tát Thí, Giới, Nhẫn, Tinh tiến và Thiền, thuộc về Liên hoa bộ, biểu thị Phước môn; về phía bên trái an vị 5 Bồ Tát Bát nhã, Phương tiện, Nguyện, Lực và Trí, thuộc về Kim cương bộ, biểu thị Trí môn. Lại đem 10 ngón tay phối hợp với 10 Ba la mật, tức Thí là ngón út bên phải, Giới là ngón vô danh bên phải, Nhẫn là ngón giữa bên phải, Tinh tấn là ngón trỏ bên phải, Thiền là ngón cái bên phải, Bát nhã là ngón út bên trái, Phương tiện là ngón vô danh bên trái, Nguyện là ngón giữa bên trái, Lực là ngón trỏ bên trái và Trí là ngón cái bên trái. Thủ ấn của mỗi Ba la mật như hình vẽ dưới đây: Thí Ba la mật, Giới Ba la mật, Nhẫn Ba la mật.

II. Thập Ba La Mật: 10 Ba la mật được nêu trong Phật truyện Kinh “Bản sinh” là: Đàn (Thí), Thi (Giới), Bát nhã, Tì lê da (tinh tiến), Sằn đề (nhẫn), Xả thế (phủ nhận thế gian và tự kỷ), Chân thực (không nói lời dối trá làm hại chân thực), Quyết ý (ý mình đã quyết không để lay động), Từ (không màng lợi riêng, vì tất cả hữu tình mà trụ nơi từ tâm), Xả (không vì khổ vui mừng giận mà động tâm). Giai vị tu hành 10 đức mục này được gọi là Ba la mật địa (Pàramitàbhùmi).- Từ điển Phật Quang.

(3). Thế tục đế hay Tục đế: (世俗諦) Phạm: Saôvftti-satyatva, Saôvfttisatya. Gọi tắt: Thế đế, Tục đế. Đối lại Thắng nghĩa đế. Chân lí, đạo lí thông thường của thế gian, là 1 trong 2 đế chân và tục. Vì Đệ nhất nghĩa đế là chân lí tối cao tuyệt đối, người bình thường khó mà hiểu được cho nên trước dùng đạo lí và sự thực của thế tục làm điểm xuất phát, sau đó mới dần dần hướng dẫn họ đến cảnh giới cao hơn. Như ngón tay chỉ mặt trăng, con thuyền vượt sang bờ bên kia đều là những phương tiện cần thiết để đạt đến Đệ nhất nghĩa đế chân thực. Tên cũ của Thế tục đế là Phú tục đế, gọi như vậy là vì nó hiển hiện hữu tướng và che lấp(phú) chân lí. Phần chú thích trong Nam hải kí qui nội pháp truyện (Đại 54, 228 trung) ghi: Thế tục đế xưa gọi là Phú tục đế, nghĩa chưa rốt ráo; ý nói tục sự che lấp chân lí. Sắc vốn chẳng là cái bình mà lầm hiểu là cái bình, âm thanh không phải là bài ca mà cứ cho là bài ca (...), do che lấp chân lí nên gọi là Phú tục.- Từ điển Phật Quang.

(4). Thắng nghĩa đế hay Đệ nhất nghĩa đế, còn gọi là Chân đế tức giáo pháp giác ngộ tối thượng của Phật hay cái chân thực không hư vọng vốn có, đối lại với Thế tục đế (Tục đế) của phàm phu, hạng chỉ biết hình tướng bên ngoài chứ không phải là chân lý.

Nói khác, Thế tục đế hay Tục đế là cái nhìn so đo phân biệt chấp nhất của phàm phu, là hư vọng, không chân thật, cái thấy qui ước tương đối của cuộc đời thường. Còn Đệ nhất nghĩa đế hay Chân đế là bất hư vọng, chân thật, không so do phân biệt, là chân lý tuyệt đối. Đây là hai quan niệm đối chọi nhau(Vì có Tục đế nên lập Chân đế, đối đãi nhau).

Vượt qua và vượt trên Tục đế và Đệ nhất nghĩa đế còn một đế nữa là “Đệ nhất nghĩa không”. Học Phật là học để đạt được Đệ nhất nghĩa không này, trong đó không còn đối đãi phân biệt nữa. Nên ở đây chúng tôi lập Đế thứ ba là “Đệ Nhất Nghĩa Không” để tránh sự bế tắt giữa Tục đế với Chân đế hay Đệ nhất nghĩa đế.

 

Lược giải:

 

Chủ đề chính của phầm này là: Làm sao chỉ học một pháp

mà thông suốt tất cả pháp?

 

Pháp đó chính là Bát nhã Ba la mật. Bát nhã Ba la mật có 10 độ khác nhau, tu thành tựu 10 Ba la mật này thì Giác ngộ, đạt Chánh giác và đắc Nhất thiết trí trí sẽ trở thành Phật, thành như Lai tức có thể thông đạt hay thông suốt tất cả pháp.

Vậy, 10 độ đó là gì mà có uy lực to lớn như thế? Đó chính là: 1-Bố thí, 2-Trì giới, 3-An nhẫn, 4-Tinh tấn, 5-Thiền định, 6-Bát nhã Ba la mật, 7-Phương tiện thiện xảo, 8-Diệu nguyện, 9-Lưc và 10-Trí Ba la mật. Tất cả các Kinh trong hệ Bát Nhã đều nói đến uy lực này.

Kinh Bát nhã Ba la mật thường chia 10 độ này làm hai phần: 1. Phần chính gồm có 6 là: 1-Bố thí, 2-Trì Giới, 3-An nhẫn, 4-Tinh tấn, 5-Thiền định và 6-Bát nhã Ba la mật và 2. Phần phụ gồm có 4 là: 7-Phương tiện, 8-Nguyện, 9-Lực và 10-Trí Ba la mật.

Chúng tôi cũng chia Bát nhã Ba la mật làm 2 phần:

 

1. Phần chính: Gồm có sáu độ là 1-Bố thí, 2-Trì giới, 3-An nhẫn, 4-Tinh tấn, 5-Thiền định và 6- Bát nhã Ba la mật:

Mở đầu Hội thứ VI thuật rằng: “Khi ấy, có Thiên vương tên là Tối Thắng, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ sát chân Phật, phủ vai bên trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Thế Tôn:

- Con có chút nghi, muốn hỏi Phật, nếu được Thế Tôn cho phép, con mới dám thưa.

Phật bảo trời Tối Thắng:

- Thiên Vương! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác tùy theo mối nghi sẽ giải thích cho ngươi.

Trời Tối Thắng được Phật cho phép, vui mừng hớn hở, liền bạch:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát làm sao tu học một pháp mà có thể thông đạt tất cả pháp?

Phật bảo Tối Thắng:

- Lành thay! Lành thay! Ngươi có thể thưa hỏi Như Lai nghĩa sâu xa như thế. Hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ giải đáp điều nghi cho ngươi.

Trời Tối Thắng bạch:

- Cúi xin Thế Tôn! Con nguyện được nghe.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát tu học một pháp mà có thể thông đạt tất cả pháp, pháp đó là Bát nhã Ba la mật. Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể thông đạt bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật”.

Theo chỉ dẫn của Hội chỉ cần học Bát Nhã không những thông đạt 9 Ba la mật kia mà còn thông đạt tất cả các pháp khác. Kinh Đại Bát Nhã thường bảo “Bát nhã Ba la mật là mẹ sanh mẹ dưỡng của chư Phật thường hay nhiếp thọ tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian”.

 

1- Thế nào tu học Bát Nhã có thể thông đạt bố thí Ba la mật?

Bố thí gồm có tài thí, pháp thí và vô úy thí. Tài thí là giúp đở người nghèo đói khốn cùng về vật chất như cơm ăn áo mặc, tiền của… trong cơn đói lạnh để cứu mạng sống. Pháp thí là giúp đở về tinh thần tức thuyết pháp, giảng kinh, viết sách… mục đích dạy người xa lìa tối tăm ngu muội bằng cách giúp họ khai ngộ trí tuệ để cứu pháp thân. Vô úy thí là bảo vệ người cô đơn yếu thế tức cứu người qua khỏi lo âu, sợ hải, bất an bởi bạo quyền áp bức. Nhưng bố thí dưới danh nghĩa nào cũng không ra ngoài 2 dạng thức hoặc thế gian hoặc xuất thế gian:

Bố thí thế gian là muốn hiện đời hay hậu đời được giàu sang sung sướng, danh vọng, được mọi người ca tụng,… Đó là hành thí theo thế gian, tuy có công đức nhưng chỉ là nhân hữu lậu giới hạn.

Bố thí xuất thế gian là thi ân bất cầu báo, chỉ cốt phá ngã, giúp đời. Bố thí mà không thấy người thí, kẻ thọ, vật thí… nên bảo là tam luân thể không. Bố thí như thế tâm mới được thanh tịnh. Vì vậy, mới được gọi Bố thí Ba la mật, công đức vô bờ bến, không thể nghĩ bàng.

Hội thứ VI hay Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã “bảo Đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể:

- Hành Bố thí Tư sanh Ba la mật” nghĩa là giúp đỡ chúng sanh tùy theo chúng sanh cần vật gì, Đại Bồ Tát đều bố thí, làm cho họ thọ được mười điều thiện; cũng không thấy mình bố thí điều thiện và người khác nhận thí,

- Hành Bố thí bất vong báo Ba la mật nghĩa là hành bố thí mà không mong cầu quả báo, tự mình thực hành bố thí mà không hề thấy mình bố thí và không nghĩ đến phước báo do bố thí,

- Trải rộng tâm đại Bi thực hành bố thí gọi là Đại bi thí Ba la mật là thấy các chúng sanh nghèo cùng, già yếu bệnh tật, không người cứu giúp, nên sinh tâm đại Bi mà phát nguyện: “Ta chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sẽ làm nơi nương tựa cho các chúng sanh quay về, dùng ít căn lành để hồi hướng Bồ đề, luôn vì chúng sanh nên không phân biệt…”

- Cung kính và tôn trọng thực hành Bố thí Ba la mật: Tùy theo nhu cầu của người khác mà cho. Đối với chúng sanh đều phát khởi tưởng như là Sư tăng, Cha mẹ, Thầy bạn…không coi thường người thọ thí, người già hay kẻ tật nguyền mà phải dùng thiện ngôn đối sử,

- Cúng dường thực hành Bố thí Ba la mật, nghĩa là nếu thấy đền chùa am tự…hư hao đổ nát, tôn tượng sứt mẻ, kinh điển rách nát thì nên tu bổ lại. Viếng chùa để gieo duyên với chúng sanh thì nên cúng dường hoa quả, đèn dầu hoặc dùng tứ sự cúng dường đối với chư Tăng,

- Hành vô y chỉ Ba la mật, nghĩa là hành bố thí không nương tựa, nên không suy nghĩ: “Do bố thí này nguyện sanh được làm người giàu sang phú húy hoặc làm vua cõi người trời, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cũng không mong cầu nắm bắt vì vô sở đắc”.

Đó gọi là tu học Bát Nhã có thể thông đạt Bố thí Ba la mật.

 

2- Thế nào tu học Bát Nhã có thể thông đạt tịnh giới Ba la mật?

“Đức Phật dạy Ba la đề mộc xoa (giới giúp Phật tử giải thoát bằng cách tránh làm các điều ác) trong A hàm và trong Luật tạng, Đại Bồ Tát nên học, không thấy tướng của giới và mình được trì giới, lại cũng không chấp vào giới, chẳng chấp thấy có giới và người trì giới”. Đại Bồ Tát học Bát Nhã phải suy nghĩ như thế này: “Đạt được Chánh đẳng Chánh giác không phải do trì giới mà được, mà phải học tất cả giới hạnh của Bồ Tát, vì tự tánh của giới thanh tịnh, vắng lặng, chẳng sanh, tự tánh xa lìa”.

Nếu đại Bồ Tát tu học Bát Nhã có thể hành tịnh giới Ba la mật, nghĩa là các Bồ Tát suy nghĩ: Thế nào là trì giới có thể dứt trừ phiền não?”

Phiền não có hai thứ: Phiền não chướng và sở tri chướng. Phiền não chướng thuộc về ái và sở tri chướng thuộc về kiến. Nên chương 5, quyển 3, Đại trí Độ Luận nói rằng: “… Các kiết sử đều thuộc ái và kiến. Phiền não thuộc ái thì che đậy tâm; phiền não thuộc kiến thì che đậy tuệ. Như vậy, hễ ái xa lìa thì kiết sử thuộc ái cũng xa lìa, được tâm giải thoát (không còn phiền não tham ái trói buộc); hễ vô minh xa lìa thì kiết sử thuộc kiến cũng xa lìa, được tuệ giải thoát(không còn kiến thú trói buộc).

Phiền não chướng có 3 là tham sân si còn gọi tam độc, thường giết hại huệ mạng con người, đưa con người vào cảnh giới đen tối.

Phiền não chướng có ba bậc thượng trung hạ. “Muốn dứt trừ phiền não phải biết đối trị. Kẻ tham tăng thượng tu quán bất tịnh. Kẻ sân tăng thượng tu quán từ bi. Kẻ si tăng thượng tu quán duyên khởi. Chẳng thấy năng quán và pháp sở quán, không hai không khác, vì lìa tự tánh”.

- Thế nào là quán Bất tịnh?

Luôn luôn nghĩ đến thân mình được cấu tạo toàn bằng những thứ nhơ bẩn (như nước tiểu, phẩn, mồ hôi, đờm, mũi dãi, máu mủ…) để khỏi quý trọng thân mình mà khinh khi kẻ khác. Pháp quán này cũng nhằm đối trị đối với những người đầy sắc dục.

- Thế nào là quán từ bi?

Hành giả khởi tâm từ bi thương sót tất cả chúng sanh muốn ra tay tế độ. Nếu quán thành công thì không còn coi trọng cái ngã, coi trọng cái Ta hơn kẻ khác tức không những từ bỏ được sân hận mà còn có lòng từ bi thương sót tất cả chúng sanh nữa.

- Thế nào là quán Duyên khởi?

12 duyên khởi hay 12 nhân duyên chỉ cho 12 điều kiện (tức 12 Hữu chi) cấu thành sự sinh tồn của loài hữu tình. Giáo nghĩa căn bản này, gồm các thành tố: 1-Vô Minh, 2-Hành, 3-Thức, 4-Danh sắc, 5-Lục nhập, 6-Xúc, 7-Thọ, 8-Ái, 9-Thủ, 10-Hữu, 11-Sanh, và 12-Lão Tử.

Phẩm thứ nhất, Tập 1, quyển 5, “Khéo Thuyết Các Pháp Nhân Duyên”. Đại Trí Độ Luận thuyết về 12 Nhân duyên như sau:

“Hết thảy các phiền não gọi là Vô minh. Từ vô minh sanh ra nghiệp và nghiệp quả, có thể tạo thành quả cho một thế giới nên gọi là Hành. Từ hành sanh ra tâm cấu hay tịnh, rồi hình thành các thân đầu tiên như trâu nghé biết trâu mẹ là mẹ của mình, chúng sanh biết được tự tướng của chính mình, đó là nhờ Thức. Mặc dù trong 5 ấm, Thức cùng với Thọ, Tưởng, Hành đều là vô sắc, nhưng thức lại trú nơi sắc, nên mới có Danh sắc. Ở nơi Danh và Sắc sẽ sanh ra 6 tình là Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý. Sáu tình còn gọi là lục Nhập. Khi Căn, Trần và Thức hòa hợp, thì sanh ra Xúc. Từ Xúc sanh ra Thọ. Ở nơi Thọ mà có đắm trước, thì gọi là khát Ái. Do nhân duyên khát Ái mà có mong cầu, nên mới sanh ra Thủ. Do có Thủ nên tạo nghiệp cho nhân đời sau, nên gọi là Hữu. Do Hữu mà thọ 5 ấm cho đời sau, nên có Sanh. Đã có thân 5 ấm Sanh ra, thì sẽ có già, có chết tức là có Lão Tử vậy. Do sợ già sợ chết mà sanh khởi ưu sầu, khổ não. Thế rồi, các khổ não lại hòa hợp, triển chuyển, mãi mãi.

Nếu nhất tâm quán thật tướng các pháp thì được thanh tịnh, sẽ dứt được Vô minh. Khi Vô minh dứt thì các Hành cũng dứt theo, dẫn đến các thứ khổ đều tận dứt”.

“... Phật dạy ngài Tu Bồ Đề rằng: “Vô minh chẳng cùng tận, si ám cũng chẳng cùng tận, dẫn đến khổ cũng chẳng cùng tận, như hư không vậy”. Bồ Tát phải biết như vậy mới xả hết si ám, vào chỗ Vô Sở Nhập, được Đạo tràng, mới được Tác Bà Nhã” (là Nhất thiết trí).

Cũng trong phần tu tịnh giới này Phật dạy các pháp tu thiết thực như sau:

- Muốn xa lìa các ý nghĩ không chân chính thì phải thực hành tịch tĩnh, thực hành xa lìa, thực hành không,

- Nếu có ai đem vàng bạc, lưu ly, trân châu, mã não, hổ phách, san hô, xa cừ, bạch ngọc gởi thì không nên sinh tâm tham trước, muốn chiếm đoạt mà phải suy nghĩ: “Đức Thế Tôn dạy, thà rằng tự cắt thịt mình mà ăn nhưng đối với của cải của người khác không cho, thì không được lấy”,

- Nếu ma và quyến thuộc của ma đem gái đẹp đến thử thách thì tâm không lay động mà phải suy nghĩ: “Đức Thế Tôn dạy, tất cả các pháp như mộng huyễn, vì tự tánh xa lìa không hai không khác”,

- Phải lo giữ gìn giới luật mà không mong cầu sanh làm người, trời hoặc làm vua cõi nhân thiên, thân lìa 3 lỗi, miệng dứt 4 lầm, ý tránh 3 tội; trì giới như vậy mà không thấy mình trì và không thấy giới tướng, tự tánh xa lìa, không hai, không khác.

Đó gọi là học Bát nhã Ba la mật thông suốt Trì giới Ba la mật.

 

3- Thế nào tu học Bát Nhã có thể thông đạt an nhẫn Ba la-mật?

An nhẫn có nhiều thứ: Có thứ gọi là nội nhẫn, có thứ gọi là ngoại nhẫn, có thứ gọi là sanh nhẫn, có thứ là pháp nhẫn hay vô sanh pháp nhẫn. Nhưng nhẫn nhục dưới bất cứ hình thức nào cũng đều có nghĩa là chịu đựng mọi thử thách về vật chất cũng như tinh thần gọi là mắng nhiếc, lăng nhục, đánh đập hay đâm chém… Nhưng dù bị rơi vào hoàn cảnh ấy không than trời trách đất mà chỉ nghĩ đến tội phước là nhân duyên đời trước do mình làm nên đời này phải gánh chịu. Biết như vậy liền quán “vô ngã” hay quán “tam tam muội không, vô tướng, vô tác” thì liền vượt qua khỏi khổ ách.

Nên Hội thứ VI bảo: Bồ Tát hành nhẫn chẳng vì sự trả ơn, danh lợi, nhân nghĩa, sợ hãi, xấu hổ. Bồ Tát nên hành nhẫn tự nhiên như thế. Nếu người kia gia hại, đánh đập, nhục mạ, xâm chiếm, cướp đoạt, khinh khi, lăng nhục, tâm cũng chẳng lay động. Nếu Bồ Tát ở ngôi vua, địa vị đại thần v.v... có người bần tiện hủy mắng, sỉ nhục, hoàn toàn không vội vàng tỏ thái độ thị uy: Ta ở ngôi vị cao sang nên theo pháp là phải quở phạt, mà chỉ nghĩ: Thuở xưa ta ở chỗ Phật Thế Tôn phát thệ nguyện rộng lớn là đối với tất cả hữu tình ta đều cứu giúp, khiến cho được Vô thượng Bồ đề. Nay nếu khởi tâm sân thì trái với nguyện xưa.

Ví như thầy thuốc giỏi, phát lời thề như vầy: Thế gian đui mù ta đều chữa lành. Nếu mắt mình không sáng thì đâu có thể chữa lành cho ai được. Như thế, Bồ Tát vì trừ tối tăm cho người mà tự mình phát sanh giận dữ thì làm sao cứu họ cho được? Chẳng thấy mình nhẫn và sự nhẫn được; không hai, không khác, vì lìa tự tánh”.

Đó gọi là học Bát nhã Ba la mật thông đạt được Nhẫn nhục độ.

Ba la mật trên bố thí, trì giới, nhẫn nhục giúp hành giả Bát Nhã vượt qua được phước môn. Muốn đạt được trí môn thì hành giả phải học và hành tinh tấn, thiền định và Bát nhã Ba la mật.

 

4- Thế nào tu học Bát Nhã có thể thông đạt tinh tấn Ba la mật?

Tinh tấn là yếu tố quan trọng trong bất cứ lãnh vực nào dù là Đạo hay Đời. Tinh tấn là cố gắng, là trì chí, quyết tâm vượt qua mọi trở lực chông gai để tiến đến mục tiêu mà mình mong muốn. Nó chính là ý chí và nghị lực, là nhiên liệu, cũng là sức tống  giúp cho chiếc phi cơ rời phi đạo(take off) bay lượn trên không gian vô tận. Không có nó chiếc phi cơ sẽ chạy mãi trên phi đạo, không bao giờ cất cánh để đến được bến bờ mong muốn. Vì vậy, tinh tấn Ba la mật mới được xem là thành tố quan trọng của trí môn!

Kinh Đại Bát Nhã trong “phần thuyết về Tinh Tấn”, tức Hội thứ XIV do nhóm của Ngài Huyền Trang dịch(1), dạy rằng:

“Nếu đại Bồ Tát tu tập, học hành kiên nhẫn với quyết tâm dũng mãnh không kể là công việc lớn nhỏ, nhiều ít, khó dễ, suy nghĩ đến kiếp số mà giới hạn, phân biệt, tuy rất dõng mãnh thường siêng năng tu học 18 pháp Không, 12 pháp chân như, 12 duyên khởi, siêng năng tu học Tứ đế, 4 tĩnh lự, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, tam giải thoát môn, cho đến Nhất thiết tướng trí; siêng năng tu học tất cả Bồ Tát hạnh... (nói chung là tất cả các pháp mầu Phật đạo) nhưng cũng gọi là Bồ Tát giải đãi. Nếu đại Bồ Tát suy nghĩ như vầy: Dù trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp, nỗ lực dõng mãnh thường xuyên tu học tất cả các pháp mầu Phật đạo nói trên, mới được viên mãn, mới có thể chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, ta nhất định không sanh tâm thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn, an trụ tinh tấn Ba la mật, mau chứng đắc Nhất thiết trí trí.

Nếu đại Bồ Tát suy nghĩ: Giả sử hằng hà sa số đại kiếp thu lại thành một ngày, rồi tích lũy ngày đêm lại thành đại kiếp, dù trải qua vô lượng đại kiếp như vậy tu Bồ Tát đạo mới chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, thì trong thời gian đó tâm cũng không thối chuyển. Nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn.

Nếu Bồ Tát khi nghe thuyết tướng tinh tấn như thế, bộc lộ sự vui mừng, tâm không khiếp sợ, nên biết đây gọi là Bồ Tát tinh tấn. Nếu trái lại, khi nghe thuyết tướng tinh tấn như thế, tâm thối lui, nên biết đây gọi là Bồ Tát giải đãi, chẳng thể chứng Nhất thiết trí trí. Nếu không chứng nổi Nhất thiết trí trí thì làm sao độ chúng sanh?”

 

Để giải thích tại sao phải tu tinh tấn, Bồ Tát Long Thọ, trong phẩm thứ nhất, “Tỳ Lệ Gia Ba La Mật”, Tập 1, quyển 14, Đại Trí Độ Luận đặt câu hỏi và trả lời như sau:

(“Hỏi: Vì sao lại xếp Tinh Tấn sau Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục?

Đáp: Vì người thế gian vẫn thường hành Bố Thí, Trì Giới và Nhẫn Nhục.

Bố Thí là do tánh tốt muốn giúp đỡ người khác. Chẳng cần phải siêng năng, tinh tấn cũng có thể làm việc bố thí được.

Trì Giới là do tánh tốt, chẳng muốn làm việc ác. Cũng có trường hợp vì sợ mang tội mà phải trì giới.

Nhẫn Nhục là do Tánh tốt, chẳng muốn chống trả lại người đến mắng nhiếc, hành hung mình. Cũng có trường hợp vì cầu Hiếu Đạo, vì cầu Phật Đạo... mà phải tự nhẫn.

Nay muốn rõ Thật Tướng các pháp, muốn tu Thiền Định, muốn tu Trí Huệ, thì cần phải tinh tấn, phải nhất tâm.

Lại nữa, muốn vào Phật Đạo phải song tu “Phước-Huệ”:

- Trước tu Bố Thí, Trì Giới và Nhẫn Nhục để được phước đức.

- Nay tu Tinh Tấn để được Vi Diệu Thiền Định, Trí Huệ.

Chẳng phải do nhàm chán Sanh Tử, cũng chẳng phải do cầu được vui cõi Niết Bàn mà có thể vào được cửa Trí Huệ. Hành giả phải tinh tấn tu thiền mới vào được vậy. Vì sao? Vì ở cõi Dục, do tâm thường bị loạn động, nên chẳng thấy được Thật Tướng các pháp. Thô quán chưa đủ, cốt phải thường tinh tấn, không giải đãi, mới được Thiền Định, Trí Huệ”).

Đó là học và hành Bát Nhã thông đạt tinh tấn Ba la mật.

 

5- Thế nào tu học Bát Nhã có thể thông đạt Tịnh lự Ba la mật?

Bồ Tát Long Thọ trong phẩm thứ nhất, “Thiền Na Ba La Mật”, Tập 1, quyển 17(2), nói rằng:

“(…)Bồ Tát tu Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục mới chỉ là tu phước. Như trong Kinh nói “Bồ Tát làm vị Chuyển Luân Thánh Vương, đem 10 Thiện Đạo giáo hóa chúng sanh, khiến họ được nhiều lợi lạc, rồi lại chỉ cho họ biết là do tương quan đối đãi mà có lạc, có khổ, có vui, có buồn… để rồi dạy cho họ phát tâm Đại Bi, thường tu Niết Bàn, sẽ được lợi lạc trong nhiều đời.

Thế nhưng muốn được Niết Bàn thì phải tu Thật Trí Huệ, phải Nhất Tâm Thiền Định. Ví như ngọn đèn dầu để giữa gió bị chao động, chẳng bao giờ phát ra được nhiều ánh sáng. Nếu được để vào một nơi kín gió, thì ánh đèn sẽ được sáng tỏ hơn nhiều. Cũng như vậy, khi được thiền định rồi, thì Thật Trí Huệ sẽ sanh.

Bồ Tát tuy vào thiền định, ở xa chúng sanh mà vẫn luôn luôn nhớ nghĩ đến chúng sanh, dùng các phương tiện để lợi sanh. Khi chưa được Đạo mà ở gần người thế gian thì sẽ không được chuyên tâm, do vậy mà sự nghiệp hoằng pháp độ sanh sẽ không được thành tựu viên mãn.

Thiền Định có công năng nhiếp các tâm loạn động. Tâm loạn ví như lông chim Hồng, gặp gió thổi sẽ cứ bay mãi chẳng sao dừng nghỉ được. Cũng vậy, nếu chẳng có Thiền Định tâm sẽ bị loạn động, chẳng sao có thể an định, sẽ bị các gió nghiệp lôi cuốn theo chẳng sao dừng nghỉ được vậy.

Lại nữa, tâm phàm phu ví như khỉ, như vượn, như điện chớp, liền khởi, liền diệt. Bởi vậy nên hành giả phải vào Thiền Định mới điều phục được tâm mình”.

 Đó là học Bát Nhã thực hành thông suốt tịnh lự Ba la mật.

 

6- Thế nào học Bát Nhã có thể thông đạt Bát nhã Ba la mật?

Học Bát Nhã là phải thấy tất cả pháp đều không, như huyễn như mộng, hành vô tướng, vô tác. Trên cầu Vô thượng Bồ đề, dưới hóa độ chúng sanh, luôn luôn hướng đến Nhất thiết trí trí.

 

Phẩm “Biện Đại Thừa” Q.51, Hội thứ I, được lập lại trong phẩm “Dẫn Nhiếp” Q.349 - Q.350, cũng trong Hội thứ I, ĐBN. Phật dạy:

- “Thiện Hiện! Nếu đại Bồ Tát phát tâm tương ưng với Nhất thiết trí trí và lấy đại bi làm đầu, lấy vô sở đắc làm phương tiện, có khả năng tự quán sát như thật tất cả pháp tánh, đối với các pháp tánh, không có sự chấp trước, cũng khuyên người khác quán sát như thật tất cả pháp tánh, đối với các pháp tánh, không có sự chấp trước, duy trì thiện căn này, cùng với tất cả hữu tình, đồng hồi hướng quả vị Giác ngộ cao tột, này Thiện Hiện, đó là Bát nhã Ba la mật của đại Bồ Tát”.

 

Phẩm “Ba Lần Lửa” Q.372, Hội thứ I hay phẩm “Diệu Tướng” Q.528, Hội thứ III, ĐBN cũng ghi:

- “Thiện Hiện! Bồ Tát Ma ha tát này từ sơ phát tâm tu học Bát nhã Ba la mật, đem giới định huệ và thắng giải thoát, giải thoát trí kiến an lập hữu tình, đem vô sở đắc làm phương tiện, tự hành 6 Ba la mật, cũng khuyên người hành 6 Ba la mật, hằng chính xưng nêu công đức 6 Ba la mật, vui mừng khen ngợi kẻ hành 6 Ba la mật. Bồ Tát Ma ha tát này do bố thí cho đến Bát nhã Ba la mật phương tiện khéo léo vượt các bậc thanh văn Duyên giác, chứng vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh. Đã vào Bồ Tát Chánh tánh ly sanh, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Làm việc này rồi, mới năng chứng được Nhất thiết trí trí, quay xe diệu pháp v.v...”

Đó là lý do tại sao học Bát Nhã thông đạt tất cả Bát nhã Ba la mật.

 

Để kết luận 6 pháp Ba la mật: Bố thí, Trì giới, An nhẫn, Tinh tấn, Thiền định và Bát nhã Ba la mật kể trên, chúng tôi trích dẫn 2 đoạn Kinh trong số trăm ngàn đoạn Kinh đã thuyết trong hệ Bát Nhã trình bày ra đây để Quý vị thấy tính cách vi diệu của 6 pháp Ba la mật nầy:

 

Phẩm “Thiện Hữu” Q.551, Hội thứ IV, ĐBN so sánh 6 pháp Ba la mật. Phật bảo:

“Thiện Hiện nên biết! Như vậy, 6 pháp Ba la mật cũng là thầy của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là bậc dẫn đường của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là ánh sáng của đại Bồ Tát. Sáu pháp cũng là sự chiếu soi của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là nhà cửa của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là sự hộ trì của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là sự quy y của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là sự hướng đến của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là hòn đảo của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là cha lành của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật cũng là mẹ hiền của đại Bồ Tát. Sáu pháp Ba la mật thường làm cho chúng đại Bồ Tát đắc được trí vi diệu, sanh giác ngộ chơn thật, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề.Vì sao? Vì tất cả chúng đại Bồ Tát đều nhờ sáu pháp Ba la mật mà tu tập Bát nhã Ba la mật viên mãn hoàn toàn.

Thiện Hiện nên biết! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở quá khứ đã chứng quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề đã Bát Niết bàn. Phật Thế Tôn kia đều nương vào 6 pháp Ba la mật mà sanh Nhất thiết trí. Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vị lai sẽ chứng quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề, sẽ Bát Niết bàn. Phật Thế Tôn kia cũng nương vào 6 pháp Ba la mật mà sanh Nhất thiết trí. Tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện tại trong 10 phương vô lượng, vô số, vô biên thế giới hiện đang chứng quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề, hiện đang vì các hữu tình giảng thuyết chánh pháp. Phật Thế Tôn kia cũng nương 6 pháp Ba la mật mà sanh Nhất thiết trí. Nay Ta, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác hiện đang chứng quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề, hiện đang tuyên thuyết chánh pháp cho các hữu tình cũng nương 6 pháp Ba la mật mà sanh Nhất thiết trí. Vì sao? Vì 6 pháp Ba la mật này có thể bao gồm khắp tất cả 37 Bồ đề phần pháp, hoặc 4 phạm trụ, hoặc 4 nhiếp sự, hoặc vô lượng, vô biên Phật pháp khác, hoặc trí chư Phật, hoặc trí tự nhiên, trí bất tư nghì, trí không đối địch, Nhất thiết trí trí, tất cả đều bao gồm ở trong 6 pháp Ba la mật này. Thế nên, Ta nói 6 pháp Ba la mật này là bạn lành chơn tịnh của các chúng đại Bồ Tát, là thầy chỉ dạy, là bậc dẫn đường, là ánh sáng, là chiếu soi, là nhà cửa, là hộ trì, là nơi quy y, là nơi hướng đến, là hòn đảo, là cha lành, là mẹ hiền cho các chúng đại Bồ Tát, luôn làm cho chúng đại Bồ Tát đắc trí tuệ vi diệu, sanh giác ngộ như thật, mau chứng quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề, làm bạn bè chẳng mong đền trả của các hữu tình.

Thế nên, Thiện Hiện! Các đại Bồ Tát nên học 6 pháp Ba la mật.

“Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát muốn học 6 thứ Ba la mật, nên đối kinh điển Bát nhã Ba la mật sâu thẳm chăm lòng lóng nghe, thọ trì đọc tụng, quán sát nghĩa thú, thỉnh quyết chỗ nghi. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật như thế năng cùng 6 thứ Ba la mật làm tôn làm dẫn, năng chỉ năng chuyển, làm mẹ sanh mẹ dưỡng vậy. Vì sao? Vì nếu lìa Bát nhã Ba la mật thời không có 5 Ba la mật trước. Mặc dù có bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự mà chẳng gọi là năng đến bờ kia. Vậy nên, Thiện Hiện! Các Bồ Tát Ma ha tát muốn được hạnh chẳng theo người dạy, muốn trụ bậc chẳng theo người dạy, muốn dứt nghi tất cả hữu tình, muốn mãn nguyện tất cả hữu tình, muốn nghiêm tịnh cõi Phật, muốn thành thục hữu tình, nên học Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì trong kinh Bát nhã Ba la mật này rộng nói về pháp cần nên học của các đại Bồ Tát, tất cả các đại Bồ Tát đối với kinh ấy đều nên siêng năng tu học. Nếu siêng năng tu học phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật thì nhất định chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, luôn làm lợi ích an vui cho chúng sanh cùng tận đời vị lai”.

 

Phẩm “Chuyển Sanh” Q.07, Hội thứ I, ĐBN cũng xưng tán Lục Ba la mật như sau:

“Xá Lợi Tử! Nếu đại Bồ Tát muốn đắc 5 nhãn thanh tịnh, nên siêng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã ba la mật. Vì sao? Xá Lợi Tử! Vì 6 Ba la mật như vậy, gồm thâu tất cả thiện pháp thanh tịnh, đó là thiện pháp của Thanh văn, thiện pháp của Độc giác, thiện pháp của Bồ Tát, thiện pháp của Như Lai. Xá Lợi Tử! Nếu hỏi thẳng: Pháp nào có thể gồm thâu tất cả thiện pháp, nên đáp ngay rằng: Đó là Bát nhã Ba la mật sâu xa. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật là mẹ sanh, mẹ dưỡng của tất cả thiện pháp, có thể sanh ra và nuôi dưỡng bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự và 5 nhãn v.v… cùng vô lượng vô biên công đức thù thắng, chẳng thể nghĩ bàn”.

 

2. Phần phụ gồm có 4: 7-Phương tiện, 8-Nguyện, 9-Lực, và 10- Trí Ba la mật. Sở dĩ, 4 Ba la mật sau cùng gọi là phụ, vì chúng không thể tự thành tựu Giác ngộ. Nhưng nhờ chúng giúp đỡ 6 pháp Ba la mật đầu mới có thể chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và đắc Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì Phương tiện Ba la mật giúp đỡ cho 3 Ba la mật Thí, Giới và Nhẫn; Nguyện Ba la mật là giúp đỡ cho Tinh tấn Ba la mật; Lực Ba la mật là giúp đỡ cho Thiền Ba la mật; Trí Ba la mật giúp đỡ cho Bát nhã Ba la mật.

 

7- Thế nào học Bát Nhã có thể thông đạt phương tiện Ba la mật (Phạm: Upàya-pàramità, Hán âm: Âu ba da ba la mật), hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Cũng gọi Phương tiện Ba la mật, Phương tiện thắng trí Ba la mật. Chỉ cho Ba la mật thứ 7 trong 10 Ba la mật, được chia làm 2 loại: 1). Hồi hướng phương tiện thiện xảo: Ban phát các thiện xảo đã tích tập được do tu hành Lục Ba la mật trước để hữu tình cùng nhau hồi hướng mong cầu quả Vô thượng Bồ đề. 2). Bạt tế phương tiện thiện xảo: Phương tiện khéo léo mang lại lợi ích cứu giúp các hữu tình. Hồi hướng phương tiện thiện xảo thuộc về Bát Nhã, còn Bạt tế phương tiện thiện xảo thì thuộc về Đại bi. Tức vì Bát Nhã nên cầu Niết bàn, vì Đại bi mà không bỏ sinh tử. (3)

 

Phẩm “Thông Đạt”, Q.566, Hội thứ VI, Đại Bát Nhã đồng bản với kinh TTVBN thuyết:

“Bồ Tát học Bát Nhã, hành Phương tiện thiện xảo Ba la mật, Bồ Tát khéo hồi hướng Vô thượng Bồ đề. Nếu thấy hoa quả thế gian tốt đẹp thì thường đem cúng dường chư Phật Bồ Tát, ngày đêm sáu thời từng không tạm bỏ, đem thắng thiện đây hồi hướng Bồ đề. Nếu nghe Khế Kinh Như Lai nói nghĩa pháp sâu xa thì hoan hỷ tin nhận, ưa thích thọ trì đọc tụng và nói lại cho người khác, đem diệu thiện này hồi hướng Bồ đề.

Nếu thấy bảo tháp, hình tượng Như Lai thì liền đem các thứ hương hoa cúng dường, nguyện loài hữu tình lìa hương phá giới, được hương giới thanh tịnh. Quét rưới đất bụi, nguyện các hữu tình uy nghi tề chỉnh. Hoa lọng đèn lồng, nguyện các hữu tình đều lìa buồn bực. Vào Tăng già lam, nguyện các hữu tình đều vào Niết bàn; ra khỏi chỗ Tăng trụ, nguyện các hữu tình ra khỏi cảnh ma. Thấy cửa Tăng mở, bèn phát nguyện: Đem trí xuất thế vì các hữu tình mở cửa chưa mở, đều khiến ngộ nhập. Nếu thấy cửa đóng, nguyện các hữu tình đóng cửa ba cõi, hoặc bốn nẻo ác.

Nếu được ngồi yên, nguyện các hữu tình ngồi tòa Bồ đề. Nếu nằm hông phải, nguyện các hữu tình đều chứng Niết bàn. Lúc ngồi nằm, dậy, nguyện các hữu tình lìa các mê lầm. Nếu khi rửa chân, nguyện các hữu tình lìa bụi nhơ.

Nếu khi lạy Phật, hay nhiễu bên phải bảo tháp, nguyện các hữu tình đều sẽ thành Phật, được trời người cung kính, chẳng lấy đó làm vui mừng.

Nếu có ngoại đạo tà kiến khó giáo hóa, bèn nghĩ: Nếu ta có làm thầy họ thì họ vẫn giữ sự kiêu mạn, chắc chắn chẳng chịu tin. Hãy làm đồng học, hoặc làm đệ tử; tuy ở trong chúng của họ mà giới hạnh đa văn hơn các ngoại đạo, nhân đây hàng phục họ, được họ tôn trọng làm thầy, thì lời nói chắc chắn được tin nhận. Hủy bỏ tà pháp, nói chánh Niết bàn, làm cho nhập vào giáo pháp thanh tịnh của Như Lai, tấn tu phạm hạnh tịnh lự đẳng trì, đắc thần thông thù thắng, tu tất cả diệu thiện.

Thấy người đa dục hóa làm nữ nhơn đẹp đẽ, khiến cho kẻ kia say mê, trong khoảng chốc lát thị hiện vô thường, nhan sắc biến đổi, sình trương bủn nát, hôi thối, khiến cho chán ghét, nhờm gớm và khởi tâm nhàm chán, xa lìa, liền hoàn phục hình cũ là hình tượng Bồ Tát, nhân đó nói pháp yếu sâu xa, khiến cho kẻ kia phát tâm Vô thượng Bồ đề, tu hạnh Đại thừa, chứng quả Vô thượng.

Thấy người Đại thừa xa lìa bạn lành quen biết, tuy siêng năng tinh tấn học đạo Nhị thừa nhưng đối với quả đó không thể chứng đắc, mất pháp lợi nơi Đại thừa Vô thượng, quán căn tánh của người kia, thuyết Đại thừa cho họ, làm cho người đó hồi tâm, nhập đạo Vô thượng. Người chưa phát tâm, giáo hóa làm cho phát tâm. Nếu đã phát tâm thì khuyên khiến cho bền vững. Thấy người trì giới phạm tội nhẹ, chẳng hiểu để trình bày sám hối nên lo sợ buồn rầu, thối lui; do đó không thể tấn tu đạo cao đẹp, thì liền thuyết pháp cho họ, khiến họ mau sám hối để trừ diệt, tâm lìa buồn rầu, tấn tu đạo cao đẹp. Các chúng Bồ Tát ấy thiểu dục tri túc, chuyên cầu pháp lợi. Vì các hữu tình thuyết về sự cúng dường Như Lai. Do đó liền thành tựu sáu Ba la mật:

Thuyết pháp cúng dường, đó là bố thí Ba la mật.

Hành động chẳng trái với lời nói, đó là tịnh giới Ba la mật.

Các thiên ma v.v... chẳng thể não loạn, đó là an nhẫn Ba la mật.

Tâm tiếp nối nhau chẳng biết mỏi mệt, đó là tinh tấn Ba la mật.

Chuyên tâm nhất niệm, chẳng duyên cảnh khác, đó là tịnh lự Ba la mật.

Thuyết pháp cúng dường, lìa ngã, ngã sở, đó là Bát nhã Ba la mật.

Chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; không hai, không khác, vì lìa tự tánh”.

Đó gọi là tu học Bát Nhã thông đạt Phương tiện xảo Ba la mật.

 

8- Thế nào học Bát Nhã có thể thông đạt Nguyện Ba la mật? (Phạm: Praịidhàna-pàramità): Cũng gọi Bát la ni đà na ba la mật. Hạnh nguyện rộng lớn của Bồ Tát trên cầu đạo Bồ đề (giác ngộ), dưới hóa độ chúng sanh, là 1 trong 10 Ba la mật. Cứ theo Kinh Hoa Nghiêm, quyển 18 (bản 80 quyển) thì Nguyện Ba la mật có 10 đức: 1/. Thành tựu cho hết tất cả chúng sanh. 2/. Trang nghiêm hết tất cả thế giới. 3/. Cúng dường hết tất cả chư Phật. 4/. Thông suốt hết các pháp không chướng ngại. 5/. Tu hành hết các hạnh trong khắp pháp giới. 6/. Thân hằng trụ trong hết các kiếp vị lai. 7/. Trí biết hết tất cả tâm niệm. 8/. Giác ngộ hết lưu chuyển hoàn diệt. 9/. Thị hiện trong hết tất cả quốc độ. 10/. Chứng hết được trí tuệ của Như Lai. (4)

Hội thứ VI này thuyết các nguyện, như sau:

- Nguyện tất cả hữu tình đều nhập vào Vô dư y Bát Niết bàn trước, còn mình thành chánh giác và nhập Niết Bàn sau cùng,

- Người chưa phát tâm thì giáo hóa làm cho phát tâm. Nếu đã phát tâm rồi thì làm cho họ thành tựu đại hạnh. Đã tu đại hạnh rồi thì làm cho được Bồ đề. Đắc Bồ đề rồi thì thỉnh thuyết pháp, lần lượt cho đến sau khi vào Niết bàn, dùng 7 báu tốt đẹp xây tháp, tôn trí xá lợi, thiết lập sự cúng dường, làm cho vô lượng chúng đạt được phước vô biên,

- Lại phải nguyện: Khi thành Chánh giác thường ở thế gian thành thục hữu tình, khiến cho đạt được lợi ích an lạc.

- Nguyện các hữu tình đắc đại trí tuệ, đều thông suốt hoàn toàn vô biên Phật đạo, vô biên Phật cảnh, vô biên đại Bi, làm lợi ích vô biên các loài hữu tình,

- Lại nguyện tự thân thường sanh ở nước nhơ uế, chẳng sanh cõi tịnh. Vì sao? Vì chỗ có nhiều bệnh nhân thì mới cần thầy thuốc, chỗ không có bệnh, ai cần thầy thuốc làm gì?

Đó gọi là tu học Bát Nhã thông đạt Nguyện Ba la mật.

 

9- Thế nào là học Bát Nhã có thể thông đạt Lực Ba la mật? Đó là năng lực tu hành và nhận thức, có thể giúp cho sự giác ngộ một cách chân chính, không lầm lạc.

Hội thứ VI thuyết về Lực Ba la mật, như sau:

“Nếu các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành Lực Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát có thể hàng phục Thiên ma, dẹp trừ ngoại đạo, đầy đủ năng lực phước đức trí tuệ, tu hành tất cả Phật pháp, chứng biết tất cả Phật cảnh, dùng năng lực thần thông đem đầu sợi lông nhấc châu Thiệm bộ hoặc cõi bốn châu, hoặc cõi Đại thiên đến vô lượng thế giới như cát sông Hằng trong 10 phương, rồi để lại chỗ cũ mà không hề tổn hại; hoặc dùng năng lực thần thông, ở giữa hư không lấy các thứ báu bố thí cho loài hữu tình, có thể nghe và thọ trì tất cả pháp mà chư Phật thuyết ở vô lượng, vô biên thế giới trong mười phương, chẳng thấy năng hành và pháp sở hành; tất cả không hai, không khác, vì lìa tự tánh”.

Đó gọi là tu học Bát Nhã có thể thông đạt Lực Ba la mật.

 

10- Thế nào là học Bát Nhã có thể thông đạt Trí Ba la mật?

Đó là sự hoàn chỉnh của toàn tri toàn giác - có khả năng nhận rõ các hiện tượng trong pháp giới chân thật như thể tính(5) của chúng.

“Nếu các đại Bồ Tát tu học Bát Nhã thì có thể hành Trí Ba la mật. Nghĩa là các Bồ Tát quán sát năm uẩn sanh chẳng phải thật sanh, diệt chẳng phải thật diệt, tư duy năm uẩn đều rốt ráo Không, không có ngã, hữu tình, dòng sanh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự trưởng thành, chủ thể luân hồi; phàm phu điên đảo hư vọng chấp trước, phàm phu, chúng sanh sai lầm chấp ngã. Năm uẩn không phải là ngã, trong uẩn không có ngã. Ngã không phải là năm uẩn, trong ngã không có uẩn. Phàm phu ngu muội không như thật biết lăn lóc sinh tử như vòng lửa quay. Kẻ phàm phu ngu si vọng chấp là có, nhưng tất cả pháp tự tánh vốn Không, không sanh, không diệt. Duyên hợp lại gọi là sanh, duyên lìa thì bảo là diệt; thật không có sanh diệt, tánh chẳng phải Có, nên chẳng thể nói sanh; tánh chẳng phải Không nên chẳng thể nói là diệt. Các Bồ Tát này đối với tất cả cảnh, không pháp nào là không thông suốt. Tu hành Trí Ba la mật này, Nhị thừa, ngoại đạo chẳng thể ngăn cản. Dùng trí quán sát, từ khi mới phát tâm cho đến Niết bàn đều thấu suốt tất cả, có thể dùng một pháp mà biết tất cả cảnh, đạt tất cả cảnh chẳng lìa một pháp. Vì sao? Vì chơn như là một như(6). Thế nên khi Bồ Tát tu trí này chẳng thấy năng tu và pháp sở tu; tất cả không hai, không khác, vì lìa tự tánh”.

Đó gọi là tu học Bát Nhã có thể thông đạt Trí Ba la mật.

 

Tất cả sự học như trên gọi làtu học một pháp, có thể thông đạt tất cả pháp” “dùng một pháp mà biết tất cả cảnh, đạt tất cả cảnh chẳng lìa một pháp”./.

Thích nghĩa cho phần lược giải của phẩm “Thông Đạt” nói trên:

(1). Trích trong bộ Tổng Luận Đại Bát cùng tác giả với Hội thứ VI này(cả hai đều do cư sĩ Thiên Bửu biên soạn).

(2). Trích trong Đại Trí Độ Luận do Bồ Tát Long Thọ biên soạn. Nhóm của Ngài La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Ni trưởng TN Diệu Không dịch từ Hán sang Việt, có đăng trên các mạng Phật học.

(3). và (4). Trích từ Phật Quang Tự điển.

(5). Thể tính(S: jñāna-pāramitā): Sự không thay đổi thực chất của vạn hữu(Phật Quang Tự điển).

(6). Tất cả pháp đều một như, chẳng lúc nào chẳng như, như này vô tận không sai khác và người biết tất cả pháp đều đồng một như như thế được gọi là Như Lai.

 

---o0o---

 

 

 

 

03. PHẨM “HIỂN TƯỚNG”

 

Đầu quyển 567, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương phẩm 2: Hiển Tướng của Kinh TTVBN) 

 

Tóm lược:

 

Quyển 567

 

1. (Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng?)

 

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Rộng lớn cùng khắp khó đo lường, đó là tướng đất. Bát Nhã sâu xa cũng như thế. Vì sao? Vì rộng lớn, cùng khắp như thế nên khó suy lường.

Thiên vương nên biết! Tất cả cỏ cây đều nương đất mà sanh trưởng, Bát Nhã cũng như thế, có thể sanh trưởng tất cả pháp lành.

Thiên vương nên biết! Ví như đại địa tăng chẳng mừng, giảm cũng chẳng buồn, vì lìa ngã, ngã sở, không 2 tướng vậy. Bát Nhã cũng như thế, khen chẳng tăng, chê chẳng giảm, vì lìa ngã, ngã sở, không 2 tướng vậy.

Lại như đại địa, thế gian đi lại, đặt chân cất bước đều nương đó. Bát Nhã cũng như thế, hoặc cầu cõi thiện, hoặc hướng Niết bàn, đều nương vào đó.

Lại như đại địa sinh ra các thứ báu, Bát Nhã cũng như thế, sanh ra các thứ công đức thế gian.

Lại như đại địa, vi trần, kiến, ruồi, muỗi và các việc khổ chẳng làm giao động. Bát Nhã cũng như thế, lìa ngã, ngã sở, hoàn toàn không phân biệt, chẳng thể lay động.

Lại như đại địa, hoặc nghe tiếng Sư tử, rồng, voi v.v... hoàn toàn không kinh sợ. Bát Nhã cũng như thế, chẳng hề e sợ tất cả thiên ma và ngoại đạo v.v... Vì sao? Vì chẳng thấy có người, chẳng thấy có pháp, tự tánh là Không vậy.

 

Thiên vương nên biết! Ví như nước lớn từ trên cao đổ xuống, là chỗ nương về của loài thủy tộc. Bát Nhã cũng như thế, từ chơn pháp giới lưu chuyển vào thế gian, làm chỗ nương tựa của tất cả pháp lành.

Lại như nước nhiều thì thắm nhuần cây cỏ, sanh ra hoa trái. Bát Nhã  cũng như thế, thắm nhuần các Đẳng trì, sanh pháp trợ đạo, thành Nhất thiết trí, đắc quả Phật pháp, lợi ích an vui cho tất cả hữu tình.

Lại như nước nhiều bứt rể cỏ cây, làm cho nghiêng đổ, trôi theo dòng nước. Bát Nhã cũng như thế, có thể diệt tận gốc tất cả tập khí phiền não, tà kiến vĩnh viễn chẳng còn sanh.

Lại như nước, tánh vốn trong sạch, không nhơ, không đục. Bát Nhã cũng như thế, thể tánh không phiền não nên gọi là trong sạch, lìa các phiền não nên gọi là không nhơ; chỉ có một tướng, chẳng tướng khác nên gọi là không đục. Như người mùa Hạ nóng bức gặp được nước mát mẻ; hữu tình bị phiền não thiêu đốt, được nghe Bát Nhã như thế, chắc chắn được thanh lương, lìa các nhiệt não. Như người bị khát được uống nước, liền hết khát. Cầu pháp xuất thế được Bát Nhã là đạt được ước nguyện.

Lại như nước ao suối sâu thẳm khó vào, cũng như thế, cảnh giới Bát nhã Ba la mật của chư Phật sâu xa khó vào.

Lại như chỗ hầm hố, nước đều ngang nhau, Bát Nhã cũng như thế, đối với các bậc Độc giác, Thanh văn và phàm phu đều bình đẳng.

Lại như nước sạch, gột rửa nhơ nhớp, làm cho được sạch sẽ. Như vậy, Bồ Tát thông đạt Bát Nhã, lìa các phiền não liền được thanh tịnh. Vì sao? Vì Bát Nhã tự tánh thanh tịnh, lìa các lậu hoặc vậy.

 

Thiên vương nên biết! Ví như lửa lớn, tuy đốt tất cả cây cối, dược thảo nhưng chẳng nghĩ mình đốt tất cả các vật. Bát Nhã cũng như thế, dù có thể diệt hết tất cả tập khí phiền não nhưng không nghĩ mình diệt hết.

Lại như lửa nhiều có thể nấu chín tất cả vật loại. Bát Nhã cũng như thế, thành thục tất cả Phật pháp.

Lại như lửa mạnh có thể làm khô ráo các vật ẩm ướt. Bát Nhã cũng như thế, đều có thể làm khô cạn các dòng chảy mãnh liệt của lậu hoặc, làm cho vĩnh viễn không phát khởi.

Lại như đống lửa ở đỉnh núi tuyết, dù có thể chiếu soi xa một do tuần, cho đến có thể chiếu mười do tuần mà không nghĩ mình chiếu xa. Bát Nhã cũng như thế, tuy soi sáng Thanh văn, Độc giác nhưng chẳng nghĩ mình soi sáng cho họ.

Lại như cầm thú, ban đêm thấy lửa sáng sợ hãi tránh xa; phàm phu, Thanh văn, Độc giác phước mỏng, nếu nghe Bát Nhã sợ hãi xa lìa. Nghe được tên của Bát Nhã còn khó, huống là có thể tu học.

Như đêm đi xa, lạc mất đường chính, nếu thấy lửa sáng, lòng rất vui mừng, biết có xóm làng nên mau tới đó, đến nơi an ổn, hoàn toàn không còn sợ hãi.

Chốn sinh tử mênh mông, người có phước đức, nếu nghe Bát Nhã lòng rất vui mừng, thọ trì, đọc tụng thì lìa hẳn phiền não, tâm được an vui.

Như lửa ở thế gian, sang hèn đều như nhau. Bát Nhã cũng như thế, Thánh giả và phàm phu đều bình đẳng như nhau.

Như Bà la môn và Sát đế lợi đều cúng dường lửa, chư Phật Bồ Tát đều cúng dường Bát Nhã sâu xa.

Lại như đốm lửa có thể thiêu đốt Tam thiên đại thiên thế giới. Bát nhã Ba la mật cũng như thế, nếu nghe một câu thì có thể đốt cháy vô lượng phiền não.

 

Thiên vương nên biết! Ví như gió có thể làm cho vạn vật tăng trưởng, Bát Nhã cũng như thế, có thể làm cho tất cả thiện pháp thế gian và xuất thế gian tăng trưởng.

Lại như gió dữ, nếu mạnh thì có thể phá diệt tất cả vật loại. Bát Nhã cũng như thế, nếu tu vững mạnh, có thể phá diệt tất cả sanh tử phiền não.

Lại như gió nhiều có thể làm cho khí nóng trở nên mát mẻ. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, có thể làm cho hữu tình bị phiền não thiêu đốt, chứng được Niết bàn thanh lương thường lạc.

Lại như gió to di chuyển chẳng dừng, Bát Nhã cũng như thế, đối với tất cả pháp đều không có chỗ trụ.

Thiên vương nên biết! Bát Nhã lìa bẩn không dính, tịch tịnh, có vô lượng, vô biên trí tuệ, bình đẳng, thông đạt thật tánh các pháp, như tánh hư không rộng lớn không có chỗ trụ, lìa tướng cảnh giới, vượt tầm tứ v.v... tâm và tâm sở không phân biệt, không sanh, không diệt, vì tánh xả ly vậy.

 

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, lợi lạc hữu tình, thế gian hiếm có, giống như mặt trời mặt trăng, tất cả chúng sanh đều thọ dụng.

 

Lại ví như mặt trăng có thể trừ nóng bức; Bát nhã Ba la mật cũng vậy, có thể trừ tất cả nhiệt độc phiền não.

Lại như trăng sáng, thế gian ưa nhìn, Bát Nhã cũng như thế, được tất cả Thánh Hiền muốn thấy.

Lại như trăng sáng mỗi ngày một tăng trưởng, các chúng Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, từ khi mới phát tâm cho đến chứng đắc sở cầu quả vị Vô thượng Bồ đề, dần dần tăng trưởng.

Lại như trăng hạ tuần, mỗi ngày một mờ dần, các chúng Bồ Tát hành Bát Nhã, phiền não, thùy miên dần dần giảm hết.

Lại như trăng tròn đầy, các Bà la môn, Sát đế lợi v.v... đều khen ngợi; nếu thiện nam, thiện nữ hành sâu Bát Nhã thì thế gian, trời, người, A tu la v.v... đều khen ngợi.

Lại như trăng vận hành khắp bốn châu, Bát Nhã cũng như thế, biến khắp tất cả dù sắc, dù tâm không nơi nào không cùng khắp.

Lại như trăng đẹp, thường tự trong sáng, Bát Nhã cũng như thế, tánh vốn thanh tịnh, thường tự trang nghiêm. Vì sao? Bản tánh ly nhiễm, không sanh, không diệt biến khắp tất cả pháp, vì tánh xả ly(1) vậy.

 

Ví như mặt trời, tuy phá tan các sự tối tăm nhưng chẳng nghĩ ta làm. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, tuy phá tất cả thùy miên từ vô thỉ nhưng chẳng nghĩ ta phá.

Lại như sức nóng của mặt trời, tuy làm cho hoa sen nở nhưng chẳng nghĩ ta làm cho hoa nở. Bát Nhã cũng như thế, dù khai tâm Bồ Tát nhưng chẳng nghĩ ta khai tâm họ.

Lại như mặt trời đẹp, tuy chiếu khắp 10 phương mà chẳng nghĩ ta chiếu. Bát Nhã cũng như thế, dù chiếu khắp vô biên nhưng không có tướng chiếu.

Như thấy tướng sáng đỏ rực, hiện ở phương Đông thì chẳng lâu vầng mặt trời sẽ xuất hiện. Nếu nghe Bát Nhã sâu xa thì nên biết là người đó cách Phật chẳng xa.

Như các tín nữ ở châu Thiệm bộ, thấy mặt trời mọc rất hoan hỷ. Nếu khi thế gian có danh tự Bát nhã Ba la mật xuất hiện, tất cả Thánh Hiền đều rất hoan hỷ.

Lại như mặt trời xuất hiện, ánh sáng của trăng sao biến mất. Nếu các Bồ Tát hành Bát Nhã thì công đức của Nhị thừa ngoại đạo đều tiêu tan.

Lại như mặt trời mọc mới thấy chỗ cao thấp của hầm hố, nếu các Bồ Tát hành Bát Nhã, thế gian mới biết đạo chánh tà. Vì sao? Vì Bát Nhã tự tướng bình đẳng, không sanh không diệt, vì tánh xả ly vậy.

 

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã phần nhiều tu hạnh Không, không chấp trước, tu tập đạo sáng suốt, diệt trừ ám chướng tối tăm, xa lìa bạn xấu, gần gũi chư Phật, tâm tâm nối nhau, niệm Phật không dứt, thông suốt bình đẳng, thuận theo pháp giới; mặc dù thần thông du hý khắp cõi nước trong 10 phương mà thân an trụ ở bản xứ đều chẳng lay động, quán các Phật pháp giống như hiện thấy, tuy ở thế gian mà chẳng nhiễm pháp thế gian, như chỗ bùn lầy sinh ra hoa sen.

Như thế, Bồ Tát tuy ở sanh tử, nhờ năng lực phương tiện thiện xảo của Bát Nhã nên chẳng nhiễm đắm. Vì sao? Vì Bát Nhã không sanh, không diệt, tự tướng bình đẳng, chẳng thấy, chẳng chấp trước, vì tánh xả ly vậy.   

 

Lại như hoa sen giọt nước chẳng đọng; cũng thế Bồ Tát hành sâu Bát Nhã chẳng còn một mảy ác niệm.

Lại như hoa sen, sanh chỗ nào hương khí đều thơm tho. Cũng như thế, Bồ Tát hành Bát Nhã hoặc tại nhơn gian hoặc ở trên trời, xóm làng, thành ấp… đều đầy đủ hương giới.

Lại như hoa sen bẩm tánh trong sạch, Bà la môn v.v... đều quý mến. Cũng như thế, Bồ Tát hành Bát Nhã trời, rồng, Dược xoa, Kiền đạt phược v.v... Bồ Tát, chư Phật đều kính mến.

Lại như hoa sen khi sắp nở thường làm vui lòng mọi người; cũng như thế, Bồ Tát hành sâu Bát Nhã mỉm cười trước khi nói, mọi người hoan hỷ.

Lại như hoa sen, trong giấc mộng được thấy cũng là tướng lành. Chư thiên v.v... cho đến trong giấc mộng nghe thấy Bồ Tát hành sâu Bát Nhã cũng là điềm tốt lành, huống là thật thấy, thật nghe.

Lại như hoa sen, khi mới bắt đầu sanh ra, nhơn phi nhơn v.v... đều yêu mến giữ gìn. Cũng như thế, Bồ Tát mới học Bát nhã Ba la mật, chư Phật, Bồ Tát, Đế Thích, Phạm Thiên v.v... đều hộ vệ.

 

2. (Ba pháp thanh tịnh của Như Lai: Thân, ngữ, ý đều thanh tịnh)

 

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, phát khởi tâm như thế này: Ta phải đúng như lý, thông đạt tất cả Ba la mật, giáo hóa hữu tình, viên mãn Phật pháp, ngồi tòa Kim cang dưới cội Bồ đề, chứng đắc Vô thượng Bồ đề, chuyển vận bánh xe diệu pháp đủ mười hai hành tướng vi diệu. Sa môn, Bà la môn v.v... Thiên ma, Đế Thích, Phạm Thiên ở thế gian chẳng thể chuyển được. Ta hóa độ tất cả hữu tình ở vô lượng, vô số, vô biên thế giới trong 10 phương, bình đẳng cứu vớt ra khỏi biển sanh tử, đưa vào Bát nhã Ba la mật, làm chỗ quay về nương tựa cho kẻ không có nơi quay về nương tựa, làm người cứu hộ cho kẻ không có người cứu hộ; người muốn thấy Phật, làm cho được thấy Phật, rống tiếng Sư tử, thần thông du hý, khen ngợi công đức của Phật, làm cho mọi người khát ngưỡng, tâm hoàn toàn thanh tịnh, chẳng lay động, ý không dua nịnh, xa lìa tà niệm.

Đó gọi là chẳng nghĩ pháp Nhị thừa, dứt các thùy miên, không còn phiền não. Thân không làm việc dối trá, xa lìa tà vạy. Miệng không nói dối. Thọ ơn thường nhớ nghĩ, ơn nhẹ đền nặng. Tâm chẳng ôm ấp giận hờn. Miệng thường nói lời dịu ngọt. Tu tập tâm thanh tịnh như thế thì chẳng thấy năng hành và pháp sở hành không hai, không khác, vì lìa tự tánh.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tin hiểu ba pháp thanh tịnh của Như Lai, nghĩa là các Bồ Tát tư duy:

- Trong Khế Kinh dạy, thân thanh tịnh của Như Lai gọi là pháp thân. Thân hoàn toàn vắng lặng, thân không gì bằng, thân vô lượng, thân bất cộng, thân kim cang. Đối với những thân này, chắc chắn tâm không nghi ngờ. Đó gọi là tin hiểu thân Như Lai thanh tịnh.

- Lại nữa, suy nghĩ trong Khế Kinh dạy: ngữ thanh tịnh của Như Lai như thọ ký cho phàm phu thành Phật, cũng thọ ký cho Bồ Tát thành Phật, tin lời như thế, lý lẽ chẳng trái nhau. Vì sao? Vì Như Lai lìa hẳn tất cả lỗi lầm, dứt các thùy miên, không còn phiền não, vắng lặng thanh tịnh. Nếu Thiên ma, Phạm Thiên và các Sa môn, Bà la môn v.v... có thể tìm được lỗi nơi ngữ nghiệp của Như Lai thì không có lẽ đó. Đó gọi là tin hiểu lời nói thanh tịnh của Như Lai.

- Lại nữa, suy nghĩ trong Khế Kinh dạy: Ý của Như Lai thanh tịnh. Tâm suy nghĩ của chư Phật Thế Tôn, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, trời, người và hữu tình khác không thể biết. Vì sao? Vì tâm Như Lai sâu xa, khó vào, không phải cảnh của giác quán, lìa cảnh suy lường, không ngằn mé, giống như hư không. Tin biết như thế, tâm chẳng nghi ngờ, đó gọi là tin hiểu ý của Như Lai thanh tịnh.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã suy nghĩ: Như Phật đã dạy, các đại Bồ Tát  vì các hữu tình gánh vác gánh nặng kiên cố không lui bại mà chẳng sợ, chẳng mệt, thứ lớp tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện thiện xảo, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật, thành tựu pháp Phật không chướng, không ngại. Pháp bất cộng vô biên không gì bằng, lời nói quyết định, tánh nó dõng mãnh, thành tựu sự nghiệp to lớn của Như Lai. Các đại Bồ Tát này đối với sự nghiệp kia không nghi không ngờ, hết lòng tin nhận.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, nghĩ: Như Phật đã dạy, các đại Bồ Tát hành Bát Nhã cuối cùng an tọa tòa Bồ đề vi diệu, có thể đắc trí thông thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, tùy niệm, lậu tận, vô ngại, thanh tịnh; ngay trong một niệm dùng trí bình đẳng thông suốt ba đời, quán sát đúng như thật tất cả thế gian: Hữu tình như thế đầy hạnh ác về thân, hạnh ác về ngữ, hạnh ác về ý, hủy báng Thánh hiền; do tà kiến, tạo tà nghiệp, thân hoại mạng chung sẽ đọa nẻo ác. Đầy đủ diệu hạnh của thân, diệu hạnh của lời nói, diệu hạnh của ý, khen ngợi Thánh hiền; do chánh kiến, tạo chánh nghiệp, thân hoại mạng chung sẽ sanh nẻo lành.

Quán sát đúng như thật cõi hữu tình rồi nghĩ: Khi xưa ta phát nguyện hành Bồ Tát đạo, tự giác, giác tha, nguyện này phải viên mãn. Các Bồ Tát này ở trong việc đó không nghi, không ngờ, đúng như thật tin nhận.

Thiên vương nên biết! Chỗ các đại Bồ Tát  thành Phật gọi là giác xứ, vì có thể tự giác nên gọi là Chánh giác; có thể giác ngộ cho hữu tình nên gọi là Chánh biến giác.(2)

Thiên vương nên biết! Các Bồ Tát này hành Bát Nhã tin biết Như Lai xuất hiện ở đời làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình.

 

3. (Chư Phật, chư Bồ Tát thuyết pháp như thế nào?)

 

 Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã nghe thuyết Nhất thừa hết lòng tin nhận. Vì sao? Vì những điều chư Phật nói ra chơn thật chẳng hư vọng. Các thừa khác đều từ Phật thừa mà ra. Như châu Thiệm bộ tuy có các thành ấp, xóm làng… nhưng đều thuộc về châu này. Cũng như thế, các thừa khác tuy có các danh tướng sai khác cũng thuộc về Phật thừa.

Các Bồ Tát này lại nghĩ: Chư Phật Thế Tôn phương tiện thiện xảo nên các pháp môn thuyết ra đều như thật, chẳng hư vọng. Vì sao? Vì chư Phật thuyết pháp tùy theo căn tánh của chúng sanh. Tuy nói ba thừa mà thật chỉ có một thừa.

Các Bồ Tát này lại nghĩ: Chư Phật Thế Tôn thuyết pháp âm thanh sâu xa chơn thật, chẳng dối. Vì sao? Vì trời Đế Thích, Phạm Thiên v.v... có ít công đức lại còn có thể phát ra âm thanh sâu xa, huống là Như Lai vô lượng ức kiếp chứa nhóm công đức mà âm thanh chẳng sâu xa?

Các Bồ Tát này lại nghĩ: Như Lai thuyết pháp chẳng trái với căn cơ của chúng sanh, bậc thượng, trung, hạ đều được thành tựu. Mỗi chúng sanh đều cho là Phật nói cho riêng mình, nhưng Phật xưa nay không thuyết, không dạy. Các Bồ Tát đối với việc ấy không nghi ngờ, hết lòng tin hiểu.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã đạt được tâm vi tế, nghĩ: Thế gian bốc cháy, là đống lửa lớn; đó là lửa tham dục, khói sân hận, bồ hóng ngu si. Làm sao khiến tất cả chúng sanh đều được ra khỏi. Nếu có thể thông suốt các pháp đều bình đẳng, không có tâm nhiễm đắm thì gọi là ra khỏi. Biết đúng như thật, như huyễn, như mộng v.v... khéo soi nhân duyên, mà không phân biệt.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật, nghĩ: Các pháp không có nguồn gốc mà có nghiệp quả. Chư Phật, Bồ Tát dạy điều gì, ta nên hiểu ý; hiểu ý rồi suy lường nghĩa; suy lường nghĩa rồi liền thấy chơn thật; thấy chơn thật rồi cứu độ hữu tình.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã, phương tiện thiện xảo thuyết pháp cho chúng sanh, nghĩa là thuyết các pháp không có ngã, hữu tình, dòng sinh mạng, khả năng sanh khởi, sự dưỡng dục, sự sanh trưởng, chủ thể luân hồi, ý sanh, nho đồng, người làm, người thọ, người biết, người thấy. Các pháp như thế là Không, vô sở hữu, chẳng tự tại, vì hư vọng phân biệt, nhân duyên hòa hiệp nên không sanh mà giống như sanh.

Thiên vương nên biết! Nếu nói các pháp không có ngã, hữu tình… cho đến cái thấy, là đúng như lý mà nói. Nếu nói các pháp không, vô sở hữu, cho đến giống như sanh, là đúng như lý mà nói.

Thiên vương nên biết! Vì là người nói pháp là tùy thuận pháp tướng, đó gọi là đúng như lý. Nếu những điều nói ra chẳng trái với pháp tướng, cùng với pháp tương ưng có thể nhập bình đẳng, hiển bày nghĩa lý, gọi là khéo nói.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, đắc biện tài vô ngại, nghĩa là hoặc biện tài không vướng mắc, biện tài không cùng tận, biện tài tương tục, biện tài không đứt đoạn, biện tài không khiếp nhược, biện tài không kinh sợ, biện tài riêng biệt, biện tài trời người kính trọng, biện tài không ngằn mé.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã đắc biện tài thanh tịnh, nghĩa là biện tài chẳng quát tháo, biện tài chẳng rối loạn, biện tài chẳng sợ hãi, biện tài chẳng kiêu mạn, biện tài nghĩa đầy đủ, biện tài vị đầy đủ, biện tài trôi chảy, biện tài đúng thời phần.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, lìa sự sợ hãi uy đức của đại chúng nên biện tài chẳng quát tháo, trí tuệ vững vàng sáng rõ, chẳng sợ nên biện tài chẳng rối loạn. Bồ Tát ở giữa chúng như Sư tử chúa, chẳng sợ hãi, nên biện tài chẳng sợ hãi, lìa phiền não nên biện tài không kiêu mạn, chẳng nói vô nghĩa, nói khế hợp với pháp tướng nên biện tài nghĩa đầy đủ. Hiểu rõ thơ, luận, biết rõ văn tự nên biện tài phong phú. Nhiều kiếp chứa nhóm, tập luyện ngôn ngữ nên biện tài chẳng vung vít. Thuyết pháp như thế hoàn toàn thuận ba thời, nghĩa là nóng, mưa, lạnh, thuyết không rối loạn; cũng thuận ba phần, nghĩa là đầu, giữa, cuối, nói chẳng xen tạp. Do đó nên nói biện tài đúng thời phần.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, các biện luận đã đắc được làm cho mọi người hoan hỷ, nghĩa là tùy theo sự giáo hóa, phần nhiều là dùng ái ngữ, trước khi nói mỉm cười tươi vui. Lời nói có nghĩa, luôn đúng với sự thật. Nói ra những lời gì chẳng khinh dễ người. Lời nói quả quyết, nói các việc vui. Dùng lời nhỏ nhẹ, dịu dàng làm cho mọi người vui mừng. Dung nghi khoan thai, sắc thái ôn hòa, khiến người gần gũi; theo nghĩa mà nói, người nghe tỏ ngộ; vì lợi ích nên đúng pháp tướng mà nói, bình đẳng mà nói, tâm không thiên lệch, phe nhóm, xa lìa lời nói hư vọng, lời nói quyết định, tùy theo căn tánh mọi người nói các việc vui. Do nhân duyên này làm cho mọi người vui mừng.

 

4. (Kẻ không có pháp khí chẳng thể nghe Bát Nhã):

 

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, thành tựu oai đức lớn. Vì sao? Vì kẻ không pháp khí thì chẳng được nghe.

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này tâm bình đẳng, tại sao chẳng vì kẻ không pháp khí(3) mà nói?

Phật bảo Thiên vương:

- Thiên vương! Bát Nhã tánh bình đẳng, chẳng thấy có pháp khí, chẳng thấy không pháp khí, chẳng thấy năng thuyết, chẳng thấy sở thuyết. Hữu tình hư vọng thấy có pháp khí không pháp khí, thấy có thuyết không thuyết. Vì sao? Vì Bát Nhã không sanh, không diệt, không có tướng phân biệt. Giống như hư không đầy khắp tất cả, hữu tình cũng như thế, không sanh, không diệt. Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai cũng như thế. Pháp không danh tự, giả lập danh tự, gọi là hữu tình, là Bát Nhã, có năng thuyết, có sở thuyết, có người nghe và có pháp được nghe. Trong thắng nghĩa đế, đều đồng một tướng, gọi là vô tướng, hoàn toàn không sai khác. Các Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật uy đức trọng vọng, nên dù thường muốn nói mà kẻ không pháp khí chẳng nghe. (Q.567, ĐBN)

Thiên vương nên biết! Bát Nhã chẳng vì hữu tình không pháp khí mà nói, chẳng vì kẻ ngoại đạo ác kiến mà nói, chẳng vì kẻ lười biếng kiêu mạn chẳng tin mà nói; chẳng vì người cầu pháp mua bán đổi chác mà nói, chẳng vì kẻ tham ưa danh lợi, chẳng vì kẻ ganh ghét tham lam, chẳng vì kẻ mù, điếc, câm mà nói. Vì sao? Vì các Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, tâm không keo kiệt tham tiếc, chẳng giấu thâm pháp, từ bi thương xót loài hữu tình, cũng chẳng rời bỏ các loài hữu tình. Nhưng loài hữu tình đời trước trồng căn lành, được thấy Như Lai và nghe chánh pháp. Như Lai đối với pháp vốn không có tâm giảng thuyết, cũng chẳng tác ý vì người này, vì người kia. Những kẻ nghiệp chướng sâu nặng tuy gần Như Lai mà chẳng thấy chẳng nghe. Bồ Tát cũng thế.

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những hữu tình nào có thể nghe chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp?

Phật bảo Thiên vương:

- Nếu đầy đủ chánh tín, căn tánh thuần thục thì có thể làm pháp khí, đối với Phật quá khứ từng trồng căn lành, tâm không dua nịnh quanh co, uy nghi tề chỉnh, chẳng cầu danh lợi, gần gũi bạn lành, căn tánh lanh lợi thông minh, nói văn biết nghĩa, vì pháp tinh tấn, chẳng trái Thánh ý, thì những hữu tình ấy có thể nghe chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát thường làm pháp sư khéo thuyết pháp.

Thế nào là khéo thuyết? Nghĩa là vì lợi ích các hữu tình nên mặc dù nói Phật pháp mà Phật pháp rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói tất cả Ba la mật mà nói Ba la mật rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói Bồ đề mà nói Bồ đề rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói dứt phiền não mà nói phiền não rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói Niết bàn mà nói Niết bàn rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói Thanh văn tứ hướng, tứ quả mà nói Thanh văn tứ hướng, tứ quả rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói Độc giác hoặc hướng hoặc quả, mà hoặc hướng hoặc quả rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói dứt ngã kiến mà nói ngã kiến rốt ráo bất khả đắc; mặc dù nói có nghiệp quả mà nói nghiệp quả rốt ráo bất khả đắc.

Vì sao? Vì danh tự đạt được đều chẳng phải thật pháp, pháp chẳng phải danh tự, chẳng phải cảnh giới của ngôn ngữ, pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải so lường của tâm. Danh tự chẳng phải pháp, pháp chẳng phải danh tự, chỉ vì thế tục hư vọng giả danh mà nói ra. Không pháp danh tự nói là danh tự, danh tự là không, không có gì cả. Không có gì cả ấy chẳng phải Đệ nhất nghĩa, chẳng phải Đệ nhất nghĩa ấy tức Pháp phàm phu hư vọng. (Q.567, ĐBN)

Thiên vương nên biết! Đó gọi là Bồ Tát khéo thuyết pháp. Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã dùng năng lực phương tiện đắc vô ngại biện. Tùy theo căn tánh của mọi người nên nói Bát Nhã như thế, làm cho các hữu tình đúng như thật ngộ nhập.

 

Thích nghĩa:

 (1). Xả ly: Xả có nghĩa là bỏ, là phủi không dính mắc, ly là lìa. Thí dụ như xa trần lìa cấu.

(2). Kinh TTVBN, Phật bảo Thắng Thiên Vương: “Đại vương, chỗ Bồ Tát thành Phật gọi là Giác Xứ, tự giác gọi là Chính Giác, thành tựu chúng sanh gọi là Chính Biến Giác”. Câu dịch này của Kinh TTVBN gọn và hay, tuy có nhiều từ Hán Việt.

(3). Pháp khí: (法器; C: făqì; J: hōki): 1- Người sẵn sàng đúng lúc để tin nhận giáo lí Phật pháp; 2- Trong Thiền tông, người có năng lực để được giao phó Chính pháp nhãn tạng, niết-bàn diệu tâm (正法眼藏涅槃妙心); 3- Những khí cụ được dùng trong lễ nghi tôn giáo.

 

Lược giải:

 

1. Bát Nhã lấy đất, nước, gió, lửa, hư không làm tự tánh.

 

Hầu hết các pháp hội của Kinh Đại Bát Nhã đều có đặt câu hỏi: “Bát nhã Ba la mật lấy gì làm tướng?” Như phẩm “Chơn Như” Q.560, Hội thứ V, ĐBN. Phật bảo các Thiên chúng:

“Ta đã tuyên nói các pháp sâu thẳm lấy không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô sanh, vô diệt, không chỗ nương tựa, vô tánh làm tướng”.

Cách diễn tả đó hết sức thậm thâm. Ai học Bát Nhã đều phải lấy lời khuyên đó làm tôn chỉ tu hành. Nhưng trong phẩm “Hiển Tướng” của Pháp hội này, cũng cùng câu hỏi như trên, Thế Tôn trả lời cụ thể và giản dị: Bát Nhã lấy  “đất, nước, gió, lửa, hư không” làm tướng. Vì sao? Vì tất cả đặc tánh của đất, nước, gió, lửa, hư không cũng chính là đặc tánh của Bát nhã Ba la mật.

- Như đất vô biên, Bát Nhã cũng vô biên. Đất sanh cây cỏ nuôi sống muôn loài, Bát Nhã sanh muôn pháp, cứu độ vô vàn chúng sanh. Đất trơ lì bất động, trâu bò giẵm đạp, đái ĩa không buồn không giận, Thánh nhân đi qua cũng không mừng không vui. Bát Nhã cũng vậy, lìa ngã, ngã sở... khen cũng không mừng, chê cũng không buồn, không giận v.v...

- Như nước tánh vốn trong sạch, không nhơ, bình đẳng một mực. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, thể tánh không phiền não nên gọi là trong sạch, lìa các phiền não nên gọi là không nhơ, nước biển bất cứ chỗ nào cũng cùng một mực nên gọi là bình đẳng, v.v... , chúng sanh, Bồ Tát, Phật... cũng vậy, không phân biệt.

- Như gió có thể làm cho vạn vật tăng trưởng, Bát Nhã cũng như thế, có thể làm cho tất cả thiện pháp thế gian và xuất thế gian tăng trưởng.

Lại như gió lớn thì có thể phá diệt tất cả vật loại. Bát Nhã cũng như thế, nếu tu vững mạnh, có thể phá diệt tất cả sanh tử phiền não.

Lại như gió nhiều liên tục có thể làm cho khí nóng trở nên mát mẻ. Bát Nhã sâu xa cũng như thế, có thể diệt sạch phiền não thiêu đốt hữu tình, chứng được Niết bàn thanh lương thường lạc.

- Như lửa có thể làm bó đuốc soi sáng cho người đi trong đêm tối. Lửa có thể sưởi ấm người đói rét, Bát Nhã có thể đem an lạc hạnh phúc cho người thọ trì nó. Bát Nhã có thể xem là đuốc tuệ, hướng dẫn người lạc lối được vào chánh đạo, được Niết bàn an vui v.v...

Vì vậy, Phật bảo: “Thiên vương nên biết! Bát Nhã lìa bẩn không dính, tịch tịnh, có vô lượng, vô biên trí tuệ, bình đẳng, thông đạt thật tánh các pháp, như tánh hư không rộng lớn không có chỗ trụ, lìa tướng cảnh giới, vượt tầm tứ v.v... tâm và tâm sở không phân biệt, không sanh, không diệt, vì tánh xả ly vậy”.

Đó là các tướng sâu xa của Bát nhã Ba la mật, thông hóa trên các vật thể trần gian.

 

2. Ba phép thanh tịnh của Như Lai:

 

1- Thân Như Lai hoàn toàn vắng lặng không gì bằng. Nên Khế Kinh dạy “thân thanh tịnh của Như Lai gọi là pháp thân”.

2- Như Lai lìa hẳn tất cả lỗi lầm, dứt các thùy miên, không còn phiền não, vắng lặng thanh tịnh, vì thế nên không ai có thể tìm lỗi nơi ngữ nghiệp của Như Lai. Khế Kinh dạy “ngữ của Như Lai thanh tịnh” nên Thế Tôn có thể thọ ký cho các Bồ Tát.

3- Tâm Như Lai sâu xa, khó vào, không phải cảnh giới của cảm quan hay ý thức thế tục, lìa cảnh suy lường, không có ngằn mé, giống như hư không. Nên Khế Kinh dạy “ý của Như Lai thanh tịnh”.

Nếu theo ba thân của Như Lai học và hành chắc chắn được diệu hạnh của thân, ngữ, ý, lúc thân hoại mạng chung sẽ sanh nẻo lành, làm lợi ích chúng sanh vô cùng tận.

 

3. Chư Phật Thế Tôn, Bồ Tát thuyết pháp như thế nào?

                                      

Các đại Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa, phương tiện thiện xảo thuyết pháp cho chúng sanh, tất cả pháp không có ngã, hữu tình, dòng sinh mạng... cho đến người biết, người thấy. Các pháp như thế là Không, vô sở hữu, chẳng tự tại, là hư vọng phân biệt. Các pháp chỉ do nhân duyên hòa hiệp nên không sanh mà giống như sanh. Thuyết pháp như vậy là tùy thuận pháp tướng, cùng với pháp tương ưng có thể nhập bình đẳng, hiển bày nghĩa lý. Đó là thuyết pháp đúng lý, nên gọi là khéo nói.

Nhờ vậy, nên khi hành sâu Bát Nhã các Bồ Tát mới đắc các biện tài vô ngại, ở giữa chúng rống tiếng rống của Sư tử chúa, chẳng sợ hãi, nên được biện tài chẳng sợ; lìa phiền não nên được biện tài không kiêu mạn; chẳng nói vô nghĩa, nói khế hợp với pháp tướng nên được biện tài nghĩa lý đầy đủ. Hiểu rõ thơ, luận, biết rõ văn tự nên được biện tài ý vị. Nhiều kiếp chứa nhóm, tập luyện ngôn ngữ nên biện tài chẳng vung vít. Thuyết pháp như thế hoàn toàn thuận ba thời, nghĩa là nóng, lạnh, mưa nắng thuyết không rối loạn; cũng thuận ba phần nghĩa là đầu, giữa, cuối, nói chẳng xen tạp. Do đó, nên nói được biện tài đúng thời phần.

Thế nào gọi là khéo thuyết pháp? Nghĩa là vì lợi ích các hữu tình nên mặc dù thuyết tất cả pháp mà nói tất cả pháp rốt ráo bất khả đắc, mặc dù thuyết dứt phiền não mà nói phiền não rốt ráo bất khả đắc, mặc dù thuyết Niết bàn mà nói Niết bàn rốt ráo bất khả đắc, mặc dù thuyết dứt ngã kiến mà nói ngã kiến rốt ráo bất khả đắc, mặc dù thuyết có nghiệp quả mà nói nghiệp quả rốt ráo bất khả đắc.

Chỉ theo thế tục nói nọ nói kia, nào là phiền não lậu hoặc, nào là Niết bàn hay nói phước nghiệp… Trong thắng nghĩa không có phiền não, không Niết bàn, không tội phước... Cảnh giới Bồ Tát, cảnh giới Phật đều sạch trong sạch ngoài, vắng lặng tịch diệt. Phật dùng ngôn ngữ phương tiện giả nói, trong thắng nghĩa đế tất cả pháp đều bình đẳng như như.

Phật bảo Thắng Thiên Vương: “Vì sao? Vì danh tự đạt được đều chẳng phải thật pháp, pháp chẳng phải danh tự, chẳng phải cảnh giới của ngôn ngữ, pháp chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải so lường của tâm. Danh tự chẳng phải pháp, pháp chẳng phải danh tự, chỉ vì thế tục hư vọng giả danh mà nói ra. Không pháp danh tự nói là danh tự, danh tự là không, không có (ý nghĩa) gì cả. Không có (ý nghĩa) gì cả ấy chẳng phải Đệ nhất nghĩa, chẳng phải Đệ nhất nghĩa ấy tức Pháp phàm phu hư vọng.

Thiên vương nên biết! Đó gọi là Bồ Tát khéo thuyết pháp. Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã dùng năng lực phương tiện đắc vô ngại biện. Tùy theo căn tánh của mọi người nên nói Bát Nhã sâu xa như thế, làm cho các hữu tình đúng như thật ngộ nhập”.

Phật nói như vậy để đừng nương cậy vào ngôn ngữ văn tự. Đừng theo văn tự ngôn thuyết, phải tự mình lặn sâu vào tâm khảm của chính mình để tìm lấy sự chứng ngộ. Đừng để dòng soái của ngôn ngữ văn tự lôi cuốn nhận chìm!

 

4. Kẻ không có pháp khí chẳng thể nghe được Bát Nhã:

 

Để kết luận cho phẩm này, Phật bảo:

- “Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, thành tựu oai đức lớn. Vì sao? Vì kẻ không pháp khí thì chẳng được nghe.

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát này tâm bình đẳng, tại sao chẳng vì kẻ không pháp khí mà nói?

Phật bảo Thiên vương:

- Thiên vương! Bát Nhã tánh bình đẳng, chẳng thấy có pháp khí, chẳng thấy không pháp khí, chẳng thấy năng thuyết, chẳng thấy sở thuyết. Hữu tình hư vọng thấy có pháp khí không pháp khí, thấy có thuyết không thuyết. Vì sao? Vì Bát Nhã không sanh, không diệt, không có tướng phân biệt. Giống như hư không đầy khắp tất cả, hữu tình cũng như thế, không sanh, không diệt. Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai cũng như thế. Pháp không danh tự, giả lập danh tự, gọi là hữu tình, là Bát Nhã, có năng thuyết, có sở thuyết, có người nghe và có pháp được nghe. Trong thắng nghĩa đế, đều đồng một tướng, gọi là vô tướng, hoàn toàn không sai khác. Các Bồ Tát này hành sâu Bát nhã Ba la mật uy đức trọng vọng, nên dù thường muốn nói mà kẻ không pháp khí chẳng nghe. (Q.567, ĐBN)

Thiên vương nên biết! Bát Nhã chẳng vì hữu tình không pháp khí mà nói, chẳng vì kẻ ngoại đạo ác kiến mà nói, chẳng vì kẻ lười biếng kiêu mạn chẳng tin mà nói; chẳng vì người cầu pháp mua bán đổi chác mà nói, chẳng vì kẻ tham ưa danh lợi, chẳng vì kẻ ganh ghét tham lam, chẳng vì kẻ mù, điếc, câm mà nói. Vì sao? Vì các Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, tâm không keo kiệt tham tiếc, chẳng giấu thâm pháp, từ bi thương xót loài hữu tình, cũng chẳng rời bỏ các loài hữu tình. Nhưng loài hữu tình đời trước trồng căn lành, được thấy Như Lai và nghe chánh pháp. Như Lai đối với pháp vốn không có tâm giảng thuyết, cũng chẳng tác ý vì người này, vì người kia. Những kẻ nghiệp chướng sâu nặng tuy gần Như Lai mà chẳng thấy chẳng nghe. Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những hữu tình nào có thể nghe chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp?

Phật bảo Thiên vương:

- Nếu đầy đủ chánh tín, căn tánh thuần thục thì có thể làm pháp khí, đối với Phật quá khứ từng trồng căn lành, tâm không dua nịnh quanh co, uy nghi tề chỉnh, chẳng cầu danh lợi, gần gũi bạn lành, căn tánh lanh lợi thông minh, nói văn biết nghĩa, vì pháp tinh tấn, chẳng trái Thánh ý, thì những hữu tình ấy có thể nghe chư Phật, Bồ Tát thuyết pháp”.

Vậy, học Phật không phải ai cũng có khí phần được nghe, chỉ có người có pháp khí, mới được nghe, nghĩa là đời trước đã từng thờ phụng cúng dường chư Phật chư Bồ Tát trong nhiều đời kiếp mới có phúc duyên. Kẻ ác tuệ nghiệp chướng sâu dày không có phần.

Phẩm thứ 39, “Công Đức Khó Nghe”, phần sau Q.297 cho đến hết Q.302, Hội thứ I, ĐBN, tương đương với phẩm “Kính Nhĩ Văn Trì”, quyển thứ 15, Kinh “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa” do nhóm của ngài La Thập dịch cùng một nội dung với Hội này đều cho rằng “ai cũng có cái nghe, nhưng nghe được Bát nhã Ba la mật và phụng trì phải là người có đầy đủ thiện căn công đức đã tích lủy nhiều đời nhiều kiếp mới có phần”.

Sanh được làm người đã là khó, hiến chi được tụng đọc thọ trì Kinh này. Đó chính là khí phần của những ai đã từng tích tụ thiện căn công đức, hãy tự tin tưởng tu tập Phật pháp thôi./.

 

---o0o---

 

 

 

 

04. PHẨM “PHÁP GIỚI”(1)

 

Cuối Q.567 đến đầu Q.568, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương phẩm 3: “Pháp Giới” của Kinh TTVBN) 

 

Gợi ý:

Như trên giới thiệu Hội thứ VI cũng tương tợ với năm Hội đầu của Kinh Đại Bát Nhã. Tuy nhiên, Hội này tách “chơn như” thành 3 phẩm Pháp giới, Pháp tánh và Bình đẳng tánh và thuyết riêng rẽ nhau. Tuy nói “tách” mà chẳng có gì gọi là tách, vì bản tánh tất cả pháp đều như, chẳng lúc nào chẳng như. Nên, nói Hội này đặc biệt so với tất cả các Hội khác. Vì sao? Vì một khi hiểu hay chứng được chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh,... thì nhập pháp giới tức được xem như Giác ngộ. Nên bài pháp của phẩm này thật là thậm thâm vi diệu được xem như pháp bảo!

 

Tóm lược:


(Bồ Tát làm thế nào học Bát Nhã lại thông suốt được pháp giới)

 

Bấy giờ, Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, vạch áo chìa vai phải, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát làm thế nào tu học Bát Nhã lại thông suốt pháp giới?

Phật bảo trời Tối Thắng:

- Lành thay! Lành thay! Hãy lắng nghe! Thật khéo tác ý! Ta sẽ phân biệt giảng thuyết cho ngươi.

Trời Tối Thắng bạch:

- Cúi xin Thế Tôn giảng, chúng con mong muốn được nghe.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát học Bát Nhã có diệu tuệ nên gần gũi bạn lành, phát khởi siêng năng tinh tấn, lìa các chướng ngại phiền não, tâm được thanh tịnh, cung kính tôn trọng, muốn tu tập hạnh Không, xa lìa các kiến, tu đạo như thật, thông suốt pháp giới.

Thiên vương nên biết! Các Bồ Tát này có diệu tuệ nên gần gũi bạn lành, vui mừng kính thờ, tưởng như Phật. Vì gần gũi bạn lành nên xa lìa biếng nhác, diệt trừ tất cả pháp ác bất thiện, tăng trưởng căn lành. Đã diệt phiền não, xa lìa pháp chướng ngại, thân, ngữ, ý nghiệp đều được thanh tịnh; do thanh tịnh nên liền sanh kính trọng; vì tâm kính trọng, tu tập hạnh Không; vì tu tập hạnh Không nên xa lìa các kiến; vì xa lìa các kiến nên tu hành chánh đạo; tu hành chánh đạo nên có thể thấy pháp giới.

 

(Chơn như của các pháp)

 

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là pháp giới?

Phật bảo trời Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Pháp giới chính là tánh chẳng hư vọng.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh chẳng hư vọng?

- Này Thiên vương! Tức là tánh chẳng đổi khác.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh chẳng đổi khác?

- Này Thiên vương! Tức là chơn như của các pháp(2).

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chơn như của các pháp?

- Thiên vương nên biết! Như (hay chơn như) này sâu xa vi diệu chỉ có trí biết, chẳng phải do lời nói biết được. Vì sao? Vì các pháp như vượt văn tự, lìa ngữ ngôn; tất cả sự diễn đạt chẳng thể diễn đạt nổi; lìa hý luận, dứt phân biệt, không đây kia; lìa tướng vô tướng, xa lìa suy lường, vượt cảnh suy lường, không tưởng không tướng, vượt khỏi hai cảnh, xa lìa người ngu, lìa cõi phàm tục, vượt khỏi cảnh ma, xa lìa mê chướng, thức không thể biết, trụ không chỗ trụ, vắng lặng Thánh trí và cảnh giới của hậu đắc trí vô phân biệt, không ngã, ngã sở, cầu chẳng thể được, không thủ, không xả, không nhiễm, không đắm, thanh tịnh ly cấu, tối thắng đệ nhất, tánh chẳng biến đổi; hoặc Phật ra đời hay chẳng ra đời, tánh tướng vẫn thường trụ.

Thiên vương nên biết! Đó là pháp giới. Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tu chứng pháp giới, hành nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó hành, làm cho các hữu tình đều được thông suốt.

Này Thiên vương! Đấy gọi Thật tế Như như của Bát nhã Ba la mật, tướng không phân biệt, bất tư nghì giới, cũng gọi Chơn không, Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí, pháp giới không hai.

(Đoạn Kinh này tuy thuyết về “pháp như hay chơn như của tất cả pháp” lại đề cập đến Pháp giới, Chơn không, Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí... Rồi đến, khi thuyết Pháp giới lại nói đến “thật tế như như”. Nếu hiểu được phối hợp của các pháp này trong thập nhị chơn như thì có cơ hội nhập pháp giới).

 

(Làm sao học, hành và chứng pháp giới?)

 

Bấy giờ, trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao có thể chứng đắc pháp giới như thế?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Bát nhã Ba la mật xuất thế và hậu đắc trí vô phân biệt(3) có thể chứng, có thể đắc.

- Kính bạch Thế Tôn! Nghĩa chứng và đắc có gì khác?

- Thiên vương nên biết! Bát Nhã xuất thế có khả năng thấy đúng như thật nên gọi là chứng, hậu đắc trí thông suốt nên gọi là đắc.

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Như Phật đã dạy tuệ của văn (nghe), tư (tư duy, suy lường), tu (tập luyện, thực hành) chẳng thông suốt được thật tướng Bát nhã Ba la mật, mà lại nói chỉ có Bát nhã Ba la mật xuất thế và hậu đắc trí vô phân biệt có khả năng chứng đắc?

Phật dạy:

- Chẳng phải vậy! Vì sao? Vì thật tướng Bát Nhã sâu xa vi diệu, văn tuệ thô thiển, cạn cợt, chẳng thể thấy được. Vì là thắng nghĩa nên tư tuệ chẳng thể suy lường được. Vì là pháp xuất thế nên tu tuệ chẳng thể hành được. (Tức văn tư tu không thể đắc thật tướng Bát Nhã)

Thiên vương nên biết! Thật tướng Bát Nhã vi diệu, phàm phu, Nhị thừa chẳng thể thấy được. Vì sao? Vì hạng kia như mù bẩm sanh, chẳng thấy các sắc; như trẻ con mới sinh bảy ngày chẳng thấy mặt trời; thấy còn chẳng thể được, huống là có thể chứng.

Này Thiên vương! Ví như mùa hè nóng bức, có người đi về phương Tây, ở giữa đồng hoang, lại có một người từ phương Tây đi đến, hỏi người trước mặt:

“Tôi nay bị nóng khát, biết chỗ nào có nước trong và bóng mát làm ơn chỉ giúp”.

Người kia đáp:

“Từ đây đi về hướng Đông, sẽ có hai đường: Một là phía bên trái, hai là phía bên phải, nên theo đường bên phải, lần hồi đi tới có ao suối nước trong và bóng cây mát mẻ”.

Này Thiên vương! Ý ngươi thế nào? Người nóng khát kia chỉ nghe tên suối và cây mát như thế, liên tưởng như thế thì có thể trừ nóng khát, được mát mẻ ngay chăng?

- Bạch Thế Tôn! Chẳng được. Người kia phải đến nơi, vào ao tắm rửa, uống nước, nghỉ dưới gốc cây mới khỏi nóng khát, được mát mẻ.

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Đúng như vậy! Đúng như vậy! Văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ chẳng thể thông suốt thật tướng Bát nhã Ba la mật.

Thiên vương nên biết! Nói về đồng nội tức dụ cho sanh tử, người dụ cho hữu tình, nóng dụ cho các phiền não, khát dụ cho tham ái. Người phương Đông đến, dụ cho các Bồ Tát, đường bên trái dụ cho chẳng phải chánh đạo, đường bên phải dụ cho đạo Nhất thiết trí. Các chúng Bồ Tát hành Bát Nhã sâu xa biết rõ con đường thẳng đến sanh tử. Suối dụ cho Bát nhã Ba la mật, cây dụ cho đại bi. Các đại Bồ Tát hành hai pháp (Bát Nhã và Đại bi) nên xa lìa phàm phu và đạo Nhị thừa. Thiên vương nên biết! Bát Nhã sâu xa tuy không hình tướng mà khéo nói nên khiến các hữu tình có thể chứng, có thể đắc.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã có thể biết đúng như thật: Lực, Vô sở úy, Bất cộng pháp, Không. Cũng biết đúng như thật các giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, giải thoát tri kiến uẩn là Không. Cũng biết đúng như thật nội Không, ngoại Không, và nội ngoại Không, Không Không, đại Không, thắng nghĩa Không v.v... (ý muốn nói về 18 pháp Không) Mặc dù biết tất cả pháp đều Không, nhưng biết tướng Không cũng bất khả đắc (tức bất khả đắc không), chẳng thủ tướng Không, chẳng khởi thấy Không, chẳng chấp tướng Không, chẳng nương tựa Không. Như vậy, Bồ Tát vì chẳng thủ trước nên chẳng rơi vào Không.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã nên xa lìa các tướng, nghĩa là hoàn toàn chẳng thấy các tướng trong ngoài, lìa tướng hý luận, lìa tướng phân biệt, lìa tướng tầm cầu, lìa tướng tham đắm, lìa tướng cảnh giới, lìa tướng phan duyên, lìa tướng năng tri và sở tri.

Trời Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu các chúng đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, có thể quán các pháp vô tướng như thế thì làm thế nào để quán cảnh giới Phật Bạc già phạm (cảnh giới chư Phật)?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Cảnh giới chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì lìa cảnh giới vậy. Tất cả hữu tình suy lường Phật cảnh thì tâm phát sanh cuồng loạn, chẳng biết đây kia. Vì sao? Vì tánh đồng hư không, chẳng thể suy lường, cầu chẳng thể đắc, lìa cảnh suy tầm; các chúng Bồ Tát hành sâu Bát Nhã còn chẳng thấy cảnh phàm phu v.v... có thể suy lường được, huống là cảnh giới Phật; cũng chẳng nương tựa tất cả diệu nguyện. Mặc dù hành các pháp bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, nhưng đối với quả kia hoàn toàn không chấp đắm, đối với các công đức cho đến Niết bàn cũng chẳng nương tựa, chấp trước. Vì sao? Vì lìa ngã và ngã sở, không hai, không khác, vì lìa tự tánh vậy.

Khi Phật thuyết pháp môn Bát Nhã như thế, làm cho Tam thiên đại thiên thế giới này chấn động 6 cách, núi Diệu Cao Vương, núi Mục chơn lân đà, núi Đại Mục chơn lân đà, núi Kim Cang Luân Vi, núi Đại Kim Cang Luân Vi, núi Hương, núi Bảo, núi Hắc, núi Đại Hắc, tất cả đều chấn động, vô lượng trăm ngàn các chúng Bồ Tát đều cởi thượng y trải làm chỗ ngồi cho Phật, tòa đó cao rộng như núi Diệu Cao. Vô lượng trăm ngàn các Thiên Vương, Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế v.v... chắp tay cung kính rải cúng các thứ hoa đẹp, đó là hoa Diệu Âm, hoa đại Diệu Âm, hoa Cát Tường, hoa đại Cát Tường, hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, tía.

Khi ấy, núi Thứu Phong cao rộng 40 do tuần, hoa chất đầy khắp đến tận đầu gối Như Lai. Vô lượng Thiên tử ở giữa hư không trổi các nhạc trời và xướng lên thế này:

- Lại thấy Phật xuất thế. Lại nghe chuyển pháp luân. Lành thay! Tất cả loài hữu tình châu Thiệm bộ siêng tu công đức, trồng nhiều thiện căn nên được nghe Bát Nhã sâu xa như thế, huống là tương lai có người có thể tin. Nên biết, tất cả hữu tình như thế đều đi trong cảnh giới chư Phật Như Lai.

Lại có vô lượng trăm ngàn Long vương dùng thần lực bủa giăng mây lớn cùng khắp, rưới mưa hương rảy thấm núi Thứu Phong và cùng khắp tam thiên đại thiên thế giới. Những người nghe pháp chỉ biết thấm nhuận hương, chẳng thấy bị thấm ướt. Vô lượng Long nữ đều ở trước Phật chắp tay khen ngợi.

Lại có vô lượng thần Kiền đạt phược dùng âm nhạc để cúng dường Phật. Các chúng Dược xoa rải cúng các thứ hoa đẹp. A tu la v.v… cũng cung kính cúng dường.

Vô số Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở vô lượng, vô biên cõi Phật mười phương, phóng ánh sáng từ tướng lông giữa chặng mày, chiếu soi những chốn tối tăm ở Tam thiên đại thiên thế giới này. Hào quang đó chiếu sáng rực rỡ khắp núi Thứu Phong và các thế giới xong, liền quay trở về chỗ Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng và nhập vào đảnh Phật.

Vô lượng trăm ngàn chúng Bà la môn và Sát đế lợi, Trưởng giả, Cư sĩ đều đem các thứ hương xoa, hương bột, cờ, phướn, lọng, phan, hoa để cúng dường Phật.

Bấy giờ, trong hội có bảy mươi hai ức đại Bồ Tát đắc Vô sanh pháp nhẫn, vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình xa trần lìa cấu, sanh tịnh pháp nhãn, vô lượng trăm ngàn các loài hữu tình đều phát tâm Vô thượng Chánh giác.

Bấy giờ, trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã đã tuyệt ngữ ngôn, lìa văn tự, đại Bồ Tát  làm sao hành sâu Bát Nhã và thuyết cho các hữu tình pháp như thế?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã và thuyết cho các hữu tình pháp như thế là tu tập Phật pháp, nhưng đối với các Phật pháp hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì thành thục các Ba la mật nhưng đối với các Ba la mật, hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì thanh tịnh Bồ đề, nhưng đối với Phật Bồ đề rốt ráo chẳng thể đắc. Vì ly diệt Niết bàn nhưng đối với ly diệt Niết bàn hoàn toàn bất khả đắc. Vì bốn quả Sa môn, nhưng đối với bốn quả Sa môn hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì Độc giác Bồ đề, nhưng đối với Độc giác Bồ đề hoàn toàn chẳng thể đắc. Vì dứt trừ ngã, thủ, nhưng đối với ngã, thủ hoàn toàn chẳng thể đắc. Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã chẳng phân biệt tất cả pháp tướng; năng phân biệt và sở phân biệt đều chẳng thể đắc; tùy thuận Bát nhã Ba la mật mà chẳng trái sanh tử. Mặc dù ở sanh tử mà chẳng trái Bát nhã Ba la mật, tùy thuận pháp tướng.

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát làm sao tùy thuận pháp tướng sâu xa, chẳng trái thế tục?

 

(Bốn tâm vô lượng: Đại từ, Đại bi, Đại hỉ, Đại xả là

Phương tiện thiện xảo của Bồ Tát)

 

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Bồ Tát tùy thuận Bát Nhã sâu xa, chẳng xa lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng xa lìa cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc; chẳng xa lìa pháp nhưng không chấp trước; tùy thuận Bát Nhã, chẳng xa lìa đạo. Vì sao? Vì đầy đủ năng lực đại phương tiện thiện xảo vậy.

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Cái gì gọi là Bồ Tát phương tiện thiện xảo?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Đó là bốn vô lượng. Các đại Bồ Tát đầy đủ tâm đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả nên thường có thể lợi ích an vui trong việc giáo hóa hữu tình, đó là Bồ Tát phương tiện thiện xảo.

- Bạch Thế Tôn! Vì sao bốn thứ này nói là Đại?

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã đầy đủ Từ không biên giới, Từ không phân biệt, Từ các pháp tánh, Từ chẳng ngưng nghỉ, Từ không não hại, Từ lợi ích lớn, Từ bi tánh bình đẳng, Từ bi lợi lạc khắp, Từ bi xuất thế gian. Những loại như thế v.v... gọi là Đại từ(4).

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, thấy các hữu tình đủ các thứ khổ, không có nơi quay về nương tựa, vì muốn cứu giúp nên phát Bồ đề tâm, siêng cầu chánh pháp; đã tự mình đắc rồi, giảng thuyết cho các hữu tình:

Những người tham lam thì dạy tu bố thí.

Người không giới, phá giới thì dạy thọ trì giới.

Người tánh hung ác, dạy hành nhẫn nhục.

Người lười biếng, trễ nãi, dạy hành tinh tấn.

Người tâm tán loạn, dạy hành tịnh lự.

Người ngu si, dạy học diệu tuệ.

Vì độ hữu tình nên dù gặp phải các thứ việc khó khăn rất khổ nhọc, nhưng hoàn toàn không rời bỏ Bồ đề tâm. Những việc làm như thế gọi là Đại bi.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, nghĩ:

Ba cõi lửa cháy dữ dội, ta đã ra khỏi nên sanh hoan hỷ.

Dây sanh tử ràng buộc từ lâu, ta đã cắt đứt vĩnh viễn nên sanh hoan hỷ. Ở trong biển sanh tử tìm tòi chấp thủ, chấp tướng, ta đã ra khỏi hẳn nên sanh hoan hỷ.

Cờ kiêu mạn dựng từ vô thỉ, ta đã bẻ gãy nên sanh hoan hỷ.

Dùng trí Kim cang phá núi phiền não, làm cho tiêu tan hết nên sanh hoan hỷ.

Ta đã tự an ổn, lại an ổn cho người. Kẻ ngu si tối tăm, kẻ tham, sân, mạn v.v... phiền não trói buộc, ngái ngủ triền miên trong thế gian, nay mới được thức tỉnh nên sanh hoan hỷ.

Ta nay đã thoát khỏi tất cả nẻo ác, lại có thể cứu giúp hữu tình trong nẻo ác, làm cho được ra khỏi, nên sanh hoan hỷ.

Hữu tình từ lâu ở trong sanh tử mê lầm, chẳng biết đường ra, ta nay cứu giúp chỉ dạy đường chánh, làm cho đến được thành Nhất thiết trí, an vui hoàn toàn nên sanh hoan hỷ.

Các việc làm như thế v.v... gọi là Đại hỷ.(Hết Q. 567, ĐBN)

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, đối với tất cả sắc mà mắt đã thấy, tiếng mà tai đã nghe, mùi mà mũi đã ngửi, vị mà lưỡi đã nếm, xúc mà thân đã chạm, pháp mà ý đã rõ, chẳng đắm, chẳng lìa mà khởi tâm xả. Những việc làm như thế gọi là Đại xả.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, thành tựu bốn vô lượng lớn như thế, do đó gọi là phương tiện thiện xảo.


Quyển 568

 

Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì độ hữu tình các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã thị hiện các tướng như thế nào?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Tướng Bát Nhã sâu xa bất khả đắc. Vì cứu độ hữu tình nên các Ngài dùng oai lực phương tiện thiện xảo, thị hiện các tướng giáo hóa bằng cách nhập vào thai mẹ cho đến nhập Niết bàn. Vì sao? Vì chư thiên chấp thường cho rằng không bị đọa lạc nên Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo thị hiện các tướng vào thai mẹ để phá chấp kia. Do đó làm cho chư thiên phát sanh ý niệm vô thường, nghĩ: Bậc tối thắng, tối tôn ở trong thế gian chẳng ai sánh bằng, không nhiễm dục mà còn rơi đọa, huống nữa là chư thiên khác mà được thường ư? Cho nên chúng ta chớ có buông lung cần phải tinh tấn, giữ niệm tu đạo.

Như thấy mặt trời còn có lúc lặn mất thì biết lửa đom đóm không thể tồn tại lâu dài.

Lại có chư Thiên sống phóng dật say đắm dục lạc, mặc tình đùa giỡn, không tu chánh pháp. Tuy cùng với Bồ Tát ở trong thiên cung nhưng không đến lễ bái, không thưa hỏi pháp mà đều nghĩ: Lúc này, ta hãy hưởng dục, đợi đến ngày mai sẽ đến gặp Bồ Tát để thưa hỏi pháp. Nghĩ vậy rồi bảo: Ta cùng với Bồ Tát thường ở nơi đây thì việc tu hành đâu có muộn màng gì? Do đó, Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, siêng tu tinh tấn như cứu lửa cháy đầu để phá trừ hành động buông lung nên thị hiện đọa lạc. Sự thị hiện này có hai nguyên nhân:

1. Làm cho chư thiên xa lìa sự buông lung.

2. Làm cho hữu tình đều được trông thấy.

Vì trong thế gian cũng có hữu tình hèn kém, ít có thiện căn không thể thấy Phật thành Vô thượng giác, chuyển xe diệu pháp nên Bồ Tát phải thị hiện làm trẻ con chơi giỡn ở hậu cung. Nếu làm các tướng khác để thuyết pháp thì e rằng nữ nhân trong hậu cung khó tin được. Do đó, Bồ Tát thị hiện làm trẻ con.

Người có đức hạnh cao thượng hay rời bỏ thế tục thì Bồ Tát vì người kia mà thị hiện xuất gia.

Lại có thiên nhơn suy nghĩ: Ngồi yên thọ lạc thì không đạt được Thánh đạo. Bồ Tát vì người kia thị hiện khổ hạnh. Vì để hàng phục khổ hạnh của ngoại đạo, nên Bồ Tát thị hiện các khổ hạnh khó hành.

Lại có thiên nhơn ngày đêm phát nguyện: Khi Bồ Tát đi đến tòa Bồ đề thì thiên nhơn chúng ta cung kính cúng dường. Bồ Tát vì họ nên đi đến tòa Bồ đề. Vô lượng thiên nhơn đã cúng dường rồi đều được nhân Bồ đề.

Lại có thiên nhơn nghĩ: Ác ma ngoại đạo làm chướng ngại chánh pháp, nguyện các Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề điều phục ác ma và ngoại đạo để cho người có chánh tín đều được thấy pháp.

Sau khi Bồ Tát thành chánh giác, trong hư không khắp tam thiên đại thiên thế giới vang lên những âm thanh tán thán:

Mặt trời Phật xuất hiện ở thế gian làm cho ánh sáng đom đóm lặn mất.

Chư thiên v.v… nói: Nguyện cho tôi đời sau thành Vô thượng giác như sự chứng đắc Bồ đề của Bồ Tát hôm nay, vì các hữu tình mà ngồi tòa Bồ đề.

Lại có thiên nhơn v.v... nói: Nguyện được thấy Đại sư thành Nhất thiết trí(5), Nhất thiết tướng trí(6), vô sư trí(7), tự nhiên trí(8). Đó là các hữu tình không cầu xuất ly mà căn tánh đã thuần thục, thâm sâu chánh pháp. Bồ Tát vì các hữu tình mà thị hiện 3 lần chuyển, 12 hành tướng vô thượng pháp luân(9).

Lại có thiên nhơn muốn thấy viên tịch. Bồ Tát vì họ mà thị hiện viên tịch. Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã có khả năng thị hiện các tướng biến hóa như vậy.

Thiên vương nên biết: Đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã chắc chắn không sanh vào cảnh giới bất an. Vì sao? Vì người không phước đức, không được nghe danh tự Bát nhã Ba la mật vậy.

Lại nữa, các Bồ Tát thường xa lìa ác nghiệp, không hề hủy phạm giới cấm. Tâm không ganh ghét. Thân, khẩu không phạm lỗi. Vì đã gieo trồng nhiều căn lành với vô lượng Phật trong quá khứ, đầy đủ phước đức, trí tuệ, phương tiện thù thắng, thành tựu đại nguyện, tâm ưa tịch tịnh, siêng tu tinh tấn, lìa biếng bỏ nhác.

Thiên vương nên biết: Các Bồ Tát này không có ác nghiệp đọa vào địa ngục, vì luôn thực hành 10 thiện nghiệp đạo. Các Bồ Tát này không có phá giới, thường hay hộ trì giới đã thọ, khỏi đọa vào loài bàng sanh. Các Bồ Tát này không có tâm ganh ghét, không đọa vào loài ngạ quỷ, không sanh vào nhà tà kiến, thường gặp bạn lành, xa lìa bạn ác. Vì sao? Vì đã trồng nhiều căn lành với vô lượng Phật thời quá khứ cho nên được sanh chỗ giàu sang, có quyền thế, đầy đủ chánh kiến. Các Bồ Tát này thọ thân đầy đủ, thành tựu pháp khí của Phật. Vì sao? Vì vào thời quá khứ đã cúng dường chư Phật, lắng nghe chánh pháp, kính lễ đại chúng cho nên sanh ở chỗ nào cũng đầy đủ các căn, hình tướng xinh đẹp, thành pháp khí của Phật. Các Bồ Tát này không sanh nơi biên địa, độn căn ngu si, không biết rõ thiện ác, lời nói và ý nghĩa chẳng hợp với pháp khí của Phật. Vì sao? Vì Bồ Tát chắc chắn thọ sanh ở trung tâm của quốc độ, các căn thông tuệ, nói năng lưu loát, biết rõ ý nghĩa về ngôn ngữ là pháp khí của Phật, biết rõ Sa môn, Bà la môn v.v... Vì sao? Vì đời trước Bồ Tát đầy đủ năng lực trí tuệ, phước đức thù thắng nên Bồ Tát không sanh vào cõi trời sống lâu, vì không lợi ích cho người, không được gặp Phật. Các Bồ Tát đa số sanh ở Dục giới, thị hiện ở đời, lợi lạc hữu tình. Vì sao? Vì đầy đủ năng lực phương tiện thiện xảo tối thắng. Bồ Tát không sanh vào thế giới không có Phật, không người thuyết pháp, không nghe chánh pháp, không cúng dường Tăng. Vì sao? Vì nguyện lực mạnh mẽ đời trước nên Bồ Tát sanh chỗ nào cũng đầy đủ Tam bảo. Các Bồ Tát này nghe pháp ác ở thế giới liền sanh tâm nhàm chán, xa lìa. Các Bồ Tát này tu tịnh hạnh, tâm không lười biếng, tinh tấn dõng mãnh, dùng pháp thiện diệt pháp ác.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, nhờ tất cả nhân duyên như thế nên chắc chắn không sanh vào nơi không thuận tiện.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, dù cho trong mộng cũng không quên mất Bồ đề tâm, huống chi lúc thức mà lại quên ư? Vì sao? Vì các thiện pháp đều được sanh ra ở tâm này, tức là tâm Vô thượng Bồ đề. Nếu không có tâm này thì không có Phật. Nếu không có Phật thì không có pháp, không có pháp thì không có Tăng. Do có tâm này nên có Tam bảo và có trời, người tu thiện, hưởng thọ an vui. Các Bồ Tát thường xa lìa nịnh hót, lừa dối. Tâm Bồ Tát thanh tịnh, chân thật nhu hòa, không do dự đối với Phật pháp. Nếu người muốn lắng nghe, thọ nhận thì Bồ Tát không giấu ý nghĩa sâu xa. Bồ Tát xa lìa sự ganh ghét và ác nghiệp tam đồ(10). Giai đoạn trước, giữa và sau không có tướng thay đổi, hành pháp Đại thừa chẳng trái với lời nói, thấy người đồng học sanh tâm cung kính khuyên siêng tu tập, xưng tán Đại thừa. Đối với Pháp sư thường tưởng như Phật, thân gần bạn lành, xa lìa bạn ác. Đó là phương tiện thiện xảo của các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã nên thành tựu tâm Bồ đề như vậy, nương nơi tâm này đắc Túc mạng trí. Vì sao? Vì đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, hộ trì chánh pháp, trì giới thanh tịnh, xa lìa ác nghiệp, hoàn toàn không còn chướng ngại, tâm thường hoan hỷ, tâm siêng tu học, tâm không tán loạn, tâm trí không lầm lẫn. Vì sao? Vì tôn trọng chánh pháp nên các Bồ Tát này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật. Do tôn trọng chánh pháp nên đã vì người khác giảng thuyết sâu rộng, vì hộ chánh pháp nên chẳng tiếc thân mạng. Thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp đều thanh tịnh. Do nghiệp thanh tịnh nên lìa các chướng. Do lìa chướng ngại nên tâm thường hoan hỷ, do tâm hoan hỷ nên siêng năng tinh tấn. Tâm tánh chánh trực, niệm trí viên mãn. Do niệm trí viên mãn nên biết đời sống quá khứ, một kiếp, mười kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, cho đến vô số kiếp, các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, rõ biết như thật về các nơi sanh thời quá khứ, biết rõ đời trước gần gũi bạn lành nên đối với ba việc nghe, thấy, niệm về chư Phật chẳng quên mất, thường ưa nghe pháp, cúng dường Tăng bảo không lúc nào để thời gian trống rỗng trôi qua; đối với việc cúng dường cung kính lễ bái Phật, Bồ Tát không lúc nào bỏ qua; đi đứng nằm ngồi luôn luôn lắng nghe học hỏi.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát nhờ trì tịnh giới nên thường được nghe danh tự công đức Bát nhã Ba la mật, thường tu tập Bồ đề phần pháp, không xa lìa ba môn giải thoát, thường xuyên tu tập tứ vô lượng tâm, thường nghe Vô thượng Nhất thiết trí.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã do đó gần gũi bạn lành.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, dù cho trong mộng còn chưa gần bạn ác huống chi là lúc thức mà lại gần gũi ư? Vì sao? Vì Bồ Tát đối với kẻ phá giới, kẻ đắm trước tà kiến, hạng bất luật nghi, người hành tà mạng, người nói vô nghĩa, người lười biếng, người ưa sanh tử, quay lưng với Bồ đề, hay ưa thế tục, tuy thường thương xót họ nhưng không ở chung.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã nhờ đó thường xa lìa bạn ác.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã nên được 10 thân sai khác của Như Lai. Mười thân đó là gì? Là:

1. Thân bình đẳng.

2. Thân thanh tịnh.

3. Thân vô tận.

4. Thân tu tập viên mãn.

5. Thân pháp tánh.

6. Thân lìa tầm tứ (truy cầu và phân tích).

7. Thân bất tư nghì.

8. Thân tịch tịnh.

9. Thân hư không.

10. Thân diệu trí. (Q.568, ĐBN)

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã đến địa vị nào mới đạt được 10 thân của Như Lai?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã ở trong sơ địa được thân bình đẳng. Vì sao? Vì thông đạt pháp tánh xa lìa tà vạy, thấy tất cả đều bình đẳng.

Trong nhị địa được thân thanh tịnh. Vì sao? Vì xa lìa phạm giới, nên được thanh tịnh.

Ở trong địa thứ 3 được thân vô tận. Vì sao? Vì lìa dục, tham, sân nên được thắng định.

Trong địa thứ 4 được thân tu tập viên mãn. Vì sao? Vì thường siêng tu tập Bồ đề phần.

Trong địa thứ 5 được thân pháp tánh. Vì sao? Vì quán các đế chứng đạt pháp tánh.

Trong địa thứ 6 được thân ly tầm tứ. Vì sao? Vì quán lý duyên khởi, xa lìa tầm tứ.

Trong địa thứ 7 được thân bất tư nghì. Vì sao? Vì thực hành đầy đủ trí phương tiện quyền xảo.

Trong địa thứ 8 được thân tịch tịnh. Vì sao? Vì lìa các phiền não, hý luận.

Trong địa thứ 9 được thân hư không. Vì sao? Vì thân tướng vô tận biến khắp tất cả.

Trong địa thứ 10 được thân diệu trí. Vì sao? Vì tu tập viên mãn Nhất thiết chủng trí.

Khi ấy, Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Như vậy thân Bồ Tát và thân Phật nào có sai khác?

Phật bảo Tối Thắng:

- Tuy thân không sai khác nhưng công đức có sai khác, nghĩa ấy như thế nào? Nghĩa là thân Phật và thân Bồ Tát không có sai khác? Vì sao? Vì tất cả pháp đồng một tánh tướng. Công đức sai khác là thân Như Lai đầy đủ công đức, còn thân Bồ Tát thì không được như vậy.

Ta sẽ nói thí dụ cho ngươi. Thí như bảo châu được trang sức hay không được trang sức thì bảo châu ấy vẫn như nhau. Thân Phật và thân Bồ Tát cũng lại như vậy. Tuy công đức có sai khác nhưng pháp tánh không sai khác. Vì sao? Vì công đức Như Lai hoàn toàn viên mãn, cùng tận đến 10 phương, biến khắp cõi hữu tình, thanh tịnh xa trần lìa cấu, không còn chướng ngại. Công đức của Bồ Tát chưa viên mãn nên vẫn còn chướng ngại. Ví như mặt trăng lúc khuyết, lúc tròn, nhưng tánh trăng vẫn không sai khác. Hai thân cũng vậy, đều kiên cố không thể phá hoại được giống như kim cương. Vì sao? Vì không bị ba độc phá hoại, vì không nhiễm pháp thế tục, vì không bị bức bách bởi các cảnh khổ ở cõi ác của trời người, xa lìa hẳn sanh, lão, bệnh, tử, có khả năng chế phục ngoại đạo, vượt cảnh giới ma, chẳng hướng đến Độc giác và Thanh văn thừa, do đó không bị phá hoại.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã khéo hướng dẫn thế gian, trời, người, A tu la v.v... đều tin cậy. Thí như có người khéo dẫn đường được quốc vương hoặc hàng thân cận vua v.v... hoặc trưởng giả, cư sĩ đều tin cậy. Các Bồ Tát cũng lại như vậy, Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát, Như Lai đều xứng đáng là người dẫn đường giỏi. Thí như có người khéo dẫn đường thì quốc vương, đại thần, Bà la môn v.v... đều tôn kính. Cũng vậy, các đại Bồ Tát đều được trời, rồng, dạ xoa, A tu la v.v... và bậc hữu học, bậc vô học cúng dường. Như kẻ đi đường mệt mỏi giữa nơi hoang dã nguy hiểm gặp kẻ dẫn đường có thể được an ổn. Cũng vậy, các vị đại Bồ Tát này dùng năng lực phương tiện hướng dẫn hữu tình ra khỏi sanh tử được an ổn.

Như người nghèo khó nương dựa vào trưởng giả giàu có mới thoát khỏi túng thiếu. Ngoại đạo, Bà la môn nương Bồ Tát mới ra khỏi sanh tử. Như đại trưởng giả của cải vô lượng cho mọi người đều được sử dụng. Cũng vậy, hữu tình sanh tử đều nương tựa vào các đại Bồ Tát này. Như đại trưởng giả muốn vượt qua khỏi hiểm nạn phải nhờ nhiều bạn, đầy đủ vật thực ăn uống mới qua khỏi hiểm nạn được. Cũng vậy, các đại Bồ Tát này muốn ra khỏi hiểm nạn sanh tử chắc chắn phải nhờ phước tuệ bảo vệ các hữu tình, mới ra khỏi thế gian đến Nhất thiết trí. Như người đi xa cần đem nhiều của báu mới được lợi. Cũng vậy các đại Bồ Tát từ biển sanh tử đến Nhất thiết trí cần tu tập phước báu, phước tuệ thật nhiều mới mau chứng Nhất thiết trí. Như người thế gian tham cầu của vật không hề nhàm chán. Cũng vậy, Bồ Tát ưa cầu thắng pháp, tâm không nhàm chán.

Như người dẫn đường cần có 4 việc hơn người: Giàu có, địa vị cao, tài giỏi, lời nói có uy tín. Cũng vậy, các Bồ Tát giàu có công đức, ở địa vị tôn quý, được pháp tự tại, lời nói chắc chắn. Như người biết cách dẫn đường đi đến thành lớn. Cũng vậy, các vị Bồ Tát hướng dẫn hữu tình đến Nhất thiết trí.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã biết rõ con đường nên đi, con đường không nên đi, nơi tà, nơi chánh, nơi cong, nơi ngay, nơi an ổn, nơi nguy hiểm, nơi có nước, nơi không có nước, thì đều biết con đường thoát ra. Các đại Bồ Tát này biết rõ các con đường không hề nhầm lẫn, đã hướng dẫn thì không trái với căn cơ của chúng sanh, vì người cầu Đại thừa nói đạo Vô thượng chẳng nói đạo Độc giác, Thanh văn. Vì người cầu Độc giác nói đạo Độc giác không nói đạo Bồ Tát, Thanh văn. Vì người cầu Thanh văn nói đạo Thanh văn không nói đạo Bồ Tát, Độc giác. Vì người chấp trước ngã nói đạo vô ngã. Vì người chấp trước pháp, nói pháp Không. Vì người chấp hai bên nói trung đạo. Vì người mê loạn nói đạo chỉ quán để họ hết mê loạn. Vì người hý luận nói đạo chơn như để họ hết hý luận. Vì người chấp trước sanh tử nói đạo Niết bàn để họ ra khỏi thế gian. Vì người theo đường mê nói đạo chơn chánh để họ xa lìa đường tà vạy.

Này Thiên vương! Đây là đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã biết rõ đường tà, đường chánh để hướng dẫn hữu tình đi đứng thông suốt.

 

Thích nghĩa:

(1). Pháp giới: (法界) Phạm: Dharma-dhàtu. Pàli: Dhamma-dhàtu. Hán âm: Đạt ma đà đô. Chỉ cho tất cả đối tượng (cảnh sở duyên) của ý thức, 1 trong 18 giới. Cứ theo luận Câu xá quyển 1 thì 3 uẩn: Thụ, tưởng, hành, cùng với vô biểu sắc và vô vi pháp, gọi là Pháp giới. Trong 12 xứ thì Pháp giới được gọi là Pháp xứ. Còn trong 18 giới thì 17 giới kia cũng được gọi là Pháp giới. Bởi vậy, theo nghĩa rộng thì Pháp giới là chỉ cho tất cả các pháp hữu vi và vô vi. Theo Hoa nghiêm Kinh thám huyền ký quyển 18 thì Pháp giới có 3 nghĩa: 1- Nhân sinh ra các Thánh pháp. 2- Thể tính chân thực của các pháp. 3- Các pháp đều có phần hạn của chúng, do đó mà phân biệt được tướng trạng của mỗi pháp. Pháp giới cũng chỉ cho chân như hoặc chỉ cho tất cả các pháp. Theo Phổ Hiền hạnh nguyện thì Pháp giới có 5 môn: Pháp giới hữu vi, pháp giới vô vi, pháp giới vừa hữu vi vừa vô vi, pháp giới chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi và pháp giới vô chướng ngại, do đó mà lập ra 5 lớp Pháp giới khác nhau là: Pháp giới pháp, pháp giới nhân, pháp giới nhân pháp dung hợp, pháp giới nhân pháp đều vắng bặt và pháp giới không chướng ngại. Chủng loại của pháp giới tuy nhiều nhưng tất cả đều qui về Nhất chân pháp giới, đây chính là tâm thanh tịnh nguyên sơ của chư Phật và chúng sanh, cũng gọi là Nhất tâm pháp giới, Nhất chân vô ngại pháp giới. Nếu đứng về phương diện hiện tượng và bản thể mà nhận xét, thì Pháp giới có thể được chia làm 4 nghĩa, gọi là Tứ pháp giới. Đó là: 1- Sự pháp giới: Hiện tượng giới bao gồm muôn pháp thiên sai vạn biệt, mỗi pháp đều có tự thể riêng và phần hạn khác nhau. 2- Lý pháp giới: Hiện tượng các pháp tuy nhiều, nhưng thể tính chân thực của chúng thì thường trụ bất biến, bình đẳng nhất như, là cảnh giới tuyệt đối. 3- Lý sự vô ngại pháp giới: Giữa hiện tượng và bản thể có sự quan hệ nhất thể bất nhị, mỗi mỗi pháp tương tức tương nhập, viên dung vô ngại. 4- Sự sự vô ngại pháp giới: Tất cả mọi hiện tượng đều tác dụng hỗ tương, một tức tất cả, tất cả tức một, trùng trùng vô tận, sự sự vô ngại. Mật giáo lấy 6 yếu tố (6 đại): Đất, nước, gió, lửa, không, thức làm thể tính của pháp giới; 6 yếu tố này là thân Tam ma da của đức Đại nhật Như lai. Cung điện của Ngài là Pháp giới cung; định vị của Ngài là Pháp giới định, ấn khế của Ngài là Pháp giới định ấn, năng lực gia trì của Ngài gọi là Pháp giới gia trì. Trong 5 trí thì Đại nhật Như lai biểu thị Pháp giới thể tính trí. Ngoài ra, tông Thiên thai gọi chung 10 giới: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A tu la, người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát và Phật là Thập pháp giới. Đây là nói theo nghĩa phần hạn sai biệt của các tướng pháp giới. Lại nữa, Pháp giới cũng là 1 trong 12 tên của Thực tướng(hay còn gọi là thập nhị chơn như). Mười hai tên là: Chân như, Pháp giới, Pháp tính, Bất hư vọng tính, Bất biến dị tính, Bình đẳng tính, Lý sinh tính, Pháp định, Pháp trụ, Thật tế, Hư không và Bất tư nghị giới. – Phỏng theo Phật Quang Từ điển.

Khó có thể có một định nghĩa chân xác riêng biệt về các từ như pháp giới, pháp tánh, chơn như, thật tế... khi chưa vào được bậc thứ năm của Bồ Tát thập địa. Kinh nói: “Trong địa thứ 5 được thân pháp tánh. Vì sao? Vì quán các đế chứng đạt pháp tánh”.TB

(2). Nguyên văn đoạn Kinh này bằng chữ Hán là “天thiên 王vương. 即tức 是thị 諸chư 法pháp 真Chân 如Như”, nên hai bản dịch ĐBN của HT Thích Trí Nghiêm đều dịch là “Thiên vương, tức là chơn như các pháp”. Trong khi Kinh TTVBN, nguyên văn chữ Hán là “大王,所謂如如” nên dịch: “Đại vương, đó là Như Như”. Kinh TTVBN do Ngài Nguyệt Bà Thủ Na lúc nào cũng dịch chơn như là Như Như.

(3). Hậu đắc trí: (後得智) Phạm: Pfwỉha-labdha-jĩàna. Cũng gọi Vô phân biệt trí, Hậu đắc vô phân biệt trí. Đối lại: Căn bản trí, Căn bản vô phân biệt trí.

(4). Kinh TTVBN nói: “Bồ Tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật, có đủ Vô biên từ, Vô phân biệt từ, Pháp từ, Bất tức từ, Bất não từ, Lợi ích từ, Bình đẳng từ, Biến ích từ, Xuất thế từ, thành tựu các Đại từ như thế”.

(5). Nhất thiết trí là trí chung cùng của Thanh văn và Độc giác.

(6). Nhất thiết tướng trí còn gọi là Nhất thiết chủng trí hay Nhất thiết trí trí là diệu trí riêng có của chư Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác.

(7). Vô sư trí: Tự giác ngộ, không do ai chỉ dạy, do giới định huệ mà được trí này; phản nghĩa với hữu sư trí: Trí có được do người khác chỉ dạy hay thu nhặt từ bên ngoài.

(8). Tự nhiên trí là trí huệ bản hữu, trí huệ bẩm sinh. Trí huệ vốn có từ sinh ra, không phải có được do kết quả của điều kiện từ ngoài vào. Đồng nghĩa với Tự nhiên bản trí (自然本智) và Bản trí (本智).

(9). Ba lần chuyển, 12 hành tướng vô thượng pháp luân: Ba sự thị hiện, nói mười hai phần giáo hay còn gọi là ba lần chuyển mười hai hành pháp luân (nguyên văn bằng chữ Hán là  (若nhược 三tam 示thị 導đạo .若nhược 所sở 宣tuyên 說 thuyết 十thập 二nhị 分phần/phân 教giáo): Ba sự thị hiện là ba thứ biến hóa của chư Phật hay Bồ Tát dùng để cứu độ chúng sanh. Mười hai phần giáo tức 12 bộ Kinh từ  Tu-đa-la (Phạn ngữ: Stra) đến Ưu-ba-đề-xá (Phạn ngữ: Upadçsa).

(10). Tam đồ: Ba đường gồm: Hỏa đồ, đao đồ và huyết đồ, đồng nghĩa với Địa Ngục, Ngạ Quỷ và Súc Sanh của 3 Đường Ác, do vì các nghiệp ác của thân, khẩu và ý gây ra nên dẫn đến kết quả sanh vào 3 đường này. 1- Hỏa Đồ (tức đường Địa Ngục): Do vì chúng sanh của cõi này thường chịu nỗi khổ bức bách, nóng bỏng của lò sôi, vạc cháy, hoặc do vì nơi ấy lửa tích tụ rất nhiều, nên có tên gọi là Hỏa Đồ. 2- Đao Đồ (tức đường Ngạ Quỷ): Do chúng sanh ở cõi này thường chịu cái khổ bức bách của đao gậy nên có tên gọi như vậy. 3- Huyết Đồ (tức đường Súc Sanh): Do chúng sanh ở cõi này tranh giành cấu xé lẫn nhau, người mạnh lấn áp kẻ yếu, uống máu ăn thịt nhau, nên có tên gọi như vậy. (Phật học Tinh Tuyển).

 

Lược giải:

 

1. Phẩm “Pháp Giới”, Q.567 của Hội thứ VI, đặt câu hỏi:

“Phải tu như thế nào để biết pháp giới?”

 

Hội thứ VI này trả lời trức tiếp là: Phải “tu hành chánh đạo”. Như thế nào gọi là tu hành theo chánh đạo? Đó là tu theo 8 con đường chân chánh, để cầu về cõi Niết Bàn (S: nirvāṇa, P: nibbāna, 涅槃), còn gọi là Bát Thánh Đạo (八聖道), Bát Chi Chánh Đạo (八支正道), Bát Thánh Đạo Phần (八正道分), Bát Đạo Hạnh (八道行), Bát Trực Hạnh (八直行), Bát Chánh (八正), Bát Đạo (八道), Bát Chi (八支), Bát Pháp (八法), Bát Lộ (八路). Đây là pháp môn thật tiễn, tiêu biểu nhất của Phật Giáo, là phương pháp hay con đường tắt chính xác để hướng đến giải thoát, Niết Bàn. Khi đức Phật tuyên thuyết bài pháp đầu tiên, ngài đã dạy nên xa lìa hai thái cực thọ hưởng dục lạc và tu khổ hạnh, nên hướng về con đường Trung Đạo, tức ám chỉ pháp môn Bát Chánh Đạo này, gồm:

1- Chánh Kiến (S: samyag-dṛṣṭi, P: sammā-diṭṭhi, 正見): hay còn gọi là Đế Kiến (諦見), tức thấy khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo (Tứ Đế), có nghiệp thiện ác thì có quả báo của nghiệp thiện ác ấy, có đời này đời kia, có cha mẹ, trên đời có bậc chân nhân đến chỗ an lành, bỏ điều thiện cũng như hướng đến điều thiện, nơi đời này và đời kia tự giác ngộ và tự chứng thành tựu.

2- Chánh Tư Duy (S: samyak-saṃkalpa, P: sammā-saṅkappa,  正思惟): Hay còn gọi là Chánh Chí (正志) Chánh Phân Biệt (正分別), Chánh Giác (正覺), nghĩa là suy nghĩ đúng đắn, chân chánh. Khi đã thấy được lý của Tứ Đế, hành giả tư duy để làm cho tăng trưởng trí tuệ chân thật. Nó lấy tâm vô lậu làm thể.

 3- Chánh Ngữ (S: samyag-vāc, P: sammā-vācā, 正語): Còn gọi là Chánh Ngôn (正言), Đế Ngôn (諦言), tức xa lìa nói dối, nói lời hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt, dùng trí tuệ để sửa đổi khẩu nghiệp, không nói những lời phi lý. Nó lấy giới vô lậu làm thể.

4- Chánh Nghiệp (S: samyakkarmanta, P: sammā-kammanta, 正業): Còn gọi là Chánh Hạnh (正行), Đế Hạnh (諦行), tức xa lìa sát sanh, trộm cắp, tà dâm,v.v…dùng trí tuệ đúng đắn để trừ tất cả những việc làm không đúng của thân và sống với thân trong sạch. Nó lấy giới vô lậu làm thể.

5- Chánh Mạng (S: samyag-ājīva, P: sammā-ājīva, 正命): Còn gọi là Đế Thọ (諦 受), tức xả bỏ cuộc sống không đúng như dùng chú thuật, v.v., để mong cầu những vật dụng trong sinh hoạt hằng ngày như áo quần, thức ăn uống, giường ghế, thuốc men, v.v. Nó lấy giới vô lậu làm thể.

6- Chánh Tinh Tấn (S: samyag-vyāyāma, P: sammā-vāyāma, 正精進): Còn gọi là Chánh Phương Tiện (正方便), Chánh Trị (正治), Đế Pháp (諦法), Đế Trị (諦法), tức phát nguyện đoạn trừ các điều ác mình đã tạo, làm cho không sinh khởi những điều ác mà mình chưa làm, làm cho sinh khởi những điều thiện mà mình chưa làm, và làm cho tăng trưởng những điều thiện mà mình đã từng làm. Nó lấy sự siêng năng vô lậu làm thể.

7- Chánh Niệm (S: samyak-smṛti, P: sammā-sati, 正念): Còn gọi là Đế Ý (諦意), tức quán 4 đối tượng thân, thọ, tâm và pháp, lấy trí tuệ chân chánh nghĩ nhớ đến chánh đạo để dẹp trừ các suy nghĩ không đúng. Nó lấy niệm vô lậu làm thể.

8- Chánh Định (S: samyak-samādhi, P: sammā-samādhi, 正定): Còn gọi là Đế Định (諦定), dùng trí tuệ chân chánh để nhập vào Thiền định thanh tịnh vô lậu, xa lìa các pháp bất thiện, thành tựu từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền.

Bát chánh đạo này có công lực làm cho chúng sanh từ bờ bên này của cõi mê sang qua được bờ bên kia của giác ngộ. Cho nên nó lấy thuyền, bè làm lời thệ nguyện. Ngược lại, Tà Kiến (邪見, thấy không đúng), Tà Tư (邪思, suy nghĩ không đúng), Tà Ngữ (邪語, nói lời không đúng), Tà Nghiệp (邪業, làm việc không đúng), Tà Mạng (邪命, sống không đúng), Tà Tinh Tấn (邪精進, tinh tấn không đúng), Tà Niệm (邪念, nghĩ nhớ không đúng), Tà Định (邪定, định không đúng) được gọi là Bát Tà (八邪, tám pháp không đúng).(1)

Do tu chánh đạo được tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn mà dẫn đến Thánh trí tự giác. Không tu chánh đạo thì không thể chứng pháp giới. Đó là điều kiện cần và đủ để nhập pháp giới. Không hội đủ điều kiện này mà nói đến chứng đắc pháp giới chỉ là điều không tưởng. Phật bảo:

“Thiên vương nên biết! Các Bồ Tát này có diệu tuệ nên gần gũi bạn lành, vui mừng kính thờ, tưởng như Phật. Vì gần gũi bạn lành nên xa lìa biếng nhác, diệt trừ tất cả pháp ác bất thiện, tăng trưởng căn lành. Đã diệt phiền não, xa lìa pháp chướng ngại, thân, ngữ, ý nghiệp đều được thanh tịnh; do thanh tịnh nên liền sanh kính trọng; vì tâm kính trọng, tu tập hạnh Không; vì tu tập hạnh Không nên xa lìa các kiến; vì xa lìa các kiến nên tu hành chánh đạo; tu hành chánh đạo nên có thể thấy pháp giới”.

Nói đại cương là do tu tập hạnh Không, xa lìa các kiến hay nói khác là tu hành chánh đạo mà thấy được pháp giới. Nhưng không có bất cứ một yếu tố lẻ loi nào có thể đưa hữu tình vào pháp giới. Bởi vì, pháp giới là một sự phối hợp của nhiều thành tố mà chỉ có bậc thứ năm của Bồ Tát Thập Địa do giác ngộ chứng biết, phàm phu không thể vói tới nổi. Phàm phu nói đến chứng nhập pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, chân như, thật tế... chẳng khác gì người mù sờ voi.

Đó là cái khó nói, khó chỉ thẳng, nên phải đi vòng vòng, phải đi vòng quanh:

 

1- Thế nào là pháp giới?

1/. Quyển 532, phẩm “Diệu Tướng”, Hội thứ III, ĐBN. Cụ thọ Thiện Hiện bạch: “…Bạch Thế Tôn! Pháp giới chẳng phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng không lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc cho đến thức tức là pháp giới, pháp giới tức là sắc cho đến thức. Nói rộng cho đến pháp giới chẳng phải là pháp hữu vi, vô vi, cũng không lìa pháp hữu vi, vô vi. Pháp hữu vi, vô vi tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp hữu vi, vô vi”.

Đây có thể xem là một định nghĩa gián tiếp về pháp giới. Nói cho đủ thì pháp giới gồm cả 6 căn, 12 xứ và 18 giới. Vậy, pháp giới không riêng căn trần thức giới mà cũng không lìa căn trần thức giới. Căn trần thức giới tức là pháp giới, pháp giới tức là căn trần thức giới. Nói như vậy có nghĩa ba yếu tố này tạo nên mọi hiện hữu thế gian, gọi chung là cảnh giới, sinh địa, môi trường sống hay là chỗ nương, đối tượng của 6 căn, 12 xứ  và 18 giới.

Sáu căn (nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý), 12 xứ (gồm 6 căn: Nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý cộng với 6 trần: Sắc thanh hương vị xúc pháp); 18 giới nghĩa là chủng loại, có 18 chủng loại đều có tự tánh khác nhau (6 thức năng y, 6 căn sở y và 6 cảnh sở duyên). Đó là cửa ngỏ tiếp xúc của nhân sinh và vũ trụ. Tất cả hiện hữu kể cả con người đều bao gồm trong ấy.

2/. Một đoạn Kinh khác của phẩm “Các Pháp Bình Đẳng”, Q.385 - Q.386, Hội thứ I, ĐBN tuy dài, thuyết về pháp giới như sau:Tất cả pháp là pháp giới. Tất cả pháp đều nhập vào pháp giới. Như Lai dù có ra đời, hoặc chẳng ra đời, các pháp vẫn như vậy, đều nhập pháp giới, không có tướng sai biệt, chẳng phải do Phật thuyết. Vì sao? Vì tất cả pháp thiện hoặc pháp phi thiện, hoặc pháp hữu ký hoặc pháp vô ký, hoặc pháp hữu lậu hoặc pháp vô lậu, hoặc pháp thế gian hoặc pháp xuất thế gian, hoặc pháp hữu vi hoặc pháp vô vi, đều nhập pháp giới tánh không, vô tướng, vô vi. Cho nên, đại Bồ Tát  khi tu hành Bát Nhã, muốn học pháp giới, nên học tất cả pháp. Nếu học tất cả pháp tức là học pháp giới. Nếu phân biệt pháp tức là phá hoại pháp”.

Lúc bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện bạch Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều nhập pháp giới, không hai, không khác, thì tại sao đại Bồ Tát  phải học pháp này hay pháp khác? Phải học 6 Ba la mật, học 4 thiền, 4 vô lượng, 4 định vô sắc, học 37 pháp trợ đạo, 18 pháp bất cộng, Nhất thiết trí, Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí? Cũng học đạo Bồ Tát, quả vị Giác ngộ tối cao? Tại sao đại Bồ Tát  phải học thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật? Học như thế rồi, đắc Nhất thiết trí trí, biết tất cả pháp, tất cả chủng tướng?”

Phật dạy:

- “Này Thiện Hiện! Chẳng phải trong pháp giới có các thứ phân biệt như thế. Đại Bồ Tát  không do các thứ phân biệt này mà hành điên đảo, trong cái không hý luận, khởi các hý luận. Vì sao? Vì trong chơn pháp giới hoàn toàn không có phân biệt hý luận.

Pháp giới chẳng phải sắc, cũng chẳng lìa sắc; pháp giới chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức, cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức. Pháp giới tức là sắc, sắc tức là pháp giới; pháp giới tức là thọ tưởng hành thức; thọ tưởng hành thức tức là pháp giới. Pháp giới chẳng phải 12 xứ, cũng chẳng lìa 12 xứ; pháp giới tức là 12 xứ, 12 xứ chính là pháp giới. Đối với 18 giới, tứ thiền, tứ vô lượng, tứ định vô sắc, 37 pháp trợ đạo, 18 bất cộng, Nhất thiết trí, quả vị Giác ngộ tối cao… cũng lại như thế.

Trong chơn pháp giới không có phân biệt hý luận.

Sắc chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa sắc riêng có pháp giới; thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa thọ, tưởng, hành, thức riêng có pháp giới. Sắc tức là pháp giới, pháp giới tức là sắc; thọ, tưởng, hành, thức tức là pháp giới, pháp giới tức là thọ, tưởng, hành, thức v.v…

Như vậy có thể nói: Pháp thế gian chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp thế gian riêng có pháp giới; pháp xuất thế gian chẳng phải pháp giới, cũng chẳng lìa pháp xuất thế gian riêng có pháp giới. Pháp thế gian tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp thế gian, pháp xuất thế gian tức là pháp giới, pháp giới tức là pháp xuất thế gian”.

Tóm lại, tất cả pháp đều nằm trong pháp giới. Pháp nhĩ tự nhiên là vậy. Do đó, mới có câu “người hội muôn vật làm mình, người ấy chính là Thánh nhân”. Người có cái thấy biết như vậy là nhập pháp giới tức giác ngộ.

3/. Một đoạn Kinh được xem là thú vị về pháp giới nói trong phần “Mạn Thù Thất Lợi” Q.574, Hội thứ VII, ĐBN. Xá lợi Tử hỏi Mạn Thù Thất Lợi:

- “Mạn Thù Thất Lợi! Đối với pháp giới, lẽ nào Phật không chứng?

- Đại đức! Không phải vậy. Vì sao? Vì Phật tức pháp giới, pháp giới tức Phật. Không lẽ Pháp giới lại chứng pháp giới.

Lại, Xá Lợi Tử! Tất cả pháp không, nói là pháp giới. Tức pháp giới đây nói là Bồ đề. Pháp giới Bồ đề đều lìa tánh tướng, do đây nên tất cả pháp không. Tất cả pháp không, Bồ đề, pháp giới, đều là cảnh giới Phật, không hai không riêng. Vì không hai không riêng nên chẳng thể hiểu rõ.Vì chẳng thể hiểu rõ nên không có ngôn thuyết. Vì không ngôn thuyết nên chẳng thể thi thiết hữu vi hay vô vi, có hay chẳng có”.

Mạn Thù Thất Lợi hay Văn Thù Sư Lợi là một bậc đại trí đã thấy pháp giới như thế: Phật tức là pháp giới, pháp giới tức là Phật. Nói khác, Phật đã nhập pháp giới vì Phật giác ngộ, nên pháp giới và Phật không hai không khác. Không những pháp giới là không mà thập nhị chơn như cũng là không. Tất cả pháp Không, Bồ đề, pháp giới, pháp tánh, thật tế… đều là cảnh giới Phật, không hai không riêng. Vì không hai không riêng nên chẳng hiểu rõ. Vì chẳng hiểu rõ nên không ngôn thuyết. Nếu không ngôn thuyết thì nói nữa làm gì?

4/. Phần “Na Già Thất Lợi” Q.576, Hội thứ VIII, ĐBN. Mạn Thù Thất Lợi nói:

- “Chẳng phải chơn pháp giới có hiện có mất, có co có giãn. Vì sao? Vì chơn pháp giới lìa tướng, vắng lặng, không hiện không mất, không thể phân biệt, không thể hý luận, không nương không trụ, không lấy không bỏ, không động không chuyển, không nhiễm không tịnh. Như cõi hư không không động không chuyển, không lấy không bỏ, không nương không trụ, không thể hý luận, không thể phân biệt, không hiện không mất. Các pháp cũng thế, tự tướng vốn Không, tánh ấy cũng chẳng có tướng, bất khả đắc. Nếu tướng của các pháp có thể đắc thì Phật vào Niết bàn cũng có thể đắc.

Tất cả pháp không có tàng chứa, không thủ giữ, không sắc, không thấy, không đối, không tướng, bản lai vắng lặng. Cho nên hằng hà sa số chư Phật mặc dù đã vào Niết bàn nhưng không diệt một pháp. Nghĩa là không diệt sắc uẩn và diệt thọ tưởng hành thức uẩn, cũng không diệt 12 xứ, 18 giới. Cũng không diệt địa, thủy, hỏa, phong, không, thức giới. Như vậy, chư Phật tuy vào Niết bàn nhưng không diệt một pháp nào để vào Niết bàn.

Có những kẻ muốn khiến cho Niết bàn có pháp diệt, tức là muốn làm cho cõi hư không kia cũng diệt. Vì sao? Vì tất cả pháp tánh, bản lai tịch diệt, tự tánh vắng lặng, cực vắng lặng, nên không thể diệt.

Những kẻ ngu si chẳng như thật biết, cho rằng ngã và ngã sở phải diệt mới được vào Niết Bàn. Do những kẻ ấy chấp trước ngã và hữu tình, cho đến tri giả, kiến giả và do chấp tự tánh pháp có không, cho rằng tất cả diệt hẳn mới vào Niết bàn. Ta nói những hạng ấy không thể giải thoát được sanh, già, bệnh, chết, sầu, than, khổ, ưu, não. Vì sao? Vì những kẻ ngu si kia chẳng biết, chẳng ngộ bản tánh các pháp, do chẳng hiểu biết bản tánh các pháp, nên cùng Phật Thế Tôn và các đại đệ tử, Bồ Tát Bất thối chuyển, cũng như đối Thượng hữu chơn tịnh, Tiên thiên vô thượng, thường chống trái tranh cãi. Vì tranh đấu nhau nên những kẻ ngu kia chìm đắm mãi trong hôi uế bất tịnh. Tất cả Hiền Thánh đều xa tránh việc ấy. Bậc trí đồng quở trách sanh tử tệ ác. Như đống phân uế gần thành phố xóm làng, ngày đêm người vật tới lui, như thế ngày càng thêm bất tịnh, đáng ghét, hôi thối, tiện lợi cho loài vật dơ. Cũng vậy, kẻ ngu đối với bản tánh của pháp chẳng thể hiểu biết, nên việc ác càng thêm tăng trưởng, sanh các điều sanh tử thối tha bất tịnh; Hiền Thánh quở trách, kẻ trí xa lìa. Ta nói những kẻ ấy chẳng thể nào giải thoát được các thứ tội lỗi sanh già bệnh chết v.v…”

Diệt là diệt cái tâm chấp ngã chấp pháp, làm sao diệt được các pháp. Kinh cũng thường nói tất cả pháp đều nhập vào pháp giới. Pháp giới, pháp tánh, thật tế... cùng chơn như thật tướng không hai không khác. Đó là lý do tại sao Hội thứ VI, nói về pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh... rồi Hội thứ VII, phần “Mạn Thù Thất Lợi” cũng nói những pháp này. Đến Hội thứ VIII, ĐBN phần “Na Già Thất Lợi” cũng đề cập tới chơn pháp giới(2). Biết như thật các pháp là biết “chơn như thật tướng của tất cả pháp”. Nhưng chơn như thật tướng này chẳng khác pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế, tánh Không… Hiểu và thâm nhập các pháp này tức giác ngộ. Vậy, Bồ Tát muốn giác ngộ phải tu chánh đạo, tu Bồ Tát hạnh, tu 18 pháp không, tu thập nhị chơn như hay nói khác là tu tất cả các pháp Phật.

Hy vọng 4 đoạn Kinh trích dẫn trên cùng thích nghĩa của Phật Quang Từ điển làm sáng tỏ ý nghĩa của pháp giới. Tuy nhiên, hiểu là một chuyện mà chứng lại là một chuyện khác.

 

2- Tại sao khi nói đến pháp giới lại đề cập chơn như, thật tế?

Các pháp đó không thể tách rời nhau được, vì tánh thì khác nhau nhưng như chỉ là một, cái nhất như của vạn hữu. Trời Tối Thắng bạch:

- “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là pháp giới?

Phật bảo trời Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Pháp giới chính là tánh chẳng hư vọng.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh chẳng hư vọng?

- Này Thiên vương! Tức là tánh chẳng đổi khác.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là tánh chẳng đổi khác?

- Này Thiên vương! Tức là chơn như của các pháp.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là chơn như của các pháp?

- Thiên vương nên biết! Như này sâu xa vi diệu chỉ có trí biết, chẳng phải do lời nói biết được. Vì sao? Vì các pháp như (chơn như các pháp) vượt văn tự, lìa ngữ ngôn; tất cả sự diễn đạt chẳng thể diễn đạt nổi; lìa hý luận, dứt phân biệt, không đây kia; lìa tướng vô tướng, xa lìa suy lường, vượt cảnh suy lường, không tưởng không tướng, vượt khỏi hai cảnh, xa lìa người ngu, lìa cõi phàm tục, vượt khỏi cảnh ma, xa lìa mê chướng, thức không thể biết, trụ không chỗ trụ, vắng lặng Thánh trí và cảnh giới của hậu đắc trí vô phân biệt, không ngã, ngã sở, cầu chẳng thể được, không thủ, không xả, không nhiễm, không đắm, thanh tịnh ly cấu, tối thắng đệ nhất, tánh chẳng biến đổi; hoặc Phật ra đời hay chẳng ra đời, tánh tướng vẫn thường trụ.

Thiên vương nên biết! Đó là pháp giới. Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tu chứng pháp giới, hành nhiều trăm ngàn hạnh khổ khó hành, làm cho các hữu tình đều được thông suốt.

Này Thiên vương! Đấy gọi Thật tế Như như của Bát nhã Ba la mật, tướng không phân biệt, bất tư nghì giới, cũng gọi Chơn không, Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí, pháp giới không hai”.

Chơn như hay các pháp như bởi vì nó như vậy là như vậy, chẳng lúc nào chẳng như nên gọi là Như. Pháp giới là chỗ nương của các pháp mà các pháp là Như trong nghĩa chơn như thật tướng. Các pháp có thật thể như vậy thì chỗ nương cũng phải có thật thể như vậy. Nên đoạn Kinh trên Phật bảo: “Pháp giới chính là chẳng hư vọng. Nhưng thế nào là chẳng hư vọng? Phật bảo: Chính là không đổi khác. Thế nào là chẳng thể đổi khác? Phật trả lời: Tức là chơn như của các pháp(cái thể nhất như của tất cả pháp).

Rồi Phật giải thích một tràng thế nào là chơn như của các pháp: “Pháp như lìa văn tự, ngôn thuyết... xa lìa mê chướng, thức không thể biết, trụ không chỗ trụ, vắng lặng Thánh trí và cảnh giới của hậu đắc trí vô phân biệt... không thủ, không xả, không nhiễm, không đắm, thanh tịnh ly cấu, tối thắng đệ nhất, tánh chẳng biến đổi; hoặc Phật ra đời hay chẳng ra đời, tánh tướng vẫn thường trụ. Rồi Phật kết luận: Đó là pháp giới”.

Như trên đã nói chơn như, pháp giới, pháp tánh, thật tế... mỗi thứ một vẻ nhưng bản thể như như, nên không thể phân biệt, không thể tách rời chơn như với pháp giới hay thật tế. Nên cuối cùng phẩm này, Phật bảo: “Này Thiên vương! Đấy gọi Thật tế Như như của Bát nhã Ba la mật, tướng không phân biệt, bất tư nghì giới, cũng gọi Chơn không, Nhất thiết trí, Nhất thiết tướng trí, pháp giới không hai”.

Vì vậy, “thập nhị chân như” mới có 12 tên: Chơn như, pháp giới, pháp tính, bất hư vọng tính, bất biến dị tính, bình đẳng tính, ly sinh tính, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghị giới. Tuy có 12 tên nhưng bản thể không hai không khác, nên xếp cùng chung 1 thể loại. Vả lại, phạm trù của pháp giới quá mênh mông. Nếu không có cái nhìn bao quát làm sao thấy được pháp giới. Đây là nét đặc thù của thập nhị chân như hay còn gọi là “12 tên gọi của Thật tướng”.

Cứ tưởng tượng xem tất cả nước: Mưa, suối, cống rãnh, ao hồ đều đổ vào sông, rồi sông đổ ra bể. Vào tới bể, tới đại dương rồi, nước không còn phân biệt, chỉ còn một mực bình đẳng như như. Nhưng không phải tất cả thứ nước đó… phải đợi vào đại dương mới được bình đẳng như như. Tất cả mực nước của các thứ nước đó vốn đã như như bình đẳng từ trước dù có Phật hay không có Phật ra đời. Cũng vậy tất cả pháp cũng vốn như như bình đẳng, nên khi đã nhập vào pháp giới cũng như như bình đẳng. Đó là ý nghĩa tại sao khi nói về pháp giới lại đề cập đến chơn như hay bình đẳng là vậy. Thâm nhập và chứng được nét đặc thù này thì hiểu được thập nhị chân như hay thật tướng của vạn hữu mà được giác ngộ.

 

3- Do đâu mà có được cái thấy biết đúng?

Do học và thực hành Bát nhã Ba la mật nên thấy biết như thật các pháp đều không. Không là đệ nhất nghĩa không, mà trong đó tướng không chẳng thể nắm bắt được, không thủ không trước, không chấp tướng không cũng không nương tựa vào không. Vì, không thủ trước nên đối với không, không bị đọa lạc. Thực hành Bát nhã Ba la mật như vậy thì xa lìa các tướng, không thấy tướng trong ngoài, lìa tướng hý luận, lìa tướng phân biệt, lìa tướng tìm tòi, lìa tướng tham trước, lìa tướng cảnh giới, lìa tướng phan duyên, lìa tướng năng tri sở tri.

Đó là cái thấy biết siêu xuất do tu chánh đạo, chứng Bát Nhã và đắc hậu đắc trí, và nhờ đó mà thấy tất cả pháp đều không, đều như như bình đẳng hay còn gọi là chơn như thật tướng tất cả pháp. Khi biết như vậy thì tất cả sóng lăng bể yên, nên nói là thanh tịnh!

Tới đây chúng ta có thể trả lời câu hỏi: Do đâu mà có được cái thấy biết đúng? Câu trả lời thẳng là: Biết như thật các pháp đều Không. Không này là chân không hay hư không giới là một trong thập nhị chân như. Đó là lý do tại sao học chánh pháp thì ngộ nhập chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, thật tế...

Tóm lại, tri nhận được thật tướng tất cả pháp trong cõi sống chung quanh ta thì gọi là chứng pháp giới, tức chứng chỗ nương, cảnh giới của tất cả pháp chân thật. Cảnh giới của tất cả pháp chân thật cũng chính là chơn như. Vì vậy, pháp giới với chơn như không hai không khác. Nên, Ngài Tăng Triệu, một tư tưởng gia, một luận gia nổi tiếng sống cùng thời cũng là cộng sự viên trong ban dịch thuật Kinh điển của nhóm Cưu Ma La Thập, mà ngài Cưu Ma La Thập xem như có khả năng như chính mình, mới nói rằng: “Trời đất cùng ta đồng gốc, vạn vật cùng ta đồng thể”.

Đó là lối giải thích mà người ta thường nghe: Thâm nhập được chơn như, pháp giới, pháp tánh... thì được xem là giác ngộ.

Để chứng minh điểm này cũng như để trả lời tất cả pháp như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, thật tế… không hai không khác, không những cho phẩm này mà còn cho tất cả phẩm kế tiếp của Hội nầy, chúng tôi dẫn chứng đoạn Kinh của phẩm “Biện Đại Thừa”, Q.55 - Q.56, ĐBN như sau:

(…) Như tánh pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Đại thừa cũng vậy, chẳng trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao? Vì tánh pháp giới cho đến tánh thật tế, không trụ không chỗ nào chẳng trụ. Vì sao? Thiện Hiện! Tánh pháp giới, pháp giới tánh không, cho đến tánh thật tế, thật tế tánh không vậy.

Hơn nữa, tánh của sắc thọ tưởng hành thức, các xứ, giới cho đến tất cả pháp Phật cũng đều như vậy”.

Tất cả pháp đều tánh không… đều như như; như như cũng là không. Vậy, không những chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, thật tế… không hai không khác mà tất cả pháp kể uẩn xứ giới cho đến các pháp Phật cũng đều như vậy. Tánh Không là chìa khóa giải thích tất cả hiện hữu. Nên chúng tôi có thể nói: “Cây cỏ với ta đồng gốc, sông núi với ta đồng nguồn”, tất cả cùng hiện hữu và cùng tăng trưởng chẳng có gì lộn lạo. Đó là cái như tánh của vạn hữu!

Tóm lại, để trả lời câu hỏi: Phải tu như thế nào để biết pháp giới? Trong phẩm này Kinh trả lời là phải tu chánh đạo. Câu trả lời này quá tổng quát. Phần “Mạn Thù Thất Lợi” Q.575, Hội thứ VII, ĐBN, Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi: “Nếu muốn hiểu rõ tánh tất cả pháp tức là Bồ đề, tất cả Bồ đề tức là pháp giới, đây tức là thật tế, thật tế tức là Không, tâm không thối lui, thì phải học Bát Nhã thâm sâu này”. Đây là câu trả lời vừa chi tiết (tức nói về Bồ đề, pháp giới, thật tế và tánh Không), vừa tổng quát (phải học Bát Nhã, vì Bát Nhã nhiếp thu tất cả pháp thuộc về chánh đạo), vừa giải thích những gì mà chúng tôi luận giải trên.

 

Trên đây là chiết giải của chúng tôi một phần dựa vào Kinh mà chiết giải thế nào các pháp như, pháp tánh, thật tế thuộc “thập nhị chân như”? Để nắm vững vấn đề hơn chúng tôi lấy một đoạn luận do Bồ Tát Long Thọ trong phẩm thứ nhất, Tập 2, quyển 32, Đại Trí Độ Luận chiết giải một đoạn Kinh của Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa về ba pháp trên, như sau:

 

“KINH:

Muốn biết pháp như, pháp tánh và thật tế, phải tu tập Bát Nhã Ba-la-mật.

 

LUẬN:

“Các pháp đều có 2 tướng. Đó là: Biệt tướng và Thật tướng.

- Biệt Tướng: Là tướng riêng, là tự tướng của mỗi pháp. Ví như đất có tướng cứng, nước có tướng ướt, gió có tướng lay động, lửa có tướng nóng v.v... Do 6 căn duyên 6 trần, khởi sanh 6 thức, mà người thế gian nhận biết được biệt tướng của mỗi pháp.

- Thật Tướng: Dùng trí huệ Bát Nhã chia chẻ các pháp đến vi trần, thì mọi pháp đều trở thành KHÔNG. Cho nên nói các pháp, ở nơi Thật Tướng, đều là KHÔNG, là bất khả đắc.

Nếu dùng tâm chấp mà phân biệt, thì thấy mỗi pháp đều có Tự Tướng riêng. Trái lại, nếu biết được vô lượng pháp đều dung hợp với nhau, thì vào được nơi Thật Tướng của các pháp.

Phàm phu chỉ thấy biết được tướng riêng của các pháp.

Hàng Thanh Văn, do trí huệ còn có hạn lượng, nên chưa thấy hết được vô lượng pháp dung hợp với nhau, chưa hoàn toàn vào được nơi Thật Tướng của các pháp. Ví như người vào biển, do sức bơi lặn có hạn lượng, chỉ thấy được một số lượng nhỏ các vật dưới biển vậy.

 

-o0o-

 

Khi đã vào được nơi Thật Tướng pháp rồi, thì chẳng còn có sự phân biệt giữa tướng và tánh. Lúc bấy giờ, tướng và tánh chỉ là một, chẳng phải hai, chẳng phải khác.

Bởi vậy, nên Thật Tướng pháp còn được gọi là: Pháp như, Pháp tánh và Thật tế.

- Pháp Như: Là tánh như như, bất biến của các pháp. Tánh ấy vốn thường KHÔNG.

- Pháp Tánh: Là bản tánh, là thật thể của các pháp. Tánh ấy vốn thường KHÔNG.

- Thật Tế: Là lý chân thật, vẹn toàn của các pháp. Thật Tế vốn thường KHÔNG.

Hỏi: Pháp Như, Pháp Tánh và Thật Tế có 3 nghĩa riêng khác, hay chỉ có một nghĩa thôi?

Đáp: Pháp Như, Pháp Tánh và Thật Tế đều là Thật Tướng Pháp cả, đều diễn đạt lý KHÔNG của các pháp. Chỉ là một nghĩa mà có 3 tên gọi khác nhau, để tùy trường hợp rộng giải về lý KHÔNG.

Đâỵ chỉ là phương tiện. Thật ra Pháp Như, Pháp Tánh Thật Tế đều là bất khả đắc cả.

Cũng như vậy, nhằm dẫn vào pháp KHÔNG, có thời Phật thuyết cho hàng Thanh Văn về 3 Pháp ấn là:

- Các pháp hữu vi là vô thường.

- Các pháp hữu vi là vô ngã.

- Niết bàn là tịch tịnh.

Hỏi: Phật thuyết Bát Nhã Ba-la-mật, Phật lại thuyết về 3 Pháp ấn. Như vậy Bát Nhã Ba-la-mật có phá hoại các Pháp ấn không?

Đáp: Tất cả đều do Phật thuyết, nhưng tùy trường hợp, tùy đối tượng, lời Phật nói ra có sai khác.

Với hàng Bồ Tát, Phật thuyết về Thật Tướng Bát Nhã. Với hàng Thanh Văn, Phật thuyết về 3 Pháp ấn.

Trong kinh Bát Nhã Ba-la-mật, Phật dạy ngài Tu Bồ Đề:

“Này Tu Bồ Đề! Nếu Bồ Tát quán sắc là thường là chẳng phải hành Bát Nhã Ba-la-mật; quán sắc là vô thường là chẳng phải hành Bát Nhã Ba-la-mật. Quán sắc là khổ, là lạc, quán sắc là ngã, là vô ngã, quán sắc là tịch tịnh, là phi tịch tịnh... cũng đều là chẳng phải hành Bát Nhã Ba-la-mật”.

Bát Nhã Ba-la-mật chẳng phá hoại các Pháp ấn cũng chẳng chấp các Pháp ấn. Khi đã vào được Thật Tướng Pháp rồi, thì sẽ diệt hết các quán, sẽ chăng còn các Pháp ấn nữa.

Hỏi: Như thế nào là nói về Pháp Như?

Đáp: Như trong kinh Tạp A Hàm có nêu mẫu chuyện sau đây:

Có vị Tỷ-kheo hỏi Phật: “Bạch Thế Tôn! 12 nhân duyên do Phật đặt ra hay do ai đặt ra?”

Phật dạy: “Chẳng phải Ta lập ra 12 nhân duyên, cũng chẳng có ai khác lập ra 12 nhân duyên cả. Pháp Như, Pháp Tướng, Pháp Vị vẫn thường như vậy. Ví như Vô Minh duyên Hành, Hành duyên Thức... dẫn đến Sanh duyên Lão Tử, vẫn thường như vậy. Tất cả đều do nhân duyên nên có, nhưng tất cả đều là KHỔNG. Ưu, Bi, Khổ, Não... đều vốn là KHÔNG cả. Vì là KHÔNG, nên khi các nhân duyên diệt, thì Ưu, Bi, Khổ, não... liền diệt. Các pháp tương tục sanh diệt như vậy. Dù có Phật hay dù không có Phật vẫn thường như vậy”.

Như vậy là nói về Pháp Như.

Hỏi: Như thế nào là nói về Pháp Tánh?

Đáp: Như trong kinh Tạp A Hàm cũng như kinh Sư Tử có nêu các mẫu chuyện sau đây:

* Phật hỏi ngài Xá Lợi Phất ba phen về nghĩa của một câu mà ngài chẳng sao trả lời được. Đến khi Phật khai thị về Thật Thể của các pháp, thì ngài mới được rõ. Phật khai thị cho ngài Xá Lợi Phất xong rồi, lui về tịnh xá. Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất nhóm các Tỷ-kheo và nói rằng: “Khi Phật chưa khai thị, ta chưa được rõ. Nhưng nay Phật đã khai thị rồi, thì ta có thể nói được nghĩa ấy suốt trong 7 ngày 7 đêm”.

* Lại nữa, sau khi Phật vừa ra khỏi tịnh thất, có một vị Tỷ-kheo đến bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Ngài Xá Lợi Phất tán thán Phật thông đạt Pháp Tánh, nên dù ở nơi pháp Thanh Văn mà vẫn quán các pháp sanh diệt là như.

Do quán các pháp sanh diệt là thường như, nên diệt hết thảy các quán, vào được nơi Thật Tướng pháp”.

Như vậy là nói về Pháp Tánh.

Hỏi: Như thế nào là nói về Thật Tế?

Đáp: Có hai pháp đối đãi mới có duyên khởi. Còn Thật Tế chẳng có chỗ sở y, chẳng có đối đãi nên chẳng có duyên khởi.

Phật thuyết trong các kinh: “Thật Tế là Niết bàn”. Vì Thật Tế là diệt, là ly, là diệu. Do vậy mà Niết bàn chẳng có nhân duyên, chẳng có duyên khởi. Niết bàn là Thật Tế, là Như. Đã là Như, thì cả 3 đời đều bình đẳng, đều là Như cả vậy.

Hỏi: Vì sao gọi 3 đời bình đẳng là Như?

Đáp: Ở nơi Thật Tướng, thì 3 đời đều bình đẳng, chẳng có sai khác, nên gọi là Như.

Kinh Bát Nhã Ba-la-mật nói: “Ba đời Nhất Như bình đẳng là ba đời đã nhập vào trong vô lượng pháp tánh, là bản tánh, là Niết bàn. Hết thảy các pháp thế gian đều có tánh Niết bàn”.

Chư Phật, chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, dạy họ tu học, dẫn họ vào Niết bàn là vào nơi Thật Tánh của các pháp vậy.

Ví như người thợ vàng, thợ bạc phải dùng phương tiện nấu các quặng vàng, quặng bạc, loại bỏ các chất bẩn quặng mới lấy được vàng ròng, bạc ròng để làm đồ trang sức. Lại ví như kim cương ở sâu dưới mỏ, người thợ mỏ phải đào sâu loại bỏ các lớp đất đá mới tìm được chất kim cương. Pháp Tánh cũng như vậy, người tu hành phải dùng trí huệ, phải tu tập, phải tầm cầu mới vào được chỗ tự tánh thanh tịnh, mới diệt được các hý luận. Như vậy là vào được Pháp Tánh thâm sâu, tức Pháp Tánh Thật Tế vậy.

Hỏi: Vì sao nói Thật Tế là thường trú bất động?

Đáp: Chúng sanh, do vô minh phiền não che tâm, khiến ở nơi Thật Tướng mà vẫn sanh tà tư duy. Chư Thánh đã phá vô minh, nên dạy chúng sanh tu tập để vào được nơi Thật Tướng của các pháp.

Khi Vô Minh đã dung hợp với Minh, thì sẽ thấy được Chân Tánh, tức là Pháp Tánh Thật Tế vậy. Khi đã vào được nơi Pháp Tánh Thật Tế, thì sẽ biết rõ ở nơi thân ta có vô lượng vô biên vi diệu pháp.

Hỏi: Chư vị A-la-hán có vào được Thật Tế không?

Đáp: Các bậc A-la-hán, Bích Chi Phật vào được Thật Tế, nhưng trú ở nơi đây, chẳng tiến lên nữa. (tức được giải thoát sanh tử)

Bồ Tát vào Thật Tế rồi, phát tâm từ bi, trở lại trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh, và tu đầy đủ 6 pháp Ba-la-mật, mãi đến khi viên thành Phật đạo.

Hỏi: Thế nào gọi là Bồ Tát tu Thật Tướng Trí Huệ?

Đáp: Bồ Tát biết rõ ở nơi Thật Tướng chẳng có tướng thường, chẳng có tướng lạc, chẳng có tướng ngã, chẳng có tướng tịnh. Do tu như vậy mà Bồ Tát xả được các pháp quán, vào được Niết bàn vô sanh diệt. Như vậy là Bồ Tát tu để trở về nguồn gốc vô sanh, trở về pháp tánh như như thường trú.

Bồ Tát thấy rõ ở nơi sắc tức là không ở trong các pháp đều có tánh Niết bàn, tức là Pháp Tánh vậy.

Do chứng ngộ được Thật Tướng pháp, nên Bồ Tát có được vô lượng vô biên phương tiện trí huệ để giáo hóa chúng sanh.

Thật Tánh pháp là Chân Thật Tế có diệu dụng lợi sanh vô cùng tận”.

Ở đây Bồ Tát Long Thọ khi luận về Pháp như, Pháp tánh, Thật tế cũng đề cập đến Bình đẳng... nghĩa là không ngoài thập nhị chân như như chúng tôi đã chiết giải ở trên. Vì vậy, chúng tôi nhiều lần phát biểu người nào thâm nhập “thập nhị chân như” thì được xem là giác ngộ.

Đây là một phẩm hết sức quan trọng trong việc tu hành. Nên chúng tôi chiết giải hơi dài dòng. Các đạo hữu hiểu được phẩm này sẽ hiểu phẩm các phẩm pháp tánh, bình đẳng tánh kế tiếp, đồng thời có thể hiểu làm sao tu để có thể nhập pháp giới? Nếu hiểu thì tất cả đều nằm trong vòng tay, không hiểu thì nói trăng nói cuội chẳng khác nào người mù sờ voi!

 

2. Bồ Tát thị hiện để hóa độ chúng sanh như thế nào?

 

Cuối Q.567, Hội thứ VI, ĐBN nói về 4 tâm vô lượng tức là các phương tiện thiện xảo trong việc hóa đạo của các bậc tu hành. Đó là Từ, Bi, Hỷ và Xả, còn gọi là tứ vô lượng tâm. Bốn tâm rộng lớn phổ cập cho vô lượng chúng sanh. Bốn tâm rộng lớn này đối với Bồ Tát, Phật được gọi là bốn đức: Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại Xả:

- Đại từ là lòng lành rộng lớn muốn giúp ích chúng sanh.

- Đại bi lòng thương xót muốn cứu khổ chúng sanh.

- Thấy chúng sinh hết khổ, được vui Bồ Tát vui theo, gọi là Đại hỷ.

- Xả là bỏ, không chấp, “phủi hết” tất cả tốt xấu, gọi là Đại xả.

 

Đầu Q.568, Hội thứ VI, ĐBN Bồ Tát thị hiện các tướng trong việc hóa độ chúng sanh, đồng thời nói về sự tu tập và hành trì để có đủ khả năng công đức thực hiện việc hóa độ đó.

 

1- Tướng thị hiện của Chư Bồ Tát :

Hình như tất cả chư Bồ Tát trong thế gian thị hiện gần như giống nhau trong cõi đời này: Để cứu độ hữu tình nên các Ngài dùng phương tiện thiện xảo, thị hiện các tướng giáo hóa bằng cách nhập vào thai mẹ cho đến nhập Niết bàn: Thị hiện làm trẻ con, thị hiện lập gia đình, thị hiện vào núi tuyết tu khổ hạnh, thị hiện ngồi thiền dưới cội Bồ đề, thị hiện học đạo và thuyết pháp, chuyển pháp luân, rồi thị hiện viên tịch vào Niết bàn v.v...

 

2- Cách tu tập và hành trì của Bồ Tát để có đủ khả năng hóa độ chúng sanh:

- Đối với bản thân Bồ Tát:

“Do tôn trọng chánh pháp nên đã vì người khác giảng thuyết sâu rộng, vì hộ chánh pháp nên chẳng tiếc thân mạng. Thân, ngữ, ý nghiệp đều thanh tịnh. Do nghiệp thanh tịnh nên lìa các chướng. Do lìa chướng ngại nên tâm thường hoan hỷ, do tâm hoan hỷ nên siêng năng tinh tấn. Tâm tánh chánh trực, niệm trí viên mãn. Do niệm trí viên mãn nên biết đời sống quá khứ, 1 kiếp, 10 kiếp, 100 kiếp, 1.000 kiếp, cho đến vô số kiếp, các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, rõ biết như thật về các nơi sanh thời quá khứ, biết rõ đời trước gần gũi bạn lành nên đối với 3 việc nghe, thấy, niệm về chư Phật chẳng quên mất, thường ưa nghe pháp, cúng dường Tăng bảo không lúc nào để thời gian trống rỗng trôi qua; đối với việc cúng dường cung kính lễ bái Phật, Bồ Tát không bỏ; đi đứng nằm ngồi luôn lắng nghe học hỏi”.

- Đối với chúng sanh:

... “Người cầu Đại thừa nói đạo vô thượng chẳng nói đạo Độc giác, Thanh văn. Vì người cầu Độc giác nói đạo Độc giác không nói đạo Bồ Tát, Thanh văn. Vì người cầu Thanh văn nói đạo Thanh văn không nói đạo Bồ Tát, Độc giác. Vì người chấp trước ngã nói đạo vô ngã. Vì người chấp trước pháp, nói đạo pháp Không. Vì người chấp hai bên nói trung đạo. Vì người mê loạn nói đạo chỉ quán để họ hết mê loạn. Vì người hý luận nói đạo chơn như để họ hết hý luận. Vì người chấp trước sanh tử nói đạo Niết bàn để họ ra khỏi thế gian. Vì người theo đường mê nói đạo chơn chánh để họ xa lìa đường tà vạy”.

Đó là các giáo pháp thiết thực mà Phật đã trao truyền. Đọc tụng, thọ trì tới đây ai cũng có thể hiểu, nên không cần nói thêm chi tiết nữa!

Thật may mắn cho tất cả những ai tụng đọc bài pháp thâm diệu này. Đây là bài pháp hết sức quan trọng cho sự hiểu biết về chơn như thật tướng của tất cả pháp. Hiểu được chơn như thật tướng tất cả pháp rồi tu tập thì có cơ hội nhập pháp giới mà Giác ngộ, được giải thoát thôi./.

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Phỏng theo Phật học Tinh tuyển.

(2). Xin xem TẬP 7, Tổng luận Đại Bát Nhã, phiên bản III/2025 trên Trang Nhà Quảng Đức./.

 

---o0o---

 

 

 

 

 

 

05. PHẨM “NIỆM TRỤ”

 

Cuối quyển 568, Hội thứ VI, ĐBN.
(Tương đương với phẩm 4: “Niệm Xứ”, Kinh TTVBN)

  

Gợi ý:

Đây là bài pháp tuy ngắn nhưng giáo nghĩa thật sâu cho những ai tu Bồ Tát đạo, hành Bồ Tát hạnh. Nếu tu theo các khuyến dẫn sau đây hạnh nguyện sớm vuông tròn không kể Tăng lẫn Tục. Nhờ pháp tu này mà có thể đưa chúng sanh vào đạo. Vì vậy, pháp môn này được xem là quan trong trong việc truyền bá tôn giáo.

 

Tóm lược:

 

1.(Bồ Tát trụ tâm như thế nào?)

 

Bấy giờ, Tối Thắng từ tòa đứng dậy che áo bên vai trái, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát hành sâu Bát Nhã có năng lực biết rõ đường chánh, đường tà như vậy thì tâm ấy vin vào đâu mà trụ?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã thì tâm luôn chơn chánh không có mê loạn. Vì sao? Vì Bồ Tát tu tập viên mãn niệm trụ về thân, thọ, tâm, pháp(tứ niệm xứ hay tứ niệm trụ). Hễ có đi vào thành ấp, xóm làng nghe nói lợi dưỡng tâm không tham đắm, nhiễm trước. Giống như Thế Tôn đã dạy trong giới Kinh: Người khéo chánh niệm thì xa lìa các phiền não.

- Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã khéo tu niệm trụ về thân như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này dùng trí như thật xa lìa pháp ác bất thiện tương ưng với thân. Quán sát thân này từ đầu đến chân, chỉ có các thứ bất tịnh tội lỗi: Vô ngã, vô lạc, vô thường, bại hoại, tanh hôi, xú uế, do gân mạch dính liền, gớm ghiếc không đáng nhìn. Quán thân như vậy rồi thì tham dục, chấp thân ngã kiến không còn sanh khởi. Nhờ nhân duyên đó mà có thể thâm nhập các pháp lành tương ưng. (Pháp quán này gọi là Quán thân bất tịnh hay Thân niệm xứ)

- Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật khéo tu niệm trụ về thọ như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này suy nghĩ: Các thọ đều khổ nhưng vì hữu tình điên đảo lầm tưởng cho là vui. Phàm phu ngu si cho khổ là vui. Thánh giả chỉ nói tất cả đều khổ, vì muốn đoạn khổ nên cần phải tu tinh tấn và khuyến khích người khác nên tu pháp này. Quán như vậy rồi thường trụ niệm thọ, không tùy thuận hoạt dụng của thọ mà phải tu hành đoạn dứt thọ và cũng dạy cho người như vậy. (Pháp quán này gọi là Quán thọ thị khổ hay Thọ niệm xứ)

- Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã khéo tu niệm trụ về tâm như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này suy nghĩ: Tâm vô thường, người ngu bảo là thường trụ, khổ bảo vui, vô ngã bảo ngã, bất tịnh bảo tịnh. Tâm đây chẳng trụ, nhanh chóng chuyển đổi; cội gốc của thùy miên, cửa của các ác thú, là nhân duyên của mọi phiền não hoại diệt các thiện. Tâm này thường sanh tham, sân, si khó tin tưởng. Tâm dẫn đầu các pháp. Nếu biết rõ tâm thì rõ các pháp. Các pháp thế gian đều do tâm tạo. Tâm chẳng tự thấy các thứ tội lỗi do mình, hoặc thiện hoặc ác đều do tâm khởi. Tâm tánh chuyển nhanh như vòng lửa quay bỗng chốc chẳng dừng, như gió ngựa đồng, như nước bạo động, như lửa năng đốt. Quán như thế khiến nhớ bất động, thì tâm liền theo mình, chẳng theo sở hành. Nếu điều phục tâm như thế là điều phục được các pháp. (Pháp quán này gọi là Quán tâm vô thường hay Tâm niệm xứ)

- Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã khéo tu niệm trụ về pháp như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này biết như thật thế gian có các pháp ác bất thiện đó là tham, sân, si và các tập khí phiền não. Cần phải tu các pháp để đối trị trị tham, sân, si và các tập khí phiền não. Biết như vậy rồi chẳng hành tham sân si v.v… và dạy người khác nên xa lìa.

Này Thiên vương! Đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã đối cảnh khởi niệm như thế nào? Nghĩa là Bồ Tát này nếu gặp sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp liền nghĩ: Đối với pháp không chân thật này mà lại sanh tham ái ư? Đây chỉ là sự đắm trước của phàm phu ngu si, ấy là bất thiện. (Pháp quán này gọi là Quán pháp vô ngã hay Pháp niệm xứ)

Như Thế Tôn dạy: Ái thì sanh đắm trước, đắm trước thì sanh mê lầm, do đó không biết pháp thiện, pháp ác. Vì vậy đọa vào cảnh giới ác. Bồ Tát không (không nghĩ, không hành) như vậy nên không rơi rớt, không đắm trước cảnh giới và khiến cho người khác cũng vậy.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã niệm A lan nhã(1). Nghĩa là Bồ Tát suy nghĩ: A lan nhã là chỗ không ồn ào, không người ở, là trụ xứ tịch tĩnh. Trời, rồng, Dược xoa, có Tha tâm trí đều biết tâm, tâm sở của ta. Ở đây ta không nên khởi tâm tà vạy. Do suy nghĩ vậy nên được xả ly, đối pháp chánh niệm cần tu hành.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã suy nghĩ: Thành ấp tụ lạc là nơi ồn ào chẳng phải chỗ đi lại của người xuất gia, vậy không nên đến. Đó là quán rượu, mãi dâm, vương cung, đánh bạc, ca múa, các chỗ như vậy cần phải xa lìa. 

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã nghe lợi dưỡng liền khởi chánh niệm thế này: Vì muốn sanh phước cho người nên nhận tài vật rồi bố thí hết cho người nghèo, chứ chẳng phải do tham đắm mà nhận rồi giữ lấy cho vợ con hay gia đình. Người thực hành như vậy được người đời khen ngợi, không bao giờ vì mình, vì cái của mình. Lại suy nghĩ như thế này: Người đời cho rằng hành động như vậy được nổi tiếng là thi ơn. Nhưng thế gian vô thường, tan biến trong phút chốc. Tại sao người trí đối với cái không thường, không thực, không lâu dài, không chủ, lại nương theo đó mà hành, mà khởi ngã, ngã sở.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã vì giáo hóa hữu tình cho đến chính mình nên tự tu tập, ít muốn vui đủ, mặc áo phấn tảo, tâm thường trong sạch, tín lực vững chắc, thà bỏ thân mạng chứ không phạm giới; tâm xa lìa kiêu mạn dù mặc áo xấu đi vào thành khất thực nhưng không hổ thẹn, không lười biếng, siêng tu tinh tấn, việc làm chưa xong thì không bỏ dở giữa chừng, đối với y phục phấn tảo không bị lỗi lầm, đối với y phục cũ mục hư nát không khinh chê, chỉ giữ cái đức của mình, người ly dục mới mặc y phục này, được Như Lai khen ngợi vì ngăn chặn xan tham, cũng không khen mình mặc áo này, hay chê người không mặc; người thực hành như thế được chư thiên lễ kính, được Phật tán thán, Bồ Tát hộ trì, Bà la môn v.v... đều cung kính cúng dường.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã thường tu diệu hạnh thanh tịnh như thế.

Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát hành Bát nhã Ba la mật với hạnh cao thượng cần gì phải mặc áo phấn tảo(2) này?

Phật bảo:

- Này Thiên vương! Các đại Bồ Tát vì hộ thế gian nên mặc y phấn tảo này. Vì sao? Vì thế gian thấy mặc y phục này thì các điều ác đều dứt và sanh điều lành.

Này Thiên vương! Ý ngươi nghĩ sao? Cao hạnh Bồ Tát ai bằng Thế Tôn?

Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát tu hạnh cao thượng trăm ngàn, vạn, ức cho đến vô số cũng không thể sánh bằng Thế Tôn. Vì sao? Vì Phật là đấng Pháp vương đầy đủ Nhất thiết trí nên không có một pháp nào mà không thể chiếu soi.

Phật lại hỏi Thiên vương:

- Này Thiên vương! Ý ngươi nghĩ sao? Phật thị hiện khổ hạnh và tán thán công đức tu hạnh Đầu đà cho tất cả trời, rồng, Dược xoa, nhơn phi nhơn v.v... để làm gì?

Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Đức Phật thị hiện như thế là giáo hóa các hữu tình có thể độ được và nói pháp đối trị cho các Bồ Tát mới phát tâm v.v... chưa dứt được phiền não.

Phật dạy:

- Đúng vậy! Đúng vậy!

Bồ Tát tu hạnh cao thượng mặc y phấn tảo cũng lại như vậy. Cho nên Bồ Tát hành sâu Bát Nhã đầy đủ phương tiện thiện xảo làm lợi ích cho hữu tình.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã vì thế gian nên chỉ giữ ba y(3). Vì sao? Vì tâm ít muốn biết đủ nên chẳng cầu nhiều. Vì không tìm cầu nên không chứa cất, vì không chứa cất nên không mất mát, vì không mất mát nên không buồn khổ, vì không buồn khổ nên xa lìa phiền não, vì lìa phiền não nên không còn đắm trước, vì không đắm trước thì các lậu tận diệt.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, vì muốn làm lợi lạc hữu tình nên cầm bát vào thành khất thực. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát  luôn huân tập đại bi tâm, quán các hữu tình đa số nghèo khổ, vì khiến họ giàu vui nên nhận sự cúng dường. Khi vào thành ấp, uy nghi tề chỉnh, tâm tánh chẳng loạn, khéo nhiếp các căn, bước từ tốn chậm rãi mà đi, không nhìn ngó hai bên, theo thứ lớp khất thực như pháp, không bỏ nhà nghèo, đúng lượng khất thực, không tham cầu nhiều, trong bát cơm ấy sớt một phần bố thí cho kẻ nghèo, cúng dường phước điền. Vì sao? Vì tín thí khó tiêu và vì sanh phước đức.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo vì các hữu tình thị hiện khất thực.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, thường siêng tu học hạnh A lan nhã, nghĩa là tu phạm hạnh. Đối với các căn không phát sanh tội lỗi, ưa học hỏi, kham nhẫn tu chánh hạnh, xa lìa ngã và sự sợ hãi, không đắm trước thân, thường hành tịch tĩnh. Các Bồ Tát này thường ưa xuất gia ở trong chánh pháp, giữ tam luân giới, biết rõ pháp tướng. Như Lai đã từng thuyết giới cho ba hạng người già, trẻ, trung niên đều được thấu hiểu, chẳng duyên ngoại cảnh, chuyên niệm tự tâm, chê pháp thế tục, khen pháp xuất gia, điều phục các căn, không chấp giữ cảnh giới ác. Ở A lan nhã, sống nơi không có hiểm nạn, làng xóm khất thực, không xa, không gần, nơi ấy có suối nước trong tắm rửa dễ dàng, rừng nhiều hoa quả, không có thú dữ, hang núi yên tĩnh, ít người lui tới. Đối với pháp đã học đêm ngày ba thời chuyên cần đọc tụng, tiếng không cao, thấp. Tâm không duyên ngoại cảnh chỉ chuyên trì nhớ niệm. Bà la môn, Sát đế lợi v.v... có đến chỗ ấy thì niềm nở, vui mừng thăm hỏi, mời ngồi. Quán biết căn tánh để thuyết pháp cho họ được hoan hỷ, tín thọ, vâng làm. Dùng đủ phương tiện khéo léo giúp họ xa lìa ngã tâm. Vì vô ngã nên ở nơi vắng vẻ không có sợ hãi, xa lìa sợ hãi nên vui hạnh tịch tĩnh. Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo như thế nên thị hiện tu hành ở nơi A lan nhã.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã quán biết các hành, suy nghĩ: Các thức ăn uống đều trong sạch thơm tho, nhưng do lửa thân tiếp xúc biến thành bất tịnh, hủy hoại hôi hám. Người ngu vô trí luyến ái thân này và đồ ăn uống. Nếu theo Thánh trí như thật quán sát thì sanh tâm chán ghét không còn say đắm. Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, suy nghĩ: Nhiều hành động sân giận thì sẽ gây nghiệp ác, ta phải lìa tâm sân để hướng đến chánh đạo, suy nghĩ chân thật chứ chẳng nói suông. Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, suy nghĩ: Các pháp có sanh tức là nhân duyên, nhân duyên của pháp lại từ duyên khởi. Làm sao người trí vì pháp duyên sanh hư vọng mà tạo tội lỗi? Trong thân Bồ Tát nếu có chướng ngại thiện pháp tức tự đoạn trừ. Nếu không thể đoạn chướng ngại điều thiện cho người khác, thì tâm liền buông xả, không nên phát khởi vô minh.

Thế nào gọi là pháp chướng ngại điều thiện? Nghĩa là không cung kính Phật, Pháp, Tăng và giới thanh tịnh, không kính đồng học, tự cao khinh thường những người lớn, nhỏ, già, trẻ, hướng đến năm dục, quay lưng với Niết bàn và phát sanh ngã kiến, hữu tình kiến, cho đến tri giả kiến, kiến giả kiến, chấp không rồi khởi lên đoạn kiến, chấp có, rồi khởi lên thường kiến, xa lìa Thánh hiền, gần gũi phàm phu, nương người phá giới, thân gần bạn ác, xa lìa bạn lành, pháp thâm sâu nghe rồi sanh tâm hủy báng. Thân làm việc ác luật nghi, lời nói ác, tâm nịnh hót, quanh co, bị phiền não che lấp, tham đắm lợi dưỡng, phát sanh đủ 5 mạn:

1. Khinh mạn vì dòng họ cao quí.

2. Khinh mạn vì dòng họ giàu sang.

3. Khinh mạn vì hiểu biết hơn người.

4. Khinh mạn về quốc độ.

5. Khinh mạn về đồ chúng.

Thấy việc ác liền giúp sức, gặp việc thiện lại tránh xa, khen ngợi sắc đẹp của đàn bà, con nít, ngoại đạo, không ưa tu tập hạnh A lan nhã, không biết ăn uống đúng lúc, tuy có đọc tụng mà chẳng đúng thời, xa lìa Sư trưởng, thấy việc thiện không tôn trọng, thấy việc ác không sợ hãi, như voi không có móc, ngựa không dây cương, buông lung chẳng chế ngự được, ưa sân giận, không có từ tâm, thấy người khổ không thương, gặp người bệnh không thăm hỏi, gặp người chết không lo sợ, như sống trong đống lửa mà không mong cầu ra khỏi, việc đáng làm không làm, việc không đáng làm lại làm, việc không đáng suy nghĩ thì suy nghĩ, việc đáng suy nghĩ thì không suy nghĩ, việc chẳng mong cầu thì cầu, không ra khỏi bảo đã ra khỏi, chẳng phải đạo gọi là đạo, chưa chứng đắc cho là chứng đắc, ưa huân tập việc đại ác, xa lìa điều thiện lớn, hủy báng Đại thừa và người hành Đại thừa, khen ngợi Tiểu thừa và người học Tiểu thừa, ưa nói lời thô ác, làm loạn, đấu tranh, tâm không từ bi làm cho người khác phải khiếp sợ, nói lời thô bỉ không có một chút chơn thật, say mê theo hý luận không thể bỏ được. Các việc như vậy gọi là pháp chướng ngại điều thiện.    

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã tu tập hạnh Không, diệt pháp hý luận, suy nghĩ: Cảnh giới sở quán đều Không, tâm năng quán cũng chẳng có, không có hai loại sai khác về năng quán, sở quán. Các pháp nhất tướng còn gọi vô tướng, suy nghĩ như thế thì không còn giữ tướng trong ngoài, không thấy thân không thấy tâm cũng không thấy pháp, liên tiếp tu tập chỉ quán theo thứ lớp. Quán như vậy gọi là như thật thấy pháp. Chỉ là nhất tâm bất loạn. Bồ Tát tu quán hạnh như thế rồi liền được tịnh giới. Vì giới thanh tịnh nên hạnh cũng thanh tịnh. Đây là quán hạnh thanh tịnh của Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, hộ trì pháp tạng vô thượng của Như Lai, nhận lãnh chánh pháp. Vì hộ pháp chứ không vì lợi dưỡng, vì để cho hạt giống Tam bảo không đoạn tuyệt chứ không phải vì sự cung kính. Vì muốn hộ trì hạnh Đại thừa chứ không vì danh vọng, làm chỗ nương tựa cho người không có chỗ nương tựa, cứu giúp cho người không được cứu giúp, an lạc người không an lạc, làm cho người không có tuệ nhãn được tuệ nhãn, chỉ đạo Thanh văn cho người tu Tiểu thừa, chỉ đạo Độc giác cho người tu trung thừa, chỉ đạo Vô thượng cho người tu Đại thừa. Nghe pháp như vậy là Vô thượng trí, suốt đời sẽ không nhầm lẫn Thừa thấp kém.

 Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, biết rõ hoàn toàn các pháp Tỳ nại da(4) khác nhau. Đó là Tỳ nại da, Tỳ nại da hạnh, Tỳ nại da sâu xa, Tỳ nại da vi tế, tịnh cùng bất tịnh, có lỗi không lỗi, giới bổn biệt giải thoát, Tỳ nại da Thanh văn, Tỳ nại da Bồ Tát. Các Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, đối với các pháp Tỳ nại da như thế đều thấy biết rõ.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, biết rõ tất cả oai nghi giới hạnh, khéo học hỏi thọ trì giới hạnh của Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát. Đã tu giới hạnh rồi, nếu thấy oai nghi nào không đúng ý mọi người thì Bồ Tát từ bỏ ngay. Sa môn nào có oai nghi giới hạnh đầy đủ thanh tịnh thì gần gũi họ. Nếu Bà la môn học các hạnh khác thì bảo họ xa lìa, khuyến khích họ tu Tỳ nại da. Tu tập giới hạnh thanh tịnh như vậy nên diệt sạch tâm xảo trá, tật đố. Tự hành hạnh bố thí cũng khuyên người làm theo. Tán thán hạnh bố thí làm cho người học theo, thấy người bố thí sanh tâm tùy hỷ, không có ý niệm nên bố thí cho ta đừng bố thí cho ai khác. Chỉ nên suy nghĩ: Đa số hữu tình đều bị nghèo thiếu, đói lạnh, khốn khổ, nguyện cho họ đời này được an vui, vì nghe chánh pháp nên đời sau an vui. Đời này ta phải siêng năng tu tập. Ta nguyện cùng hữu tình đều được giải thoát. Đây là Bồ Tát không có tâm tật đố, tâm luôn bình đẳng đối với các hữu tình. Nên hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật cho đến Nhất thiết tướng trí, đều khắp vì tất cả hữu tình không tu hai tâm. Vì sao? Vì pháp được tu là cảnh giới của cộng niệm chúng sanh, khiến mau giải thoát, tự mình thoát khỏi lửa sanh tử thì nguyện cho hữu tình cũng được ra khỏi.

Này Thiên vương! Ví như trưởng giả có sáu người con nhỏ dại ông đều yêu thương không có phân biệt. Trưởng giả ở ngoài thấy nhà bị cháy. Ý ngươi nghĩ sao? Có thấy trưởng giả suy nghĩ thế này không: “Đối với sáu đứa con kia, ta cứu đứa nào trước, đứa nào sau?”

- Bạch Thế Tôn! Không nên như vậy. Vì sao? Vì người cha luôn đem tâm bình đẳng đối với con cái.

- Thiên vương nên biết: Bồ Tát cũng vậy, vì những kẻ ngu si tham đắm trong sáu đường, đang ở trong nhà lửa sanh tử không biết đường ra, nên các Bồ Tát đem tâm bình đẳng dùng mọi phương tiện hướng dẫn họ thoát ra, để được an ổn trong cõi tịch tịnh.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, đối với các pháp cũng bình đẳng; vì hộ chánh pháp cúng dường Như Lai, dùng đầy đủ các thứ để cúng dường Như Lai, như thật tu hành để cúng dường Như Lai, làm lợi ích an lạc hữu tình để cúng dường Như Lai, giữ gìn thiện pháp của hữu tình để cúng dường Như Lai. Tùy thuận giáo hóa, hướng dẫn hữu tình, hành Bồ Tát đạo, việc làm đi đôi với lời nói, tâm mong cầu Vô thượng giác không hề mỏi mệt, làm như thế mới gọi là cúng dường chư Phật, chẳng phải đem của cải mới gọi là cúng dường. Vì sao? Vì pháp là thân Phật. Nếu cúng dường pháp tức là cúng dường Phật. Chư Phật Thế Tôn đều đến từ chỗ tu hành như thật, vì làm lợi ích an lạc cho hữu tình, vì hộ trì thiện pháp tùy thuận hữu tình. Nếu chẳng làm như vậy là trái với bổn nguyện, lười biếng giải đãi thì không thể thành tựu Bồ đề tâm. Vì sao? Vì Vô Thượng Bồ đề của Bồ Tát là của chung chúng sanh. Nếu không có chúng sanh, Bồ Tát làm thế nào có thể đắc Bồ đề.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tu hành chánh pháp cúng dường Như Lai gọi là chơn cúng dường. Cúng dường như thế để diệt tâm ngã mạn, xa lìa thế tục, cạo bỏ râu tóc, không còn liên hệ đến cha mẹ, anh em, bà con nội ngoại, giống như người đã chết. Tướng trạng và y phục đều khác người đời, dẹp tâm ngã mạn để ôm bình bát vào thành ấp, hoặc là bà con xóm làng, hoặc là đến những nhà nghèo cùng để xin ăn, nghĩ: Mạng sống của ta tùy thuộc vào người khác. Nhờ họ cho ăn, ta mới sống, do đó trừ được tâm ngã mạn. Lại nghĩ: Ta nên hoan hỷ với tư tuởng của thầy bạn, vì xưa chưa được nghe pháp mà nay được nghe. Nếu thấy người kia sân hận, tranh cãi, nên phải nhẫn nhục, khiêm nhường tránh đi. Bồ Tát như thế là trừ được tâm ngã mạn.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã thì sanh chánh tín bền chắc. Vì sao? Vì các công đức và năng lực thiện căn đời trước đã đầy đủ nhân lành, thành tựu chánh kiến, nội tâm thanh tịnh, không chạy theo cảnh bên ngoài, tâm hạnh kiên cố chánh trực, không theo ngoại đạo, không dối trá, các căn thông lợi, đầy đủ các Ba la mật, tâm được thanh tịnh, xa lìa triền cái, xa bạn ác, gần bạn lành, học hỏi lời hay, tâm không giải đãi, nghe lời thuyết pháp biết công đức Phật.

 

2.(Oai thần công đức của Như Lai)

 

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Cúi xin Đấng đại từ thương xót nói cho chúng con nghe về tướng đại oai thần công đức của Như Lai.

Phật bảo Tối Thắng:

- Này Thiên vương! Ngươi hãy lắng nghe và suy nghĩ. Ta sẽ nói một phần nhỏ về oai thần công đức của Phật.

Tối Thắng bạch Phật:

- Xin Thế Tôn nói cho.

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Đức đại từ của Như Lai vô biên, bao che hết hữu tình và cảnh giới hữu tình, cho đến 10 phương tận hư không giới đều được bảo hộ không thể so lường được. Đức đại bi của Như Lai hàng Thanh văn, Độc giác và các Bồ Tát đều không thể có được. Vì sao? Vì pháp bất cộng(5) cho nên không có một hữu tình nào ở 10 phương thế giới mà không được đức đại bi của Như Lai bao trùm. Pháp của Như Lai nói ra rốt ráo không cùng tận. Vì các loài hữu tình khắp 10 phương trải qua vô lượng kiếp, đức Như Lai đã dùng vô lượng nhân duyên nói các pháp yếu cũng không cùng tận. Nếu hữu tình dùng ngôn từ cú nghĩa để hỏi, thì chỉ trong 1 khảy móng tay đức Như Lai vì tất cả hữu tình đều phân biệt rõ ràng mà không ai có thể bắt bẻ được. Vì đức Như Lai đã đắc vô ngại tịnh lự ở cảnh giới thậm thâm không thể đo lường. Giả sử hữu tình ở các thế giới đều trụ thập địa Bồ Tát đến trăm ngàn kiếp, nhập vào Đẳng trì thù thắng cũng không thể đo lường cảnh định của Như Lai. Thân của Như Lai vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì tùy thuận tâm mong thấy của hữu tình nên chỉ trong 1 niệm đức Như Lai có thể hiện vô lượng thân khác nhau. Thiên nhãn của Như Lai tối thắng thanh tịnh, đức Như Lai đều thấy rõ các hữu tình ở tất cả thế giới với sắc tướng sai khác và các loại vật không đồng nhau như xem trái xoài trong lòng bàn tay; những ai có thiên nhãn cũng không thể sánh kịp. Thiên nhĩ của Như Lai tối thắng thanh tịnh nên đối với âm thanh khác nhau của tất cả hữu tình và tất cả âm thanh của các vật khác thì chỉ trong 1 niệm Như Lai đều nghe và hiểu rõ ý nghĩa của nó. Tha tâm trí của Như Lai thanh tịnh nên đối với mỗi suy nghĩ tạo nghiệp thọ quả khác nhau của hữu tình cũng chỉ 1 niệm, trong 4 oai nghi Phật đều biết rõ. Vì sao? Vì Phật thường ở trong định, không có tán loạn.

Thiên vương nên biết: Phật không thất niệm(6), tâm không tán loạn, không dùng căn duyên các cảnh. Vì sao? Vì xa lìa tập quán phiền não nên thanh tịnh tối thượng, tịch tịnh vô cấu. Người có phiền não, thất niệm, tán loạn, căn duyên các cảnh khác nhau. Đức Như Lai đắc vô lậu loại trừ cấu bẩn, được tất cả pháp tự tại bình đẳng, thường ở trong Đẳng trì và Đẳng chí nên Như Lai chỉ trụ 1 oai nghi, an trú trong Đẳng trì cho đến nhập Niết bàn. Chư thiên v.v... còn chưa thể biết được huống chi Như Lai đã trải qua vô lượng kiếp, tu tập vô lượng, vô biên Đẳng trì mà trời, người nào có thể biết được? Vì sao? Vì công đức của Như Lai không thể đo lường, không thể nghĩ bàn, không thể quán sát.

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Con nghe đức Như Lai trải qua ba vô số kiếp tu hành mới thành Phật. Vì sao nay nói tu vô lượng kiếp?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Nghĩa ấy không phải vậy. Vì sao? Vì Bồ Tát hướng đến quả vị Chánh đẳng Bồ đề phải tu vô lượng công đức mới được thành tựu, không phải trải qua chừng ấy kiếp số mà có thể chứng nhập pháp lý bình đẳng, phải tu rốt ráo mới thành Phật.

Tối Thắng bạch Phật:

- Lành thay! Lành thay! Đức Thế Tôn đã nói hoàn toàn pháp cốt yếu để khuyên tất cả hữu tình phát sanh các căn lành, xa lìa nghiệp chướng, muốn đạt quả Phật, tu Bồ Tát hạnh. Nếu hữu tình nào được nghe oai thần công đức của Như Lai mà sanh tâm hoan hỷ, khen ngợi, tin tưởng thì nên biết hữu tình ấy sẽ mau thành tựu oai thần công đức như Phật, huống nữa là thọ trì đọc tụng, biên chép, cúng dường, giảng giải cho người khác thì phước đức của người ấy không thể nghĩ bàn.

Phật bảo:

- Đúng như vậy! Đúng như vậy! Này Thiên vương! Hữu tình kia được Như Lai hộ trì vì trải qua nhiều số kiếp mà người đó đã gieo trồng căn lành, hoặc ở quá khứ đã cúng dường các đức Phật nên mới được nghe oai thần công đức của Phật.

Thiên vương nên biết: Thiện nam, thiện nữ nào tâm không nghi hoặc, trong bảy ngày tắm rửa sạch sẽ, mặc áo mới, cúng dường hương hoa, nhất tâm chánh niệm như trước đã nói về oai thần công đức của Phật, thì khi ấy Như Lai sẽ từ bi hộ niệm, hiện thân cho thấy, làm cho nguyện được đầy đủ. Nếu thiếu hương hoa v.v... cúng dường mà chỉ nhất tâm niệm công đức oai thần thì khi sắp qua đời sẽ được thấy Phật.

Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Có hữu tình nào nghe nói đại oai thần công đức của Như Lai như vậy mà không có lòng tin lại còn hủy báng nữa không?

Phật dạy:

- Cũng có, nghĩa là có hữu tình nghe nói pháp môn oai thần công đức của Như Lai như vậy sanh tâm sân hận, bất thiện rồi hủy báng, tưởng pháp sư là bạn ác. Người ấy sau khi qua đời sẽ đọa địa ngục chịu khổ nhiều kiếp. Nếu có hữu tình nghe nói đại oai thần và công đức của Như Lai như vậy mà vui mừng, tin thọ, tán thán, ghi nhớ, tưởng pháp sư là bạn lành thì sau khi qua đời được sanh lên cõi trời, dần dần tiến tu sẽ thành Phật.

Bấy giờ, Thế Tôn hiện tướng lưỡi rộng dài bao phủ khuôn mặt, cho đến đỉnh đầu rồi lại bao trùm khắp thân, kế đến che tòa Sư tử, rồi che khắp đại chúng Bồ Tát, đại chúng Thanh văn, sau đó mới che Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế, nhơn phi nhơn v.v... Sau cùng Như Lai thu tướng lưỡi và bảo đại chúng:

- Đức Như Lai có tướng lưỡi này không thể nói lời dối trá. Trong đại chúng hôm nay, Ta đã nói ra điều gì các ngươi đều nên tín thọ thì luôn được an vui.

Khi Phật thuyết pháp như vậy, ở trong đại chúng có tám vạn bốn ngàn Bồ Tát đắc Vô sanh pháp nhẫn, vô lượng hữu tình xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, vô số hữu tình đều phát tâm Vô Thượng Bồ đề.

 

Thích nghĩa:

 (1). A lan nhã: (阿蘭若) Phạm: Araịya, Pāli: Araĩĩa. Còn gọi là A luyện như, A luyện nhã, A lan na, A la nhưỡng, A lan noa. Nói tắt là Lan nhã, Luyện nhã. Dịch là núi rừng, đồng hoang. Chỉ những nơi yên tĩnh vắng vẻ, thích hợp với những người xuất gia tu hành để cư trú. Còn dịch là nơi xa lìa, nơi vắng lặng, nơi rất thanh thoát, không tranh giành. Tức là nơi vắng vẻ cách xa làng mạc một câu lư xá, thích hợp cho người tu hành. Chỗ ấy, hoặc người ở nơi ấy thì gọi là A lan nhã ca (Phạm: Àraịyaka). Cứ theo Tuệ uyển âm nghĩa quyển thượng chép, thì A lan nhã có ba loại: 1. Đạt ma a lan nhã (Phạm: Dharma araịya), là đạo tràng cầu Bồ đề. 2. Ma đăng già a lan nhã (Phạm: Màtaga-araịya), là nơi tha ma hoặc là nơi cách xa làng mạc một câu lư xá, tức một quãng xa mà tiếng bò kêu không nghe thấy. 3. Đàn đà già a lan nhã (Phạm: Daịđaka-araịya), tức nơi bãi cát xa xôi không thấy khói của người ta đun nấu. Đến đời sau, tất cả chùa chiền tịnh xá đều gọi là A lan nhã, phần nhiều cách xa nơi phồn hoa đô hội, là những chỗ yên tĩnh tiện cho người xuất gia tu hành, và người tại gia ra vào lễ bái. Ngoài ra, các tỉ khưu tu hành mà thường xuyên ở nơi A lan nhã, thì gọi là A lan nhã hạnh, là một trong mười hai hạnh đầu đà. [X. luận Đại tì bà sa Q.136; Đại nhật kinh sớ Q.3; Câu xá luận quang kí Q.13; Đại thừa nghĩa chương Q.15; Huyền ứng âm nghĩa Q.23]. Phật Quang Tự điển.

Còn nói “niệm A la nhã” có nghĩa là người tu luôn luôn nghĩ tưởng đến những chỗ yêu tĩnh, tránh xa cảnh ồn náo làm rối loạn định tâm.

(2). Y phấn tảo: Còn gọi là Phấn Tảo Y (糞掃衣, y quét phân), Cát Tiệt Y (割截衣, y cắt ra từng mảnh), Nạp Y (衲衣, y nghèo nàn), Điền Tướng Y (田相衣, y có hình như ô ruộng), Phước Điền Y (福田衣, y ruộng phước), Công Đức Y (功德衣, y công đức), Giải Thoát Y (解脫衣, y giải thoát), v.v… Tệ Y và Phấn Tảo Y là loại y nguyên lai người ta lượm những mảnh vải vứt bỏ ở các nghĩa trang hay đống rác, rồi đem giặt, nhuộm màu vàng và kết thành.- Rút gọn Phật học Tinh tuyển.

(3). Tam y: (三衣) Phạm: Trìịi cìvaràịi. Pàli: Tìịi cìvaràịi. Chỉ cho 3 thứ áo của tỉ khưu. Đó là: 1- Tăng già lê(Phạm, Pàli:Saôphàti), cũng gọi Cửu điều y, Đại y, Trọng y, Tạp toái y, Cao thắng y. Áo mặc chính, gồm 9 đến 25 nẹp vải khâu lại mà thành, mặc mỗi khi vào làng xóm, thành ấp khất thực, hoặc vâng chiếu chỉ vào cung vua. 2. Uất đa la tăng (Phạm, Pàli: Uttarasaíga), cũng gọi Trung giá y, Nhập chúng y, Thất điều y. Áo 7 nẹp, mặc khi lễ bái, nghe giảng, bố tát... 3. An đà hội (Phạm:Antarvàsa, Pàli: Antarvàsaka), cũng gọi Trung y, Trung túc y, Nội y, Ngũ điều y. Áo 5 nẹp, mặc khi làm công việc hoặc khi ngủ.

Theo qui định, 3 áo trên đây đều được may bằng loại vải thô xấu và nhuộm bằng hoại sắc (Phạm:Kawàya) vì thế, 3 áo còn có tên là Ca sa. Mặc loại áo này khiến người ta xả bỏ được các dục vọng và không sợ bị lấy trộm, vì nó vô dụng đối với người thế gian, cho nên cũng được gọi là Phẩn tảo y (Phạm: Pàmwu-kula).[X. luật Ma ha tăng kì Q.23; Tát bà đa tì bà sa Q.4; luận Đại trí độ Q.68; luận Phân biệt công đức Q.4; Đại tỉ khưu tam thiên uy nghi Q.thượng]. (xt. Ca Sa).- Phật Quang Từ điển.

(4). Pháp Tỳ nại da: Vinaya (skt). (A) Nghĩa của Tỳ Nại Da—The meanings of Vinaya: Giới luật mà Đức Phật đã giảng thuyết: Ordinances—Moral training; the disciplinary rules; the precepts and commands of moral asceticism and monastic discipline, said to have been given by Buddha. (B) Tác dụng của Tỳ Nại Da—The purposes of Vinaya: 1) Diệt tội: Destroying sin. 2) Điều phục thân khẩu ý: Subjugation of deed, word, and thought. 3) Ly hành ác nghiệp: Separation from evil action.- Từ điển Việt-Anh – Thiện Phúc.

(5). Bất cộng pháp: (不共法). Chỉ pháp công đức riêng. Là đặc chất thù thắng duy Phật và Bồ Tát mới có đầy đủ, chứ phàm phu và Thanh văn, Duyên giác không có. Trong các kinh luận Đại thừa, Tiểu thừa, đối với bất cộng pháp này, nói rất khác nhau. Thông thường, 10 lực, 4 vô sở úy, 3 niệm trụ và đại bi của đức Phật được hợp lại, gọi là 18 pháp bất cộng. - Phật Quang Từ điển.

(6). Thất niệm (失念) Phạm: Musita-smftità. Cũng gọi Vọng niệm. Đối lại: Niệm. Tên của tâm sở 1 trong 100 pháp. Chỉ cho tác dụng tâm không có khả năng ghi nhớ rõ ràng cảnh sở duyên và các thiện pháp.

 

Lược giải:

 

1. Bồ Tát trụ tâm như thế nào?

 

Bồ Tát tu hành Bát Nhã làm sao giữ tâm trong chánh niệm? Giữ tâm trong chánh niệm, nên gọi là an trụ tâm. Bồ Tát tu hành Bát Nhã thực hành bốn niệm trụ (thân, thọ, tâm, pháp) thì có thể an trụ tâm. Bốn niệm trụ đó còn gọi là Tứ Niệm Xứ, gồm có: 1- Thân Niệm Xứ: Quán thân bất tịnh; 2- Thọ Niệm Xứ: Quán sự thọ thị khổ; 3- Tâm Niệm Xứ: Quán tâm vô thường; 4- Pháp Niệm Xứ: Quán hết thảy pháp đều vô ngã.

Nhờ quán pháp môn này mà Bồ Tát có thể cột tâm vào một điểm, đề phòng vọng tưởng tạp niệm để tâm đạt được an vui trong cảnh giới vắng lặng mà sanh tuệ. Đó cũng là phương tiện của thiền. Nhờ phương tiện này nên chư Phật chư Bồ Tát đưa chúng sanh vào Đạo. Đó cũng là phương tiện hữu hiệu trong việc khuếch trương và bành trướng Đạo

Hơn nữa Bồ Tát thường tu hạnh A lan nhã, nghĩa là thích ở nơi vắng vẻ, tu phạm hạnh. Đối với các căn không phát sanh tội lỗi, xa lìa ngã-ngã sở, không đắm trước thân, thường hành tịch tĩnh, thích hạnh Đầu đà. Chính luyện thân tâm như vậy, nên Bồ Tát mới có thể xa lìa phiền não sống an vui trong chánh định, đi đứng nằm ngồi, sáu thời lúc nào cũng sống trong rõ ràng thường biết!

Tâm Bồ Tát ít muốn, biết đủ nên chẳng cần tầm cầu cất giữ, vì không cất giữ nên không sợ mất, vì không sợ mất nên tránh được lo âu buồn phiền, vì không lo âu buồn phiền nên có thể xa lìa phiền não, vì lìa phiền não nên không đắm trước, vì không đắm trước thì các lậu diệt tận.

Vì vậy, Phật bảo:

- “Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, chỉ vì hộ pháp chứ không vì lợi dưỡng, vì để cho hạt giống Tam bảo không đoạn tuyệt chứ không phải vì sự cung kính, cúng dường. Vì làm chỗ nương tựa cho người không có chỗ nương tựa, cứu giúp cho người không được cứu giúp, an lạc người không an lạc, làm cho người không có tuệ nhãn được tuệ nhãn v.v...

Vì thế, các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, sanh được chánh tín bền chắc”.

 

2. Oai thần công đức của Như Lai không thể kể hết.

 

Đức đại từ của Như Lai vô biên, bao trùm hết hữu tình và cảnh giới hữu tình, cho đến 10 phương tận hư không không thể so lường. Đức đại bi của Như Lai hàng Thanh văn, Độc giác và các Bồ Tát đều không thể bì kịp. Thân của Như Lai vô lượng, vô biên. Vì tùy thuận tâm mong cầu của hữu tình nên chỉ trong một niệm, đức Như Lai có thể hiện vô lượng thân khác nhau cho bất cứ chúng sanh nào mong ước muốn diện kiến. Các thần thông của Như Lai tối thắng tối thượng thanh tịnh, không thể tưởng tượng, không thể nghĩ lường.

Rồi Phật bảo:

- “Thiên vương nên biết! Phật không thất niệm, tâm không tán loạn, căn không duyên các cảnh. Vì sao? Vì xa lìa tập quán phiền não nên thanh tịnh tối thượng, tịch tịnh vô cấu. Đức Như Lai đắc vô lậu loại trừ cấu bẩn, được tất cả pháp tự tại bình đẳng, thường ở trong Đẳng trì và Đẳng chí nên Như Lai chỉ trụ một oai nghi, an trú trong Đẳng trì cho đến nhập Niết bàn. Chư thiên v.v... còn chưa thể biết được huống chi Như Lai đã trải qua vô lượng kiếp, tu tập vô lượng, vô biên Đẳng trì mà trời, người nào có thể biết được? Vì sao? Vì công đức của Như Lai không thể đo lường, không thể nghĩ bàn, không thể quán sát”.

 

Thế Tôn liền hiện tướng lưỡi dài rộng, trùm cả tam thiên đại thiên, rồi bảo đại chúng:

- “Đức Như Lai có tướng lưỡi này không thể nói lời dối trá. Trong đại chúng hôm nay, Ta đã nói ra điều gì các ngươi đều nên tín thọ thì luôn được an vui”.

Nhờ tu các pháp môn trên chư Phật có đạo hạnh công đức, các thần thông, các biện tài vô ngại. Bao nhiêu lời chân thật từ tốn của Thế Tôn, truyền lại cho Thắng Thiên Vương cũng là lời truyền dạy thiết tha của Thế Tôn dành cho những người con Phật hôm nay. Vậy, cố gắng theo bước chân của đức từ phụ tự tu tập đạo hạnh để giúp mình người được an vui giải thoát.

Rồi Thế Tôn khuyến dẫn:

“... Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã tu tập hạnh Không, diệt pháp hý luận, suy nghĩ: Cảnh giới sở quán đều Không, tâm năng quán cũng chẳng có, không có hai loại sai khác về năng quán, sở quán. Các pháp nhất tướng còn gọi vô tướng, suy nghĩ như thế thì không còn giữ tướng trong ngoài, không thấy thân, không thấy tâm cũng không thấy pháp, liên tiếp tu tập chỉ quán theo thứ lớp. Quán như vậy gọi là như thật thấy pháp. Chỉ nhất tâm bất loạn. Bồ Tát tu quán hạnh như thế rồi liền được tịnh giới. Vì giới thanh tịnh nên hạnh cũng thanh tịnh. Đây là quán hạnh thanh tịnh của Bồ Tát hành sâu Bát Nhã”.

Phật bảo tiếp:

- “Trước hết là phải tu tập chỉ quán để được tịnh giới. Giới thanh tịnh thì hạnh cũng thanh tịnh”.

Nên Phẩm “Pháp Tánh” Q.569, Hội thứ VI, ĐBN, Phật cũng bảo:

“... Bồ Tát nào chỉ tu một hạnh là đầy đủ các pháp. Như vậy, một hạnh cũng sanh về cõi Phật thanh tịnh. Vì sao? Vì trong mỗi một hạnh đầy đủ các hạnh”.

Tu tịnh hạnh như vậy thì hạnh nguyện sớm vuông tròn tức mau chứng pháp thân. Vì vậy, học phẩm này nên nhớ câu: “Người khéo chánh niệm thì xa lìa các phiền não”. Hết phiền não tức Bồ đề hay chứng Thánh, chứng Thánh thì giải thoát chớ chẳng có chi khác.

 

Để kết luận phẩm này nên ghi nhớ lời Phật dạy Thắng Thiên Vương cũng chính là lời Phật dạy đối với chúng ta hôm nay, ai cũng có phần:

- “Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, thường siêng tu học hạnh A lan nhã, nghĩa là tu phạm hạnh. Đối với các căn không phát sanh tội lỗi, ưa học hỏi, kham nhẫn tu chánh hạnh, xa lìa ngã và sự sợ hãi, không đắm trước thân, thường hành tịch tĩnh. Các Bồ Tát này thường ưa xuất gia ở trong chánh pháp, giữ tam luân giới, biết rõ pháp tướng. Như Lai đã từng thuyết giới cho ba hạng người già, trẻ, trung niên đều được thấu hiểu, chẳng duyên ngoại cảnh, chuyên niệm tự tâm, chê pháp thế tục, khen pháp xuất gia, điều phục các căn, không chấp giữ cảnh giới ác. Ở A lan nhã, sống nơi không có hiểm nạn, làng xóm khất thực, không xa không gần, nơi ấy có suối nước trong tắm rửa dễ dàng, rừng nhiều hoa quả, không có thú dữ, hang núi yên tĩnh, ít người lui tới. Đối với pháp đã học đêm ngày ba thời chuyên cần đọc tụng, tiếng không cao, thấp. Tâm không duyên ngoại cảnh chỉ chuyên trì nhớ niệm. Bà la môn, Sát đế lợi v.v... có đến chỗ ấy thì niềm nở, vui mừng thăm hỏi, mời ngồi. Quán biết căn tánh để thuyết pháp cho họ được hoan hỷ, tín thọ, vâng làm. Dùng đủ phương tiện khéo léo giúp họ xa lìa ngã tâm. Vì vô ngã nên ở nơi vắng vẻ không có sợ hãi, xa lìa sợ hãi nên vui hạnh tịch tĩnh. Bồ Tát dùng phương tiện thiện xảo như thế nên thị hiện tu hành ở nơi A lan nhã.

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã quán biết các hành, suy nghĩ: Các thức ăn uống đều trong sạch thơm tho, nhưng do lửa thân tiếp xúc biến thành bất tịnh, hủy hoại hôi hám. Người ngu vô trí luyến ái thân này và đồ ăn uống. Nếu theo Thánh trí như thật quán sát thì sanh tâm chán ghét không còn say đắm. Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, suy nghĩ: Nhiều hành động sân giận thì sẽ gây nghiệp ác, ta phải lìa tâm sân để hướng đến chánh đạo, suy nghĩ chân thật chứ chẳng nói suông. Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, suy nghĩ: Các pháp có sanh tức là nhân duyên, nhân duyên của pháp lại từ duyên khởi. Làm sao người trí vì pháp duyên sanh hư vọng mà tạo tội lỗi? Trong thân Bồ Tát nếu có chướng ngại thiện pháp tức tự đoạn trừ. Nếu không thể đoạn chướng ngại điều lành cho người khác, thì tâm liền buông xả, không nên phát khởi vô minh.

Thế nào gọi là pháp chướng ngại điều lành? Nghĩa là không cung kính Phật, Pháp, Tăng và giới thanh tịnh, không kính đồng học, tự cao khinh thường những người lớn, nhỏ, già, trẻ, hướng đến năm dục, quay lưng với Niết bàn và phát sanh ngã kiến, hữu tình kiến, cho đến tri giả kiến, kiến giả kiến, chấp không rồi khởi lên đoạn kiến, chấp có, rồi khởi lên thường kiến, xa lìa Thánh hiền, gần gũi phàm phu, nương người phá giới, thân gần bạn ác, xa lìa bạn lành, pháp thâm sâu nghe rồi sanh tâm hủy báng. Thân làm việc ác luật nghi, lời nói ác, tâm nịnh hót, quanh co, bị phiền não che lấp, tham đắm lợi dưỡng, phát sanh đủ 5 mạn:

(…)Thấy việc ác liền giúp sức, gặp việc thiện lại tránh xa, khen ngợi sắc đẹp của đàn bà, con nít, ngoại đạo, không ưa tu tập hạnh A lan nhã, không biết ăn uống đúng lúc, tuy có đọc tụng mà chẳng đúng thời, xa lìa Sư trưởng, thấy việc thiện không tôn trọng, thấy việc ác không sợ hãi, như voi không có móc, ngựa không dây cương, buông lung chẳng chế ngự được, ưa sân giận, không có từ tâm, thấy người khổ không thương, gặp người bệnh không thăm hỏi, gặp người chết không lo sợ, như sống trong đống lửa mà không mong cầu ra khỏi, việc đáng làm không làm, việc không đáng làm lại làm, việc không đáng suy nghĩ suy nghĩ, việc đáng suy nghĩ không suy nghĩ, việc chẳng mong cầu thì cầu, không ra khỏi bảo đã ra khỏi, chẳng phải đạo gọi là đạo, chưa chứng đắc cho là chứng đắc, ưa huân tập việc đại ác, xa lìa điều thiện lớn, hủy báng Đại thừa và người hành Đại thừa, khen ngợi Tiểu thừa và người học Tiểu thừa, ưa nói lời thô ác, làm loạn, đấu tranh, tâm không từ bi làm cho người khác phải khiếp sợ, nói lời thô bỉ không có một chút chơn thật, say mê theo hý luận không thể bỏ được. Các việc như vậy gọi là pháp chướng ngại điều lành.    

Thiên vương nên biết: Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã tu tập hạnh Không, diệt pháp hý luận, suy nghĩ: Cảnh giới sở quán đều Không, tâm năng quán cũng chẳng có, không có hai loại sai khác về năng quán, sở quán. Các pháp nhất tướng còn gọi vô tướng, suy nghĩ như thế thì không còn giữ tướng trong ngoài, không thấy thân không thấy tâm cũng không thấy pháp, liên tiếp tu tập chỉ quán theo thứ lớp. Quán như vậy gọi là như thật thấy pháp. Chỉ là nhất tâm bất loạn. Bồ Tát tu quán hạnh như thế rồi liền được tịnh giới. Vì giới thanh tịnh nên hạnh cũng thanh tịnh. Đây là quán hạnh thanh tịnh của Bồ Tát hành sâu Bát nhã Ba la mật”.

Thiết nghĩ đây là những chỉ dẫn hết sức thiết thực kẻ tục hay người xuất gia đều phải tuân hành, nếu muốn tròn đạo hạnh. Chưa có bài pháp nào chi ly như các lời khuyến dẫn của Hội thứ VI, ĐBN cũng như Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã” này. Nếu phụng trì nghiêm chỉnh sẽ được thắng lợi trong đời này hay trong nhiều đời khác nữa, chắc chắn sẽ được an vui giải thoát thôi.

Ở đây chẳng có gì gọi là chiết giải Hội cũng như Kinh thuyết giảng quá rõ ràng, chỉ cần chấp hành nghiêm chỉnh là được./.

 

---o0o---

 

 

 

 

 

 

 

 

06. PHẨM “PHÁP TÁNH”(1).

 

Trọn quyển 569, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương phẩm 5: “Pháp Tánh”, Kinh TTVBN)

  

Gợi ý:

Phẩm trên chúng ta vừa thảo luận về “Pháp Giới” (cuối Q.567 đến Q.568). Phẩm này lại nói về “Pháp Tánh”. Các Hội trước của Kinh Đại Bát Nhã đã nhiều lần thuyết về “thập nhị Chơn Như”, nhưng không tách riêng chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, v.v... thành các phẩm riêng như Hội thứ VI này. Bởi vì trong thập nhị chơn như, tất cả đều như như, không hai không khác. Nhưng tại sao trong Hội thứ VI lại tách pháp giới và pháp tánh ra làm hai và thuyết trong hai phẩm khác nhau? Kinh trả lời trong phần chánh văn như sau:

 

Tóm lược:

 

Quyển 569

 

“Bấy giờ, Tối Thắng rời tòa đứng dậy, lệch áo(2) che vai trái, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính bạch:

- Bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Đức Thế Tôn đã khéo thuyết đại oai thần và công đức vi diệu của chư Phật. Chư Phật Như Lai nhờ đâu mà đắc đại oai thần công đức vi diệu này. Nguyện Thế Tôn phân biệt giải nói.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết, hành động của Như Lai và kết quả đạt được thậm thâm vi diệu, không thể nghĩ bàn.

Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Phật hành pháp gì mà gọi là thậm thâm vi diệu, không thể nghĩ bàn?

Phật dạy:

- Nhân quả pháp tánh Như Lai thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn, oai thần công đức và pháp đã nói ra làm lợi lạc cho người cũng như vậy.

Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Tại sao lại gọi pháp tánh thậm thâm vi diệu không thể nghĩ bàn?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Pháp tánh của Như Lai ở trong uẩn, xứ, giới của hữu tình từ vô thủy đến nay nối tiếp nhau chẳng nhiễm phiền não, bản tánh thanh tịnh. Tất cả tâm, ý, thức không thể do duyên khởi. Tất cả tìm cầu khác không thể phân biệt, tư duy về tà niệm không thể duyên với suy nghĩ, xa lìa tà niệm, vô minh không sanh. Vì thế, chẳng sinh từ mười hai Duyên, gọi là vô tướng tức pháp chẳng phải tạo tác, không sanh, không diệt, vô tận, vô biên, tự tại thường trụ.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, biết được pháp tánh thanh tịnh như vậy nên không nhiễm trước, không dính mắc, xa lìa cấu uế, từ các phiền não vượt lên giải thoát. Tánh này là pháp căn bản của chư Phật, nhân đây mà sanh phước đức, trí tuệ, bản tánh minh tịnh không thể nghĩ bàn.

Này Thiên vương! Ta sẽ nói thí dụ, ngươi nên lắng nghe, và suy nghĩ ghi nhớ.

Thiên Vương bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Cúi xin Ngài nói cho.    

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Ví như bảo châu như ý vô giá, là vật trang sức sáng rỡ, trong sạch, khả ái, rất tròn và trong suốt không có vẩn đục, dù có chôn vùi trong đất bùn qua thời gian dài, ai nhặt được đều vui mừng giữ cất cẩn thận không cho rơi mất. Cũng vậy, pháp tánh tuy ở trong phiền não nhưng không bị nhiễm, sau lại hiển hiện.

Này Thiên vương! Chư Phật đều biết tự tánh hữu tình rất thanh tịnh, nhưng bị khách trần phiền não che lấp nên chẳng thể vào được tự tánh. Do đó, Bồ Tát hành sâu Bát Nhã nên suy nghĩ thế này: “Ta phải tinh siêng vì các hữu tình nói Bát Nhã, trừ phiền não cho họ khiến được ngộ vào. Vì tất cả hữu tình bản tánh đều thanh tịnh, phải khởi tôn trọng chẳng nên khinh bỏ, nên xem như Đại sư mà cúng dường”. Các Bồ Tát này do khởi nghĩ này bèn năng sanh khởi Bát Nhã Đại bi.

Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như vậy liền chứng nhập địa vị Bất thối chuyển. Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã nghĩ như thế này: Các phiền não đây không lực không năng, tự thể hư dối, trái với pháp thanh tịnh. Vì sao? Vì nghịch Nhất thiết trí, thuận đường sanh tử. Pháp tánh thanh tịnh là gốc các pháp, tự tánh vốn không hư dối, phiền não đều từ tà niệm điên đảo mà sanh.

Thiên vương nên biết! Ví như bốn đại nương vào hư không để kiến lập, mà hư không không có chỗ nương nên phiền não cũng vậy. Bốn đại nương vào pháp tánh, pháp tánh không có chỗ nương. Các Bồ Tát thực hành Bát Nhã quán biết rõ như thật, nên chẳng khởi trái nghịch, vì tùy thuận nên phiền não không sanh(3).

Các Bồ Tát này quán sát phiền não, chẳng sanh nhiễm trước là khởi nghĩ này: Nếu tự nhiễm trước, làm sao nói pháp khiến người ra khỏi. Vậy nên Bồ Tát đoạn diệt tâm nhiễm trước, như thật thuyết giáo tháo gỡ trói buộc cho hữu tình.

Các Bồ Tát suy nghĩ: Nếu trong sanh tử có một phiền não vì lợi ích chúng sanh ta liền thọ nhận.

Các Bồ Tát lại nghĩ: Xưa kia, chư Phật hành sâu Bát Nhã diệt các phiền não, ngày nay ta cũng như vậy. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai xưa ở nhân địa(4) cũng học như thế thành Bồ đề vậy.

Các Bồ Tát đây do các duyên này phương tiện khéo léo quán biết pháp tánh. Pháp tánh như thế vô lượng vô biên bị các phiền não che lấp, trôi theo sinh tử, chìm nổi sáu đường, suốt dòng sinh tử luân chuyển theo chúng sanh, nên gọi là tính chúng sanh.

 

(Phật chỉ rõ pháp tánh ở đây, nhưng khó nhập khó vào. Phật tánh, chúng sanh tánh cùng nằm trong pháp tánh. Phật tánh luôn luôn thanh tịnh bất nhiễm, ai cũng có. Nhưng chúng sanh vì bị khách trần phiền não nên trôi lăn trong ba cõi sáu đường suốt dòng sinh tử luân chuyển theo chúng sanh, nên gọi là chúng sanh tánh. Tu là để thấy tánh (Phật tánh). Thấy tánh là trở trề quê cũ để an thân lập mệnh).

 

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã khởi tâm nhàm chán, trừ 5 cảnh dục, diệt các sự phân biệt để tu đạo Vô thượng. Lúc đó tánh này được gọi là xuất ly, vì vượt tất cả khổ nên gọi là vắng lặng, là pháp cứu cánh mà tất cả thế gian mong cầu. Nhất thiết chủng trí thường trụ nhiệm mầu, nương pháp tánh này mà được tự tại, thọ ngôi Pháp vương.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, quán sát giai vị trước, giữa và sau pháp tánh đều bình đẳng, xưa nay vắng lặng, không bị các pháp làm chướng ngại, giống như hư không không bị sắc ngại. Các Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, quán sát biết rõ đúng lời chư Phật dạy, nói ra tất cả diệu hạnh như pháp tu hành. Công đức pháp tánh không thể nói hết, không có 2 tướng, vượt cảnh nhất dị, bình đẳng nhất tướng. Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như thế có khả năng trừ được 2 tướng: Nhân tướng và pháp tướng. Tất cả phàm phu do chấp trước trói buộc nên không hiểu, không thấy, không rõ pháp tánh. Các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã thì hay thông đạt pháp tánh như thế. Nên thấy ở chúng sanh cũng không hai, không khác. Vì trong tướng như không có sai khác.

 

(Trong phẩm “Pháp Giới” nói pháp giới chẳng khác chơn như, trong phẩm “Pháp Tánh” này cũng nói pháp tánh chẳng khác chơn như. Tại sao? Vì pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, chơn như… là một như, không hai không khác, đều nằm trong thập nhị chơn như hay nói khác tất cả đều là chơn như thật tướng Tánh không vậy).

 

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, nương vào pháp tánh này để tu tập căn lành, ra vào ba cõi, làm lợi ích cho hữu tình, tuy hiện vô thường mà chẳng chơn thật. Vì sao? Vì các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như thật quán biết chơn pháp tánh. Nên đầy đủ phương tiện đại bi, nguyện lực không bỏ hữu tình. Nhị thừa phàm phu vì không có đại bi nguyện lực như vậy, nên không thấy pháp tánh viên mãn thanh tịnh, không thể như thật lợi ích chúng sanh.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã có thể quán sát pháp tánh chơn tịnh như thế, tất cả Thánh giả như thật ngộ nhập. Không có người tu và pháp để tu, không có người thực hành và pháp để hành, không tâm, không có pháp thuộc tâm, không nghiệp, không quả báo, không khổ, không vui. Quán sát như thế gọi là bình đẳng, không phân chia, xa lìa tùy thuận quảng đại, không ngã, ngã sở, không cao, không thấp, chơn thật vô tận, thường trụ trong sáng. Vì sao? Vì tất cả Thánh pháp do đây mà thành thục, nhờ tánh này nên các bậc Thánh hiển hiện vô biên công đức và pháp bất cộng của chư Phật Như Lai đều từ tánh này xuất sanh. Giới, định, tuệ của tất cả Thánh giả đều từ tánh này sanh ra. Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát, Phật đều từ tánh này sanh ra. Tánh này vắng lặng vượt các danh tướng. Tánh này chơn thật, xa lìa điên đảo. Tánh này chẳng biến đổi nên gọi là như Thánh trí, gọi là Đệ nhất nghĩa; chẳng có, chẳng không, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng phải sanh tử, chẳng phải Niết bàn, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, lìa nhất dị, không danh, không tướng.

Thiên vương nên biết! Các Bồ Tát này lại khởi nghĩ: Pháp tánh lìa tướng. Các pháp lìa tướng không hai không khác. Vì sao? Vì các pháp lìa tướng tức pháp tánh lìa tướng. Pháp tánh lìa tướng tức hữu tình lìa tướng. Hữu tình lìa tướng tức pháp giới lìa tướng. Pháp giới lìa tướng tức các pháp lìa tướng. Lìa tướng như thế cầu chẳng thể được.

 

1.(Nói pháp tánh mà cũng đề cập đến chơn như)

 

Pháp tánh như, hữu tình như không hai, không khác. Hữu tình như, pháp tánh như không hai, không khác. Pháp tánh như, các pháp như không hai, không khác. Các pháp như, chư Phật như không hai, không khác. Pháp tánh như, như đó ba đời không trái nghịch nhau. Quá khứ như, vị lai như không trái nghịch nhau. Vị lai như, hiện tại như không trái nghịch nhau. Hiện tại như, quá khứ như không trái nghịch nhau. Uẩn, xứ, giới ba đời như. Uẩn, xứ, giới như tức nhiễm tịnh như. Nhiễm tịnh như tức sanh tử Niết bàn như. Sanh tử Niết bàn như tức các pháp như.

Thiên vương nên biết! Nói Như như chính là Bất dị; không đổi, không sinh, không tranh, chân thực. Vì không tranh nên gọi là Như, thấy biết như thực các pháp không sinh. Các pháp tuy sinh, nhưng Như Như bất động. Như như tuy sanh các pháp mà như đó chẳng sanh. Đó gọi là Pháp thân thanh tịnh, bất biến như hư không, vô đẳng đẳng, không có một pháp nào trong tam giới có thể sánh bằng. Khắp thân chúng sanh, không có cái tương tợ; thanh tịnh lìa cấu, xưa nay không nhiễm; tự tính trong sáng, thanh tịnh; tự tính không sinh; tự tính không khởi. Ở tâm, ý, thức mà không phải tánh của tâm, ý, thức; tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Khắp cõi hư không, khắp chúng hữu tình đều bình đẳng, vô lượng, vô biên, không có sai biệt. Không phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Không phải địa, thủy, hỏa, phong; không lìa địa, thủy, hỏa, phong. Không phải sanh, không lìa sanh. Tuy nghịch sanh tử nhưng chẳng thuận Niết bàn. Mắt không thể thấy, tai không thể nghe, mũi không thể ngửi, lưỡi không thể nếm, thân không thể xúc chạm, ý không thể biết. Không ở tâm, ý, thức, không lìa tâm, ý, thức.

Thiên vương nên biết! Đấy là pháp tánh. Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, vì thông suốt pháp tánh này nên tu hành thanh tịnh, thì Tam thiên đại thiên thế giới, như xóm làng, thành ấp ở châu Thiệm bộ, Bồ Tát đều có thể thị hiện sắc thân. Các thân hiện ra chẳng phải sắc, chẳng phải tướng mà hiện sắc tướng. Tuy chẳng phải cảnh giới hoạt động của sáu căn mà giáo hóa hữu tình không dừng nghỉ, để nói rằng thân này vô thường, vô ngã, là khổ, bất tịnh. Biết các hữu tình có tánh vắng lặng, nên thị hiện vô lượng thân hình, dùng phương tiện thiện xảo làm cho họ nhận lãnh sự giáo hóa. Vì biết tất cả thân đều không tác giả, không thọ giả, như gỗ đá v.v... nên nói hạnh thanh tịnh cho các hữu tình.

 

(Trên thì nói “pháp như” hay chơn như thật tướng của tất cả pháp, dưới kết luận đấy là “pháp tánh”. Vì vậy, Kinh thường hay diễn nói “như” như pháp giới, như pháp tánh, như thật tế …, tất cả đều bình đẳng, như như không hai không khác, vô tận vậy).

 

Các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã thông suốt pháp tánh như thế, nên được tự tại, không có di động mà khởi trí tuệ, tự tại trong thần thông, thị hiện các loại, an trụ tự tại mà có thể thị hiện các oai nghi, tự tại hướng đến Nhất thiết tướng trí, tất cả các pháp, thảy đều thông đạt.          

Thiên vương nên biết! Hành sâu Bát Nhã được tự tại như thế là tướng vô tận. Ở khắp các chỗ, không sắc hiện sắc. Tự tại quán sát khắp tâm hữu tình thấy tâm tánh như thật. Tự tại nhớ nghĩ vô biên, vô số kiếp nối nhau chẳng dứt. Biến hóa tự tại, trụ tướng giải thoát; tự tại lậu tận, nhưng vì chúng sanh, không chứng Lậu tận tự tại xuất thế. Cảnh Thánh trí này, tự tại sâu xa, Thanh Văn, Duyên Giác không thể đo lường; tự tại vững chắc, Ma không thể phá; có thể đến được đạo tràng, thành tựu Phật pháp tối thắng đệ nhất; tự tại tùy thuận chuyển Đại pháp luân; tự tại điều phục, giáo hóa tất cả chúng sanh, nhận lãnh ngôi vị đắc pháp tự tại.

 

2.(Nói pháp tánh nhưng cũng đề cập tới bình đẳng)

 

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, như thật thông suốt pháp tánh sâu xa nên được tự tại như thế, tu tự tại như thế nên được tất cả tịnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, không còn lệ thuộc vào ba cõi. Vì sao? Vì xa lìa tất cả phân biệt hư vọng, phiền não ràng buộc chấp tướng điên đảo. Nếu muốn thọ sanh thì không còn ràng buộc, thọ sanh tự tại. Nếu muốn thị hiện diệt độ thì tùy theo sanh xứ của mình để thị hiện diệt độ, giữ gìn Đại thừa và thành tựu Phật pháp. Ở trong 10 phương tìm cầu Phật pháp chắc chắn không thể được. Biết rõ tất cả pháp đều là Phật pháp, không thường, không đoạn. Vì sao? Vì tìm cầu pháp này không thể được. Dùng lý như thật tìm cầu không thể được. Pháp này không thể nói có, nói không, cũng không có danh tướng, vượt cảnh giới này. Nếu lìa danh tướng tức là bình đẳng. Nếu pháp bình đẳng thì không chấp trước. Vì không chấp trước nên là pháp chơn thật. Nếu chấp chơn thật tức là hư vọng. Vì chẳng chấp trước nên chẳng hư vọng. Vì tâm không bị chấp trước nên vô ngại. Vô ngại tức vô chướng. Vô chướng tức không tranh. Nếu không tranh tức đồng với hư không, chẳng lệ thuộc vào 3 cõi. Nếu tất cả xứ không còn bị lệ thuộc thì pháp này vô sắc, vô tướng, vô hình. Nếu pháp vô sắc, vô tướng, vô hình, nên biết pháp ấy tùy theo cảnh giới kia nhưng lìa sự biết và đối tượng để biết. Vì sao? Vì trong ấy không có một chút pháp nào để giác ngộ, có thể giác ngộ. Đó là Bồ Tát hành sâu Bát Nhã thông suốt bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã quan sát pháp sanh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả hoàn toàn không thấy ngã, không thấy hữu tình cho đến không thấy người biết và người thấy. Tuy hành bố thí nhưng không thấy có sự xả bỏ; tuy trì tịnh giới nhưng lìa giới tướng; tuy tu tập an nhẫn nhưng tâm vô tận; tuy tu tập tinh tấn nhưng lìa tướng ấy; tuy tu tập tịnh lự nhưng không có sự vắng lặng; tuy tu tập Bát Nhã nhưng không có đối tượng; tuy tu tập niệm trụ nhưng không chấp chặt; tuy tu tập chánh đoạn nhưng tâm bình đẳng; tuy tu tập thần túc nhưng lìa hý luận, tuy tu tập căn lực nhưng không phân biệt các căn của hữu tình và xa lìa lầm lỗi; tuy tu tập giác chi nhưng không phân biệt; tuy tu tập chi Thánh đạo nhưng tâm vô công dụng; tuy tu tập tịnh tín nhưng không chấp trước. Trí tuệ tự nhiên nhớ nghĩ các pháp với tâm trí bình đẳng, tu tập các diệu định mà tâm không phân biệt, quan sát diệu tuệ mà tâm không ngừng nghỉ. Tu tập quán chỉ tâm không có sự thấy, tu tập pháp quán tâm không có chỗ niệm. Tu tùy niệm Phật tâm thông suốt pháp giới bình đẳng, tu tùy niệm Pháp tâm không có chỗ trụ, tu tùy niệm Tăng nên thanh tịnh bản tâm. Giáo hóa hữu tình không có tâm phân biệt. Tâm pháp giới bao trùm tất cả pháp. Tâm như hư không, trang nghiêm cõi Phật. Tâm không có chỗ chứng đắc đạt Vô sanh nhẫn. Tâm không tiến lùi đạt Bất thối chuyển, xa lìa tâm tướng, không thấy có tướng. Ở trong tam giới dùng tâm bình đẳng, trang nghiêm tòa Bồ đề. Tâm không có chỗ giác ngộ biết rõ tất cả pháp. Tuy chuyển pháp luân nhưng không thấy người nghe, người nói. Tuy hiện Niết bàn nhưng biết bản tánh sanh tử bình đẳng.

 

3.(Từ bình đẳng mà có thanh tịnh)

 

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, quán sát các pháp như vậy nhưng không thấy sự quán, không thấy có pháp để quán nên được thần thông tự tại. Vì sao? Vì tâm thanh tịnh nên thấy tất cả hữu tình thanh tịnh.

Thiên vương nên biết! Ví như hư không biến khắp tất cả, các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã cũng như vậy.  

Khi thuyết pháp này ở trong chúng hội có tám vạn bốn ngàn trời, người đều phát tâm quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề, ba vạn hai ngàn Bồ Tát được Vô sanh pháp nhẫn, tám vạn bốn ngàn hữu tình xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, một vạn hai ngàn Bí sô diệt sạch các lậu tận.

Khi ấy, Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã tâm được thanh tịnh, thâm sâu như biển cả, phước đức trí tuệ không thể đo lường được (Từ bình đẳng này mà sanh thanh tịnh. Nên biết bình đẳng đó chính là thanh tịnh). Bồ Tát có thể thị hiện xuất thế, các châu báu công đức chúng sanh lấy dùng, cho đến Bồ đề, không có cạn kiệt. Phước đức Bồ Tát cũng không giảm bớt, giống như biển cả sanh nhiều châu báu. Trí tuệ Bồ Tát sâu xa khó vào được, Thanh văn, Độc giác không thể vượt qua. Thí như biển lớn thú nhỏ chẳng vào được.

Trí tuệ của Bồ Tát rộng lớn vô biên. Vì sao? Vì không chấp trước, không trụ, không sắc, không tướng. Trí tuệ của Bồ Tát từ trước về sau càng thêm sâu rộng, trước là Bồ đề tâm, về sau là Nhất thiết trí. Pháp của Bồ Tát là vậy, không cùng ở chung với phiền não và bạn ác. Trí tuệ thế gian nếu vào trong biển trí tuệ của Phật thì chỉ là một tướng, một vị, đó là vô tướng; đạt đến Nhất thiết trí là vị không phân biệt.

Trí tuệ Bồ Tát quán sát tất cả pháp không thấy thêm bớt. Vì sao? Vì đã thông suốt pháp tánh bình đẳng sâu xa. Năng lực đại từ bi của Bồ Tát chẳng trái với bản nguyện, là chỗ các bậc Thánh nương tựa để vì hữu tình thuyết pháp trong vô số kiếp không cùng tận.

Này Thiên vương! Bồ Tát hành sâu Bát nhã đạt được pháp tánh sâu xa như vậy.

Này Thiên vương! Bồ Tát thông suốt hoàn toàn pháp thế tục. Tuy nói các sắc nhưng không thật có, tìm cầu sắc ấy chắc chắn không nắm bắt được; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Tuy nói địa giới nhưng không thật có, tìm cầu địa giới không nắm bắt được; thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng như vậy. Tuy nói nhãn xứ nhưng không thật có, tìm cầu nhãn xứ không nắm bắt được; nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xứ cũng như vậy. Tuy nói sắc xứ nhưng không thật có, tìm cầu sắc xứ không nắm bắt được; thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ cũng như vậy.

Tuy nói ngã nhưng không thật có, tìm cầu ngã này không nắm bắt được; đối với hữu tình cho đến người biết, người thấy cũng như vậy. Tuy nói thế gian nhưng không thật có, tìm cầu thế gian không nắm bắt được. Tuy nói pháp thế gian nhưng không thật có, tìm cầu pháp thế gian không nắm bắt được. Tuy nói Phật pháp nhưng không thật có, tìm cầu Phật pháp không nắm bắt được. Tuy nói Bồ đề nhưng không thật có, tìm cầu Bồ đề không nắm bắt được.

 

(Tất cả uẩn xứ giới cùng tất cả pháp kể cả pháp Phật rốt ráo đều không, không thật có đều giả thi thiết thì làm sao nắm bắt cho được. Đó là tư tưởng ghê gớm, đáng sợ nhất. Phật chỉ bày tất cả pháp cho chúng sanh tu hành, rồi chính Phật bảo tất cả pháp đó đều không thật có, không thể nắm bắt được: “Tuy nói Phật pháp nhưng không thật có, tìm cầu Phật pháp không nắm bắt được. Tuy nói Bồ đề nhưng không thật có, tìm cầu Bồ đề không nắm bắt được”. Chúng ta đọc tư tưởng này nhiều lần, nhưng tự dối mình tránh né, rồi tìm cách giải thích cách này hay cách kia. Học Bát Nhã Tánh không đến đây, hãy xem đó là trí tuệ, là thật ngữ phát xuất từ kim khẩu của Phật mới có thể hiểu thật tướng các pháp, hiểu lời Phật nói. Không có thế gian(tức Tục đế), không có xuất thế gian(tức Chân đế hay Đệ nhất nghĩa đế), không có gì cả(nên nói là Đệ nhất nghĩa không). Biết như vậy, nhưng không tu không học thì không thành đạo tướng trí. Toàn thể Đại Bát Nhã gói trọn trong tư tưởng này. Chỉ khi nào ngộ nhập được thật tướng của tất cả pháp (hay nhập được Đệ nhất nghĩa không)tức ngộ nhập được chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế... hay nói khác là nhập được pháp giới mới có thể hiểu lời nói này của Phật).

 

Thiên vương nên biết! Phàm có ngôn thuyết, gọi là Thế đế, chẳng phải chân thực. Nếu không có Thế đế thì không thể thuyết Đệ nhất nghĩa đế. Bồ Tát thông suốt thì tục đế chẳng trái với Đệ nhất nghĩa đế. Do thông suốt nên biết các pháp không sanh, không diệt, không thành, không hoại, không đây, không kia, xa lìa ngữ ngôn văn tự, bặt hý luận.

Thiên vương nên biết! Đệ nhất nghĩa thì vắng lặng, lìa ngôn ngữ, là cảnh giới của Thánh trí, là Pháp không biến hoại. Phật xuất thế hay không xuất thế tánh, tướng vẫn thường trụ. Đây gọi là Bồ Tát thông suốt Đệ nhất nghĩa đế. (Đây có thể nói Bồ tất thông suốt tất cả đều không, nên gọi là “Đệ Nhất Nghĩa Không” trong tinh thần “Nhất Thiết Pháp Không”, chủ trương vô tiền khoán hậu của chư Phật).                                              

 

4.(Tất cả pháp không sanh không diệt)

 

Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp không sanh, không diệt, tự tánh trống không, xa lìa thì vì sao có Phật xuất thế và chuyển Pháp luân? Vì sao Bồ Tát đối với pháp Vô sinh lại thấy có sinh?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Vì các pháp không diệt nên không sanh. Vì sao? Vì tánh không biến đổi, chỉ do người thế tục thấy có sanh, có diệt, đó là sự thấy biết hư vọng, không chơn thật. Những Bồ Tát nào bằng phương tiện thiện xảo hành sâu Bát Nhã, thì thấy pháp nhân duyên, biết rõ tục đế là Không, vô sở hữu, không bền chắc, không có mà tợ như có, như huyễn hóa, như ảo mộng, như âm vang, như bóng sáng, như ảo ảnh, như quáng nắng, như việc biến hóa, như thành Tầm hương, lay động chẳng yên, đều do nhân duyên sanh khởi.

Các Bồ Tát này dùng Bát Nhã vi diệu quán sát các pháp Không, nói rộng cho đến từ nhân duyên sanh khởi. Các Bồ Tát này tư duy: Các pháp này thấy có sanh, có trụ, có diệt. Do nhân duyên nào mà sanh? Do nhân duyên nào mà diệt? Tư duy như vậy rồi biết rõ như thật, do vô minh sanh các hành, do hành sanh thức, nói rộng cho đến do hữu nên có sanh, do sanh nên có lão, do lão nên có tử và ưu, sầu, khổ, não. Cho nên cần phải tu hành để diệt vô minh. Nếu diệt vô minh thì mười một chi còn lại lần lượt diệt theo, như thân đã diệt thì mạng sống đều diệt theo.

Thiên vương nên biết! Tà kiến ngoại đạo mong cầu giải thoát, chỉ muốn đoạn tử chẳng biết đoạn sanh. Nếu pháp không sanh thì không có diệt. Ví như có người ném hòn đất vào sư tử, sư tử đuổi người, tức việc ném đá tự dừng. Bồ Tát cũng vậy chỉ đoạn sự sanh thì tử tự diệt. Ví như con chó chỉ đuổi theo đá mà chẳng biết đuổi người, nên việc ném đá mãi mãi không dừng. Ngoại đạo cũng thế, chẳng biết đoạn sanh thì không thể lìa tử. Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như thế thì biết rõ nhân duyên sanh diệt của các pháp.

 

5.(Tu tịnh hạnh)

 

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, biết pháp nhân duyên Không, không thực có, không khởi ngã mạn. Nếu sinh vào nhà Bà la môn, Sát đế lợi, cư sĩ, trưởng giả, thì không khởi hai mạn tôn quý, hào phú. Nếu sinh vào nơi bần tiện thì tự biết nghiệp đời trước không được thanh tịnh nên có quả báo thấp kém; khởi tâm ghét bỏ, tức cầu xuất gia; suy nghĩ thế này: Như thân ta đây, do nghiệp tạp loạn mà có; liền tu tịnh nghiệp, khiến tự thanh tịnh, khiến người khác cũng được như vậy. Tự mình cầu độ, cũng lại độ người; tự cầu thoát ly, cũng lại cởi trói cho người. Vì nhân duyên này tức sinh tinh tấn, không bị biếng nhác. Pháp ác chướng đạo đều được đoạn trừ, pháp lành trợ đạo đều nên tăng trưởng, siêng tu, tinh tấn, suy nghĩ thế này: Ta mang gánh nặng, nên tự mình diệt tất cả phiền não, độ thoát chúng sanh, không được biếng nhác. 

Đối với Sư trưởng thân cận dù cho họ hiểu nhiều hay ít, có trí hay không, trì giới hay phá giới thì Bồ Tát đều tưởng như Phật, cung kính đồng học. Tư duy ta đang nương Thầy học tập, tu pháp lành chưa hoàn toàn, cần phải tu cho viên mãn, phiền não chưa diệt cần phải đoạn diệt, giữ gìn pháp lành, xa lìa pháp ác để thành Nhất thiết trí, làm ruộng phước đại bi, thương xót tất cả thế gian. Bậc Thiên nhơn sư là thầy của ta được lợi lành. Tất cả trời, người đều thờ Pháp vương làm Đại sư.

Các Bồ Tát này khởi suy gẫm: “Phật nói tịnh giới, giả sử vì thân mạng cũng chẳng hủy phạm. Như Thế Tôn nói: “Thuận theo lời Phật dạy tức cúng dường Phật”. Bà la môn, Sát đế lợi, trưởng giả v.v… vì tín tâm thí cho các thứ ăn uống, thì ta như pháp thọ dụng, để người thí được hưởng phước báo. Như vậy, cả hai đều được lợi ích. Bà la môn, Sát đế lợi, trưởng giả v.v... lấy danh tự Sa môn mà kêu gọi Bồ Tát nghĩ đến việc tạo ruộng phước. Bồ Tát phải đúng như lý, như lượng, tu hành chánh pháp thì hiển hiện công đức Sa môn, công đức phước điền. Bồ Tát như vậy là tự tu hành và giáo hóa người không dừng nghỉ.

Các Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã như thế thì thường tùy thuận thế gian, thấy kẻ giận dữ thì sanh nhường nhịn, thấy kẻ kiêu mạn thì khởi tưởng vô ngã, thấy kẻ tà vạy thì khởi tưởng chánh trực. Thấy người vọng ngữ thì nói lời chân thật. Thấy kẻ nói ác thì dùng ái ngữ. Thấy kẻ cứng cỏi thì thị hiện nhu hòa. Thấy kẻ nóng giận thì sanh từ nhẫn. Thấy kẻ theo pháp tà thì sanh đại từ. Thấy kẻ khổ não thì sanh lòng đại bi. Thấy kẻ xan tham, tật đố thì hành bố thí.

Các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như thế, tùy thuận trí thế gian nên được sanh cõi Phật thanh tịnh. Vì sao? Vì trì giới không khiếm khuyết, xa lìa tạp uế, tu tâm bình đẳng. Ở chỗ hữu tình đầy đủ các căn lành lớn, không đắm trước danh lợi. Có đức tin thanh tịnh, không có hư vọng mong cầu, cần hành tinh tấn, tu tập không biếng nhác. Tu tập các tịnh lự để xa lìa tán loạn. Dùng tuệ vi diệu để học tập đa văn. Các căn đầy đủ, trí tuệ thông minh, tu đại từ để xa lìa giận dữ não hại. Nhờ nhân duyên này được sanh về cõi Phật thanh tịnh.

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Như lời Phật dạy người tu tập về các pháp trì giới v.v… và các pháp thì được sanh cõi Phật thanh tịnh. Như vậy, cần tu đầy đủ các pháp hay chỉ tu một pháp là được sanh ở cõi Phật thanh tịnh?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Đối với các pháp ta đã nói ở trước, Bồ Tát nào chỉ tu một hạnh là đầy đủ các pháp. Như vậy, một hạnh cũng sanh về cõi Phật thanh tịnh. Vì sao? Vì trong mỗi một hạnh đầy đủ các hạnh”. (Q.569, Hội thứ VI, ĐBN)

 

(Tu một pháp biết tất cả pháp như tu Bát nhã Ba la mật. Tu một hạnh như tu bố thí, tu tịnh giới, hay an nhẫn… chỉ cần tu một hạnh thì biết được tất cả pháp, cũng có thể sanh về cõi Phật thanh tịnh. Đó là cái diệu dụng của tu tịnh hạnh).

 

Các Bồ Tát này sanh ở cõi Phật thanh tịnh không bị bào thai làm ô uế. Vì sao? Vì Bồ Tát đã tạo dựng tượng Phật, tu sửa vườn Tăng, ở trước bảo tháp Phật, thoa đất thơm và đốt hương cúng dường, rải hoa đẹp cúng dường hoặc dùng nước thơm tắm rửa tượng Phật. Ở trong vườn Tăng, rưới nước quét dọn và láng nền. Từ tâm cung phụng Cha mẹ, Sư trưởng, thiện hữu đồng học và các Sa môn, dùng tâm bình đẳng cung kính cúng dường. Đem căn lành này ban cho hữu tình cùng nhau hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, làm cho hữu tình đều được thanh tịnh. Bồ Tát như thế là được ly dục. Vì sao? Vì tâm không chấp trước, chẳng đắm nhiễm theo bè đảng, quay lưng với trần cảnh, xa lìa các ái duyên. Ở trong cảnh dục tâm chẳng ái nhiễm, tu hành như thật giới Phật đã thuyết. Đối với bốn việc cúng dường ít muốn vui đủ, chỉ đủ nuôi thân, thường hành tịch tĩnh, xa lìa các pháp. Bồ Tát như thế chẳng đắm trước việc thế tục, liền được mạng sống thanh tịnh. Không tà vạy, oai nghi không dối trá, lời nói không lừa gạt. Nghĩa là trước mặt thí chủ lừa dối bằng cách thể hiện bước đi ung dung, nhìn thẳng phía, không nhìn ngó hai bên, đó là uy nghi tà mạng. Lúc không có thí chủ thì phóng túng buông lung.

Vì cầu lợi dưỡng nên có thí chủ thì ăn nói ngọt ngào, nhỏ nhẹ, tùy thuận theo ý họ, lúc không có thí chủ thì nói lời thô bỉ. Thấy người hành bố thí trong tâm thật có tham muốn nhưng nói rằng không cần. Khi không được của thì sanh phiền não. Lời nói biểu hiện ít muốn mà tâm tham cầu lợi dưỡng thật nhiều.

Các Bồ Tát này không có tướng cầu lợi dưỡng như thế. Nếu thấy thí chủ cũng không than ba y hư rách, đồ dùng thiếu thốn, hoặc nói cần thuốc men. Lại tuyệt đối không được nói với thí chủ: “Này thí chủ! Cho tôi vật này”, hoặc “Người kia nói tôi trì giới học rộng, đại bi, tinh tấn. Dù khen như thế mà tôi không có đức này, tôi chỉ siêng tu thiện để đền ơn thí chủ”.  

Các Bồ Tát này không nói với người đời những lời tự khen mình chê người để cầu danh lợi như thế. Nếu thấy thí chủ cúng thí cho người khác không sanh tâm sân hận, phiền não, không dua nịnh quanh co để cầu nhận vật đó, không dối trá bằng cách thân thiện để hại người lấy của, chẳng mong hạ nhục người bằng cách giỡn cợt để lấy của. Thí chủ định cúng thí cho người được khen, hoặc người thuyết pháp, hoặc đại chúng, hoặc chưa dự định phần chia, hoặc đã bố thí nhưng chưa cho hẳn thì Bồ Tát không bao giờ chen vào trong ấy để nhận phần. Nếu khi nhận tài vật thì không tham đắm, cho đây là vật của ta, đây là sở hữu của ta, phải đem của vật cho các Sa môn khác, hoặc Bà la môn, Sư Tăng, cha mẹ và các người nghèo cùng thiếu thốn, đều được bình đẳng sử dụng. Nếu tài vật hết không lo lắng, vài ngày không được thì tâm không khổ não.

Các Bồ Tát này thọ nhận vật của người khác cúng dường, hoặc bố thí cho người, cả hai đều được thanh tịnh. Vì hạnh thanh tịnh nên tâm chẳng mệt mỏi. Vì sao? Vì lợi ích cho hữu tình đang bị đắm chìm trong biển luân hồi sanh tử, nên các Bồ Tát này không nhàm chán. Nếu có việc ma, các khổ bức bách, tâm không bị thối lui. Nếu người muốn hành Nhị thừa thì vì họ để thuyết pháp không có nề hà, mệt nhọc. Bồ Tát tu pháp Bồ đề phần, không hề nhàm chán.

Các Bồ Tát này tinh tấn như thế là thường tùy thuận hành theo chánh giáo của Phật. Vì sao? Vì các Bồ Tát này xa lìa sự buông lung, tâm thường cẩn thận, khéo tự giữ gìn thân, không tạo việc ác; ngữ, ý cũng vậy. Dù sống ở hiện tại nhưng sợ vị lai, diệt sạch các pháp ác không cho sanh ra nữa. Lời nói thường dựa vào chân lý, thường thuyết đúng giáo pháp, chẳng nói những lời phi pháp. Bỏ nghiệp xấu ác, chuyên tu hạnh thanh tịnh. Không hủy giáo pháp của Phật, xa lìa phiền não và pháp bất tịnh. Đó là hộ trì chánh pháp của Như Lai, diệt sạch các pháp ác bất thiện.

Các Bồ Tát này tùy thuận theo giáo pháp thanh tịnh của Phật, nếu thấy hữu tình thì vui vẻ, mỉm cười, không hề nhăn nhó. Vì sao? Vì tâm đã lìa tạp uế, vẩn đục, các căn thanh tịnh, xa lìa cấu bẩn, sân nhuế, tâm không kết hận. Bồ Tát như thế tức được đa văn, quán sát sanh tử thường biết như thật về lửa tham, sân, si đốt cháy làm cho con người mê loạn. Biết như thật về các pháp hữu vi đều vô thường, tất cả hành là khổ, các pháp là vô ngã. Ở thế gian, hữu tình say đắm theo hý luận, phải hiểu như thật là trong các pháp chỉ có Niết bàn là tối thắng, tịch tịnh. Nghe người thuyết pháp thì suy nghĩ nghĩa rồi truyền trao cho người. Phát đại từ bi, khởi niệm kiên cố. Nếu chẳng nghe pháp (tức là văn) thì không tư, tu.

Thế nên văn tuệ là căn bản của các chữ. Tất cả trí tuệ được sanh ra từ đây. Đã được đa văn thì hộ trì chánh pháp. Vào thời chánh pháp diệt tận, ở đời vị lai có các hữu tình muốn tu hành mà không gặp chánh pháp, không có người thuyết pháp thâm sâu, thì khi ấy Bồ Tát tuyên dương Bát Nhã, để cho hữu tình tu giới, định, tuệ. Do đó khen: “Thiện nam tử! Vào thời chánh pháp diệt tận, người nên phát tâm Bồ đề cầu Vô thượng giác, vì muốn làm lợi lạc cho hữu tình. Kinh điển Bát Nhã như thế là đối tượng để tu hành của chư Phật trong ba đời. Người siêng tu hành thì giác ngộ chẳng xa. Vì sao? Vì Bát nhã Ba la mật không xa đại Bồ đề. Như người trồng lúa, cây lúa đã trổ bông, nên biết kết quả thu hoạch không xa. Cũng vậy, Bồ Tát cầu đại Bồ đề mà được nghe Bát nhã Ba la mật, thì chắc chắn Bồ Tát ấy cách Phật chẳng xa.

Thiện nam tử! Xa lìa Bát Nhã để nương tựa vào các Kinh khác cầu Vô thượng giác, hoặc có thể chứng đắc, thì không có lẽ ấy. Thí như con vua, bỏ vua cha mà đi đến người khác cầu làm thái tử chắc chắn không thể được. Cũng vậy, Bồ Tát cầu Nhất thiết trí cần nương Bát nhã Ba la mật. Nếu nương vào Kinh khác cầu Nhất thiết trí thì không thể được. Thí như bò con muốn bú sữa thì phải nhờ mẹ nó, nếu tới bò khác thì không có sữa. Cũng vậy, Bồ Tát cầu đại Bồ đề phải nương vào Bát nhã Ba la mật, nếu nương pháp khác thì không thể chứng đắc.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát  gần gũi Bát Nhã làm Pháp vương tử, tướng tốt trang nghiêm thân thể, các căn đầy đủ, tu hành pháp Phật đã tu, giác ngộ điều Phật đã giác ngộ. Cứu hộ khổ não cho tất cả hữu tình, thông suốt hoàn toàn giáo pháp của Phật đã thuyết, thường tu phạm hạnh, xa lìa vẩn đục, giữ gìn thành trì Nhất thiết trí của chư Phật.

Đó là Bồ Tát làm Pháp vương tử, được Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế cùng tôn trọng. Vì sao? Vì hành đạo Bồ Tát được bất thối, tất cả ác ma không thể lay động. Do đó, an trụ Phật pháp, thông suốt tất cả lý không bình đẳng, không chạy theo duyên ngoài, nên an trụ trong trí tuệ Phật pháp. Không cùng ở chung với Thanh văn, Độc giác v.v... vượt khỏi thế gian, trụ Vô sanh nhẫn.

Bồ Tát biết như thật các phẩm thượng, trung, hạ khác nhau về tham, sân, si của hữu tình, biết rõ như thật phẩm loại khác nhau về tâm thiện, tâm kiên cố của hữu tình. Khi biết như thật rồi, tùy theo mỗi một hữu tình để nói pháp đối trị, có thể giáo hóa hữu tình. Hữu tình nào muốn thấy thân Phật được độ thoát thì Bồ Tát hiện thân Phật để thuyết pháp. Nếu muốn thấy thân Bồ Tát để được độ thoát thì Bồ Tát hiện thân Bồ Tát để thuyết pháp. Nếu muốn thấy thân Độc giác để được độ thoát thì Bồ Tát hiện thân Độc giác để thuyết pháp. Nếu muốn thấy thân Thanh văn để được độ thoát thì Bồ Tát hiện thân Thanh văn để thuyết pháp. Nếu muốn thấy các thân Đế Thích, Phạm Thiên, Bà la môn, Sát đế lợi, Trưởng giả, Cư sĩ v.v... để được độ thoát thì Bồ Tát đều hiện các thân ấy thuyết pháp cho họ. Bồ Tát bằng phương tiện thiện xảo hành sâu Bát Nhã giáo hóa, độ thoát hữu tình như thế.

Các Bồ Tát này tâm tánh từ hòa, chánh trực, uyển chuyển, không bị cấu uế như dua nịnh, ganh ghét. Tâm thường thanh tịnh, không nói lời thô ác, hành hạnh nhẫn nhục, gần gũi hữu tình.

Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như thế thì ở trú xứ ấy được an ổn. Vì sao? Vì Bồ Tát đầy đủ chánh kiến và thanh tịnh kiến, thanh tịnh hạnh, các hành động trong cảnh giới tùy tâm tương ưng. Nếu thấy tâm trái với pháp ác bất thiện và cảnh giới uế ác thì Bồ Tát chẳng nên hành.

Các Bồ Tát này thấy người đồng học hết lòng vui mừng, hoặc của hoặc pháp đều thọ dụng chung, duy hành Phật đạo, duy Phật là Thầy.

Bồ Tát như thế thì được tự tại, an lạc, nắm giữ đầy pháp để giáo hóa hữu tình. Vì lợi ích nhiếp phục hữu tình nên Bồ Tát bố thí lợi ích, bố thí an lạc, hoặc bố thí tất cả, hoặc dùng lời lợi ích, lời có nghĩa, lời đúng pháp, hoặc những lời tương tự để nhiếp phục hữu tình. Đem của cải để lợi ích bình đẳng, hoặc đem thân thể lợi ích bình đẳng, hoặc đem sinh mạng để lợi ích bình đẳng, hoặc đem vật dụng để lợi ích bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Bố thí mà đem lại nhiều lợi ích chính là pháp thí. Bố thí an lạc tức là tài thí. Bố thí vô tận là chỉ dạy chánh đạo. Lời nói có lợi ích thì sanh pháp lành. Lời nói có nghĩa thì thấy chánh lý. Lời nói như pháp thì tùy thuận giáo pháp của Phật. Lời nói chẳng sai khác là thuyết pháp như thật. Dùng của để lợi ích bình đẳng là việc ăn uống, y phục v.v... Dùng thân để lợi ích bình đẳng là bảo vệ nhiếp phục. Dùng mạng để lợi ích bình đẳng là các thứ trân bảo ngoài mạng sống. Vật dụng lợi ích bình đẳng là voi, ngựa v.v... tất cả tịnh tài. Đó là các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tự mình làm và đem cho người đều được bình đẳng(5).

Các Bồ Tát này sanh ra với thân hình xinh đẹp, siêng năng tu tập, oai nghi tịch tĩnh, oai nghi không dối trá, oai nghi thanh tịnh, mọi người đều muốn nhìn. Trong ngoài đều thiện, người xem không chán, làm vui lòng người, tất cả hữu tình đều yêu mến, tôn trọng. Ai nhìn thấy đều phát thiện tâm, người sân hận thấy thì tâm hòa giải.

Các Bồ Tát này xinh đẹp như thế, làm chỗ nương tựa, bình đẳng bảo hộ hữu tình diệt sạch phiền não, hướng dẫn hữu tình xa lìa sanh tử vô biên, độ thoát vô biên hữu tình vượt qua hiểm nạn của thế gian. Làm bạn thân với kẻ không quyến thuộc, làm thầy thuốc giỏi cho kẻ bệnh phiền não, làm người cứu hộ cho người không được cứu hộ, làm chỗ nương tựa cho người không có chỗ nương tựa, làm ngọn đuốc Pháp cho người không ánh sáng. Bồ Tát làm y chỉ cho các hữu tình như thế để chữa trị các bệnh, như cây Thọ vương tên là Thiện Kiến, thân cây, gốc rễ, cành lá, hoa quả, sắc hương, mùi vị đều có thể dùng để chữa lành bệnh. Cũng vậy, các Bồ Tát này từ khi mới phát tâm cho đến cứu cánh thường chữa lành bệnh phiền não cho hữu tình. Bồ Tát có nhiều phước đức trí tuệ thì người nào được thấy nghe đều lành bệnh.

Đó là Bồ Tát có công đức tương ưng tùy theo năng lực để làm việc cúng dường Tam bảo, người có tật bệnh thì bố thí thuốc men, người đói khát thì bố thí đồ ăn uống, người lạnh rét thì bố thí y phục. Hết lòng kính thờ các vị Thân giáo sư, Quỷ phạm sư, cung kính chào hỏi người đồng học, đồng giới pháp. Tạo lập trú xứ Tăng, cấp thí ruộng vườn tùy theo tài vật của mình để bố thí. Nếu nghe Phạm chí, Sa môn nào có danh đức, tu chánh hạnh thì thường gần gũi để học hỏi.

Các Bồ Tát này thường phát sanh hạnh lành, đầy đủ phương tiện thiện xảo để giáo hóa cứu độ hữu tình. Thân vẫn ở yên nơi quốc độ này mà đến vô biên quốc độ khác để hỏi chánh pháp, thị hiện cúng dường vô biên Như Lai, hoặc thị hiện tu tập trợ Bồ đề phần, hoặc thị hiện cúng dường vị Phật mới thành, hoặc thị hiện thân mình thành Đẳng chánh giác, hoặc vì chúng thị hiện chuyển pháp luân vi diệu, hoặc thị hiện Niết bàn làm việc lợi ích lớn. Người đáng độ thì thị hiện thân hóa độ, làm cho người thấy được lợi ích. Tuy làm các việc Phật sự như thế mà chẳng tác ý, chẳng phân biệt.

Khi ấy, Tối Thắng bạch Phật:   

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát làm các việc biến hóa như thế nào mà tâm không phân biệt?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Ví như mặt trời, mặt trăng chiếu soi khắp tất cả không có phân biệt: Ta phát ánh sáng và chiếu đến chỗ nào thì các loài hữu tình tùy theo nghiệp lực của mình để cảm nhận ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu soi ngày đêm. Cũng như vậy, các Bồ Tát này tuy hiện hóa thân mà không phân biệt. Vì sao? Vì các hữu tình đều có nghiệp lành đời trước. Xưa kia, Bồ Tát phát nguyện độ hữu tình, do sức thệ nguyện và tùy theo ý niệm của họ nên hóa hiện thân không phân biệt.

Các Bồ Tát này dùng phương tiện thiện xảo, thường làm những việc làm như thế để giáo hóa hữu tình mau chóng hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì các Bồ Tát này bố thí viên mãn, trì giới thanh tịnh, không thủng, không khuyết, giới phẩm thanh tịnh vượt hẳn hàng Thanh văn và Độc giác, đầy đủ an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát Nhã, phương tiện, diệu nguyện, lực, trí Ba la mật và các công đức bất cộng của Phật, vượt trên địa vị Thanh văn, Độc giác.

Thiên vương nên biết! Bồ Tát sơ địa cho đến thập địa hành sâu Bát Nhã, tu tập các hạnh như thế chứng đắc Vô thượng Bồ đề.

Khi thuyết pháp này có hai vạn Thiên tử xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Ba vạn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn. Tám vạn bốn ngàn trời, người đều phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vô lượng trăm ngàn Kiền đạt phược và Khẩn nại lạc nhiễu quanh núi Thứu Phong, hoan hỷ chấp tay tán thán Như Lai. Vô lượng trăm ngàn Dược xoa vui mừng chắp tay nhiễu quanh núi Thứu Phong, mưa nhiều loại hoa vi diệu để cúng dường chư Phật. Ở 10 phương vô lượng hằng hà sa thế giới chư Phật đều có vô lượng Bồ Tát đến tán thán: Đức Như Lai Thế Tôn khéo thuyết Bát Nhã cho các Bồ Tát. Nhờ Bát nhã Ba la mật mà trời, người được 4 hướng, 4 quả Thanh văn(6) và quả Độc giác Bồ đề. Cũng có Bồ Tát thập địa, thập độ(7), 10 lực Như Lai, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, 18 pháp Phật bất cộng, Nhất thiết tướng trí, Nhất thiết trí trí v.v... vô biên Phật pháp đều nhờ Bát nhã Ba la mật mà được thành tựu. Như việc thế gian đều nương hư không, hư không không có chỗ nương. Bát Nhã sâu xa cũng như vậy, vì các pháp không có chỗ nương. Nguyện cho chúng tôi ở đời vị lai thuyết Bát nhã Ba la mật cho các đại Bồ Tát như Thế Tôn đang tuyên thuyết ngày nay. Nói như vậy rồi cung kính rải hương hoa lên Như Lai và chúng hội.

Lúc ấy, có vô lượng thiên thần và các thần khác ở núi Thứu Phong trụ giữa hư không tán thán:

- Hi hữu thay thưa Thế Tôn! Chúng con nghĩ đã có vô lượng chư Phật đến núi Thứu Phong thuyết Bát nhã Ba la mật cho đại chúng như ngày nay không khác.

Trời Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thiên thần trong không đâu có trí huệ biết cảnh giới Phật lâu gần sai khác mà nói rằng có vô lượng Phật đã từng ở đây nói Bát nhã Ba la mật?

Phật dạy:

- Này Thiên vương! Chúng thiên thần đây đều là Bồ Tát an trụ cảnh giới Bất khả tư nghì giải thoát, cho nên biết được sự sai khác gần xa của cảnh giới chư Phật trong quá khứ.

Này Thiên vương! Xưa kia, Ta còn làm Bồ Tát đã từng sanh trong cảnh thiên thần ấy, thấy vô lượng chư Phật chứng đắc Vô thượng Bồ đề, đã vì chúng hội tuyên thuyết diệu pháp cho đến lúc nhập Niết bàn, Ta thường chấp tay kính lễ khen ngợi. Vì sao? Vì tuổi thọ của cảnh giới thiên thần kia lâu dài, nên thấy nghe vô biên sự việc lâu xa trong quá khứ.

Bấy giờ, trong chúng có một Thiên tử tên là Quang Đức rời tòa đứng dậy, lệch áo che vai trái, gối phải chấm đất, chấp tay bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chư Phật, Bồ Tát phải ở cõi Tịnh độ, chứ tại sao Thế Tôn xuất hiện ở thế giới Kham Nhẫn đầy dẫy ô uế xấu ác này?

Phật bảo Quang Đức:

- Thiên tử nên biết! Chỗ ở của Như Lai không có uế ác tức là cõi Tịnh độ.

Khi ấy, Như Lai dùng thần lực làm cho ba ngàn đại thiên thế giới đất bằng như bàn tay, đều do lưu ly tạo thành, không có các núi gò, núi đất, chông gai, nơi nơi đều có nhiều báu, hương hoa, cỏ mềm, suối hồ với nước tám công đức, thềm bậc bằng bảy báu, cỏ cây hoa quả đều thuyết về pháp luân Bất thối của Bồ Tát, không có pháp Thanh văn, Độc giác khác. Tuy có Bồ Tát từ 10 phương đến, mà chẳng nghe tiếng gì khác, chỉ nghe thuyết pháp Bát Nhã sâu xa. Khắp nơi hoa sen nở lớn như bánh xe, với đầy đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, tía v.v… Trong các đài hoa đều có các Bồ Tát ngồi kiết già, tư duy về Đại thừa. Thấy chư Như Lai ở giữa chúng hội, thuyết pháp sâu xa cho chúng Bồ Tát ; vô lượng trăm ngàn Đế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế cung kính cúng dường vây quanh khen ngợi.

Thiên tử Quang Đức thấy việc như vậy vui mừng, hớn hở, khen ngợi Phật:

- Hi hữu thay thưa Thế Tôn! Hi hữu thay thưa Thiện Thệ! Pháp Như Lai đã thuyết chơn thật không hư dối. Chỗ ở của Như Lai không tạp uế, tức là Tịnh độ như Phật đã thuyết không có sai khác, hữu tình phước mỏng thấy tịnh thành uế.

Bạch Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ v.v… được nghe công đức danh tự Bát nhã Ba la mật thì đó là điều rất là hi hữu, huống chi là siêng năng biên chép, thọ trì, đọc tụng, giảng thuyết cho người khác.

Phật bảo Quang Đức:

- Thiên tử nên biết! Thiện nam, thiện nữ v.v… nào ở trong vô lượng đại kiếp, đem tâm vô ngại bố thí các tài vật cho hữu tình, so với thiện nam, thiện nữ v.v… dùng tín tâm thanh tịnh biên chép Kinh này rồi trao cho người khác thọ trì, đọc tụng thì công đức đạt được nhiều hơn người trước. Vì sao? Vì của thí chỉ trừ đói khát còn pháp thí thì không cùng. Vì vậy cho nên, tài thí chỉ được quả báo ở thế gian, quả vui trời, người, được rồi lại mất. Nếu dùng pháp thí thì được cái chưa từng được, đó là Niết bàn chắc chắn không lui mất.

 

6.(So lường công đức?)

 

Giả sử có giáo hóa hữu tình ở ba ngàn đại thiên thế giới đều tu tập theo thập thiện nghiệp đạo. Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… với tín tâm thanh tịnh thọ trì, đọc tụng Bát Nhã sâu xa, rồi giảng thuyết cho người khác, thì được vô lượng, vô biên công đức vượt hơn người trước. Vì sao? Vì tất cả pháp lành đều được sanh ra từ Bát nhã Ba la mật.

Giả sử có người giáo hóa hữu tình ở ba ngàn đại thiên thế giới đều được chứng đắc bốn hướng, bốn quả, Thanh văn, Độc giác Bồ đề. Nếu thiện nam, thiện nữ v.v… với tín tâm thanh tịnh thọ trì, đọc tụng, biên chép Bát nhã Ba la mật, thì công đức này vượt hơn người trước vô lượng, vô số. Vì sao? Vì Thanh văn, Độc giác đều từ Bát nhã Ba la mật sanh ra. Nhờ Bát nhã Ba la mật này mà có Phật xuất thế. Cho nên Bát nhã Ba la mật ở chỗ nào thì biết chỗ ấy là tòa Bồ đề vi diệu, là chỗ Như Lai chuyển pháp luân. Thiện nam, thiện nữ v.v… nên nhớ chỗ ấy thường có Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì tất cả chư Phật đều do Bát nhã Ba la mật sanh ra. Người nào cúng dường hình tượng Như Lai, thì được công đức chẳng bằng công đức cúng dường Bát Nhã sâu xa. Vì sao? Vì ba đời chư Phật đều nhờ Bát nhã Ba la mật mà có. (Q.569, ĐBN)

 

Thích nghĩa:

 (1). Pháp tánh hay pháp tính:

1- Định nghĩa của Phật Quang Từ điển: (法性) Phạm: Dharmatà. Pàli: Dhammatà. Cũng gọi Chân như pháp tính, Chân pháp tính, Chân tính, Pháp bản. Chỉ cho thể tính chân thực của các pháp, cũng tức là bản tính bất biến của hết thảy hiện tượng trong vũ trụ. Cũng là tên khác của Chơn như. Theo luận Đại trí độ quyển 32 thì Tổng tướng và Biệt tướng của tất cả các pháp đều qui về Pháp tính. Nghĩa là các pháp đều có tướng sai biệt và thực tướng; tướng sai biệt không cố định, là bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên là không(vô tự tính), cho nên Không là thực tướng của các pháp. Tất cả các tướng sai biệt, vì tự tính của chúng là không, nên đều là đồng nhất, gọi đó là Như. Tất cả tướng đều qui về không, cho nên gọi không là Pháp tính. Trong Kinh Đại bảo tích quyển 52, đức Phật chỉ dạy nghĩa thực tính của các pháp, cho rằng Pháp tính không có đổi khác, không có thêm lên, không có bớt đi, không tạo tác nhưng chẳng có gì mà không tạo tác. Pháp tính không có phân biệt, không có sở duyên, trong tất cả pháp, chứng đắc thực tướng cùng tột. Thông thường, có thuyết phân biệt giữa Pháp tính và Như lai tạng, cho rằng Pháp tính và Như lai tạng có khác nhau, nhưng cũng có thuyết chủ trương Pháp tính và Như lai tạng là đồng nghĩa. [X. Kinh Đại phẩm Bát Nhã Q.21; Kinh Bồ Tát địa trì Q.1; luận Thành duy thức Q.2; luận Đại trí độ Q.28; Đại thừa huyền luận Q.3]. (xt. Chân Như, Chân Lý).

2- Định nghĩa của  Phật học Tinh tuyển: (s: dharmatā, p: dhammatā, 法性): Còn gọi là Thật Tướng Chân Như (實相眞如), Chân Pháp Tánh (眞法性), Chân Tánh (眞性); là tên gọi khác của Chân Như (眞如), v.v... ; tuy tên gọi khác mà đồng thể; là thể tánh chân thật của các pháp, cũng là bản tánh chân thật bất biến vốn có của hết thảy hiện tượng trong vũ trụ. Pháp Tánh là gốc của vạn pháp, nên còn gọi là Pháp Bổn (法本). Đại Trí Độ Luận (大智度論, Taishō Vol. 25, No. 1509) quyển 32 lấy tổng tướng và biệt tướng của các pháp cùng quy về Pháp Tánh; cho rằng các pháp có mỗi mỗi tướng (tướng sai biệt của hiện tượng) và thật tướng. Về cái gọi là mỗi mỗi tướng khác nhau, tỷ dụ như sáp ong đốt chảy thành nước, mất đi tướng ban đầu của nó, do vì không cố định, nên phân biệt tìm cầu không thể được; chính vì không thể được nên gọi là “không (空)” (tức không có tự tánh); vì vậy không chính là thật tướng của các pháp. Đối với hết thảy tướng sai biệt mà nói, do vì tự tánh của chúng là không, nên đều là đồng nhất, được gọi là “như (如).” Tất cả các tướng đều quy về không, vì vậy gọi không là Pháp Tánh. Lại nữa, như trong đá màu vàng có đủ tánh chất của vàng, trong tất cả các pháp trên thế gian đều có Pháp Tánh của Niết Bàn; vì vậy mới bảo rằng thật tánh bản nhiên của các pháp là Pháp Tánh. Điều này đồng nghĩa với ý nghĩa gọi là “chúng sanh, quốc độ đồng nhất Pháp Tánh (眾生、國土同一法性, chúng sanh, quốc độ cùng một Pháp Tánh)” trong Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh (大方廣圓覺修多羅了義經, Taishō Vol. 17, No. 842). Trong Đại Bảo Tích Kinh (大寶積經, Taishō Vol. 11, No. 310) quyển 52, đức Thích Tôn đã từng khai thị về nghĩa thật tánh của các pháp, dạy rằng Pháp Tánh không có đổi khác, không có tăng thêm, không tạo tác và chẳng có không tạo tác; Pháp Tánh không có phân biệt, không có sở duyên, đối với tất cả pháp có thể chứng đắc thể tướng cứu cánh. Cũng có thuyết cho rằng Như Lai Tạng (如來藏) đồng nghĩa với Pháp Tánh. Các luận sư giải thuyết về Pháp Tánh không giống nhau. Đại Sư Từ Ân (慈恩, tức Khuy Cơ [窺基, 632-682]) của Pháp Tướng Tông thì cho rằng Pháp Tánh là Viên Thành Thật Tánh (圓成實性) trong 3 tánh; Y Tha Khởi Tánh (依地起性) này là nơi nương tựa của hết thảy các pháp hữu vi. Trong khi đó, Gia Tường Đại Sư Cát Tạng (吉藏, 549-623) của Tam Luận Tông lại chủ trương rằng chân không là Pháp Tánh. Kế đến, Hiền Thủ (賢首, tức Pháp Tạng [法藏, 643-712]), vị Tổ thứ 3 của Hoa Nghiêm Tông, cho rằng chân như có hai nghĩa là bất biến và tùy duyên; nếu lấy nghĩa tùy duyên, biến tạo ra các pháp, tuy biến tạo mà vẫn giữ tánh chân như bất biến. Chân như tùy duyên biến tạo vạn pháp như vậy, nên gọi chân như là Pháp Tánh. Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-597) của Thiên Thai Tông, luận rằng Pháp Tánh có đủ ô nhiễm, trong sạch, tức tánh thiện tánh ác; vì tánh có đủ thiện và ác, nên sanh ra các pháp ô nhiễm, trong sạch. Như trong Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh (大方廣佛華嚴經, Taishō Vol. 10, No. 279) quyển 16, Phẩm Thăng Tu Di Sơn Đảnh (昇須彌山頂品) 13, có đoạn: “Pháp Tánh bổn không tịch, vô thủ diệc vô kiến, tánh không tức thị Phật, bất khả đắc tư lường (法性本空寂 無取亦無見、 性空卽是佛、不可得思量, Pháp Tánh vốn không lặng, không cầm cũng không thấy, tánh không tức là Phật, suy lường chẳng thể được)”. Trong bài tựa của Khởi Tín Luận Tục Sớ (起信論續疏, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 45, No. 764) quyển 1 giải thích rằng: “Pháp Tánh giả, vị chân như bất biến, tùy duyên nhi năng thành nhất thiết pháp (法性者、謂眞如不變、隨緣而能成一切法, Pháp Tánh nghĩa là chân như bất biến, tùy duyên mà có thể thành tất cả các pháp)”. Hoặc trong Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 87 cũng có đoạn: “Hựu chư pháp tức Pháp Tánh nhân duyên, nãi chí Đệ Nhất Nghĩa diệc thị nhân duyên (又諸法卽是法性因緣、 乃至第一義亦是因緣, lại các pháp là nhân duyên của Pháp Tánh, cho đến Đệ Nhất Nghĩa cũng là nhân duyên)”.

Hai định nghĩa trên cho thấy ngôn ngữ thế gian không thể diễn tả nổi những gì mà Phật muốn nói.

(2). Thay vì nói là kéo áo che vai trái, người dịch lại nói là “lệch áo” che vai trái. Từ “lệch” này có vẻ hơi lạ tai.

(3). “Thiên vương nên biết! Ví như bốn đại nương vào hư không để kiến lập, mà hư không không có chỗ nương nên phiền não cũng vậy. Bốn đại nương nơi vào pháp tánh, pháp tánh không có chỗ nương. Các Bồ Tát thực hành Bát nhã Ba la mật quán biết rõ như thật, nên chẳng khởi trái nghịch, vì tùy thuận nên phiền não không sanh”.

Kinh “Thắng Thiên Vương Bát nhã Ba la mật” do Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh dịch đoạn Kinh này rõ ràng, dễ hiểu hơn: “Này đại vương! Ví như bốn đại, nương tựa nơi hư không để đứng, nhưng hư không lại không có chỗ nương tựa. Phiền não cũng vậy, nương vào pháp tánh, nhưng pháp tánh không có chỗ để nương”.

(4). Nhân vị: Chỉ cho các địa vị hoặc giai vị đạt được trong quá trình tu tập nhân hạnh cho đến khi chứng đắc quả vị tu hành.

(5). Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã ghi: “Lợi ích thí tức là thí Pháp. An lạc thí tức thí các nhu cầu sinh sống. Vô tận thí tức thị hiện Đạo. An lạc thí là khiến người sinh thiện. Hữu nghĩa ngữ là khiến người thấy lý. Như pháp ngữ là tùy thuận giáo pháp của Phật. Bất dị ngữ là thuyết Pháp như thực. Tài lợi ích bình đẳng là cái có thể ăn, có thể nuốt, có thể uống, có thể nếm, có thể liếm và y phục, vân vân. Thân lợi ích bình đẳng là những gì cần để thu nhiếp, phòng vệ, lợi ích thân mình, khiến người cũng thế. Mạng lợi ích bình đẳng là chân châu, lưu ly, san hô, mã não, đa phần là ngoại mạng. Tư cụ lợi ích bình đẳng là voi, ngựa, xe, tất cả tiền của chính đáng. Bồ Tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật, tự mình hành và người khác hành đều như nhau”.

Người dịch tuy dùng nhiều danh từ Hán Việt. Tuy nhiên, đã lột được nghĩa chân xác hơn.

(6). Tứ hướng, tứ quả Thanh văn:

1- Con đường dẫn vào 4 quả Thanh văn gọi là tứ hướng(4 hướng).

2- Tứ quả Thanh văn là: 1/. Tu đà hoàn (Dự lưu): 2/. Tư đà hàm (Nhất lai). 3/. A na hàm (Bất hoàn). 4/. A la hán (Vô học).

(7). Thập độ (十土): Mười cõi nước được lập ra tùy theo thắng đức chơn như của mỗi Địa mà Bồ Tát Thập địa chứng được. Đó là: Biến hành độ, Tối thắng độ, Thắng lưu độ, Vô nhiếp thụ độ, Loại vô biệt độ, Vô nhiễm tịnh độ, Pháp vô biệt độ, Bất tăng giảm độ, Trí tự tại độ và Nghiệp tự tại độ. [X. Đại pháp uyển nghĩa lâm chương Q.7, phần cuối]. (xt. Chân Như). - Phật Quang Từ điển.

Có nhiều tự điển khác giải thích thập độ là thập Ba la mật. Trong phẩm này thập độ chính là Mười cõi nước được lập ra tùy theo thắng đức chơn như của mỗi địa mà Bồ Tát Thập địa chứng được như giải thích ở trên. TB

 

Lược giải:

 

1. Nói về pháp tánh:

 

Để thuyết về “Pháp tánh”, Phật bảo:

“Từ vô thỉ các uẩn, xứ, giới luôn luôn nối tiếp nhau trong chúng sanh, nhưng thể của pháp tánh luôn thanh tịnh không bị ô nhiễm. Tất cả tâm ý thức không thể nương vào đó phát khởi; cho nên không từ 12 nhân duyên mà sinh. Đó gọi là vô tướng, chẳng phải là tác pháp, tự tướng của nó thường trụ không sinh, không cùng tận, không biên giới.

Bậc Bồ Tát thực hành Bát Nhã, biết được pháp tánh thanh tịnh như vậy, nên xa lìa được cấu uế, không bị nhiễm trước, cho nên vượt qua phiền não đạt đến giải thoát. Tánh này tức là pháp căn bản của chư Phật; công đức trí tuệ nhân nơi đây mà phát sinh, thể tánh của nó sáng suốt thanh tịnh, không thể nghĩ bàn”.

Pháp tánh tự tánh thanh tịnh, vắng lặng, không nhiễm ô. Nhưng chúng sanh phân biệt chấp trước pháp tánh, nên bị trôi lăn trong ba cõi sáu đường, nên gọi là chúng sanh tánh. Chúng sanh tánh luôn luôn chìm nổi, sanh diệt vô thường. Bồ Tát thực hành Bát Nhã, biết được pháp tánh thanh tịnh như vậy, xa lìa được cấu uế, không bị nhiễm trước, cho nên vượt qua phiền não mà được giải thoát.

Hội bảo uẩn xứ giới luôn luôn tiếp nối trong chúng sanh, nhưng thể của pháp tánh lúc nào cũng thanh tịnh không nhiễm ô. Uẩn xứ giới nói đây là đề cập đến con người và vạn hữu hay nói khác là Tâm và Vật, nhân sanh và vũ trụ. Hai thế giới này là hoàn toàn đối nghịch nhau tùy theo đứng trên phương diện Tục đế hay Đệ nhất nghĩa đế.

Hay nói khác là cảnh chuyển Tâm hay Tâm chuyển cảnh? Đối với chúng sanh:

 

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu?

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

                               Nguyễn Du.

 

Hai câu thơ trên của thi hào nổi danh của chúng ta bảo “lòng buồn thì cảnh làm sao vui?” Ý muốn nói tùy theo tâm trạng của con người mà cảnh vật chuyển hoặc vui hoặc buồn. Đó là nói về tâm sinh diệt của chúng sanh đứng trên cái nhìn Tục đế.

Lại có câu thơ bất hữu khác:

 

“Tâm bất biến giũa dòng đời vạn biến!”

                                          Vô danh.

 

Câu thơ vô danh này lại đi ngược với những cảm xúc của con người, nói lên tâm như như bất động dù cho cảnh vật có thay đổi hay không. Đó là đứng trên Chân đế hay Đệ nhất nghĩa đế. Điều này cho thấy sự khác biệt giũa Tục đế và Đệ nhất nghĩa đế.

Tất cả sự thảo luận về chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh… đều nằm trên sự khác biệt giữa hai quan niệm “bản hữu” và “tư sanh” này. Bản hữu là cái tự có vốn vô cấu, vô sanh vô diệt, tự tánh thanh tịnh trong sáng. Còn tư sanh là cái biến dịch đổi dời do khách trần mà bị luân chuyển trôi lăn!

Phật bảo tiếp:

“Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã có thể quán sát pháp tánh chơn tịnh như thế, tất cả Thánh giả như thật ngộ nhập. Không có người tu và pháp để tu, không có người thực hành và pháp để hành, không tâm, không có pháp thuộc tâm, không nghiệp, không quả báo, không khổ, không vui. Quán sát như thế gọi là bình đẳng, không phân chia, xa lìa tùy thuận quảng đại, không ngã, ngã sở, không cao, không thấp, chơn thật vô tận, thường trụ trong sáng. Vì sao? Vì tất cả Thánh pháp do đây mà thành thục, nhờ tánh này nên các bậc Thánh hiển hiện vô biên công đức và pháp bất cộng của chư Phật Như Lai đều từ tánh này xuất sanh. Giới, định, huệ của tất cả Thánh giả đều từ tánh này sanh ra. Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát, Phật đều từ tánh này sanh ra. Tánh này vắng lặng vượt các danh tướng. Tánh này chơn thật, xa lìa điên đảo. Tánh này chẳng biến đổi nên gọi là Thánh trí, là Đệ nhất nghĩa; chẳng có, chẳng không, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng phải sanh tử, chẳng phải Niết bàn, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, lìa nhất dị, không danh, không tướng”.

Ở đây Phật thuyết bản tánh hay tự tánh chúng sanh vốn thanh tịnh, vô cấu, đó là lối nói theo bản hữu. Nhưng vì khách trần mà sanh ra có nhiễm có tịnh: Phật, Bồ Tát “thực hành Bát Nhã, biết được pháp tánh chơn tịnh, nên xa lìa được cấu uế, không bị nhiễm trước, cho nên vượt qua phiền não đạt đến giải thoát”. Trong khi chúng sanh “bị các phiền não che lấp, trôi lăn trong sinh tử, chìm nổi sáu đường, suốt dòng sinh tử luân chuyển theo chúng sanh, nên gọi là tánh chúng sanh”, cái mà chúng ta gọi là tư sanh (huân tập từ bên ngoài).

Một khi Như Lai tạng tánh nằm trong triền phược (Như Lai tại triền) thì bị lưu chuyển trong 6 đường gọi là mê, mê tức chúng sanh. Nếu Như Lai thoát khỏi mọi ràng buộc (Như Lai xuất triền) được rỗng rang tự tại nên nói là ngộ, ngộ tức Phật. Đây là lối giải thích mê ngộ tùy theo Như Lai tạng tánh giống như lối giải thích về chủng tử của Pháp Tướng Tông. Theo Pháp Tướng Tông trong Tàng nha thức có hai loại chủng tử: Chủng tử tốt vô cấu giống như đậu trắng và chủng tử dơ, bất tịnh như đậu đen. Bậc Thánh hết lậu tận nên trong Tàng nha thức chứa toàn đậu trắng, kẻ ác tuệ nhiều tội lỗi oan nghiệt thì trong Tàng nha thức chỉ chứa toàn chủng tử dơ ví như đậu đen. Tu là vứt bỏ đậu đen để giữ lại toàn đậu trắng. Thí dụ này cốt giải thích về bản hữu và tư sanh hay cái nhìn của thế gian(Tục đế) đối với cái thấy biết của xuất thế gian(Đệ nhất nghĩa đế).

Pháp tánh tự tánh vắng lặng, nhiệm mầu.Nhưng chúng sanh không biết lại nương vịn khách trần, sanh ra hư vọng phân biệt nhiễm trước nên bị trôi lăn. Chúng sanh không thật chúng sanh, 5 uẩn không phải là chúng sanh. Nên chư Phật Bồ Tát hành sâu Bát Nhã biết bản tánh các pháp (tức pháp tánh) chơn tịnh, nên không bị các pháp chuyển mà trái lại có thể chuyển các pháp, nên không rời đạo tràng mà có thể chuyển pháp luân khắp cả 10 phương thế giới(Nói theo Kinh Lăng Nghiêm)..

Vì vậy, Kinh bảo: Pháp tánh thanh tịnh là gốc các pháp, tự tánh vốn không hư dối, phiền não đều từ tà niệm điên đảo mà sanh”.

“Giới, định, tuệ của tất cả Thánh giả đều từ tánh này sanh ra. Bát nhã Ba la mật của Bồ Tát, Phật đều từ tánh này sanh ra. Tánh này vắng lặng vượt các danh tướng. Tánh này chơn thật, xa lìa điên đảo. Tánh này chẳng biến đổi nên gọi là Thánh trí, còn gọi là Đệ nhất nghĩa; chẳng có, chẳng không, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng phải sanh tử, chẳng phải Niết bàn, chẳng nhiễm, chẳng tịnh, lìa nhất dị, không danh, không tướng”. Đó là pháp tánh.

Chúng tôi nghĩ với những giải thích cặn kẽ như trên có thể soi sáng cái gọi là pháp tánh. Các pháp gọi là chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế... là những pháp bất khả thuyết, bất khả tư nghì, ngôn ngữ thế gian bị giới hạn giữa các danh từ, nên chỉ có thể đi vòng vòng, đi vòng quanh không thể chỉ thẳng được. Phẩm này là một chứng minh.

Chúng ta thấy rõ có hai cách giải thích về pháp tánh: 1. Nói theo Đệ nhất nghĩa đế: Pháp tánh tự tánh vắng lặng, nhiệm mầu, bản tánh các pháp (tức pháp tánh) chơn tịnh, nên không bị các pháp chuyển mà trái lại có thể chuyển các pháp. Và 2. Nói theo Tục đế: Nhưng chúng sanh không biết như vậy, lại nương vịn khách trần, sanh ra hư vọng phân biệt nhiễm trước nên bị lưu chuyển trôi lăn.

Tu là loại trừ tất cả ý niệm và hình tướng của cảm quan và ý thức. Nói theo chuyên môn là muốn tránh tạo tác thì không những phải kiểm soát 5 uẩn, mà phải thúc liểm cả 6 thức năng y, 6 căn sở y và 6 cảnh sở duyên, nghĩa là đừng để căn tiếp xúc với trần mà sanh động niệm. Vì vậy, Thiền sư Bá Trượng bảo: “Tâm cảnh không đến với nhau thì giải thoát”.

Tu như vậy, là thấy pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh… tất cả đều như như không hai không khác.

 

2. Tại sao nói pháp tánh là tên khác của Chơn như?

 

Phẩm này nói về “Pháp Tánh” nhưng cũng đề cập đến Chơn như giống như phẩm “Pháp Giới” trước đây:

“Pháp tánh như, hữu tình như không hai, không khác. Hữu tình như, pháp tánh như không hai, không khác. Pháp tánh như, các pháp như không hai, không khác. Các pháp như, chư Phật như không hai, không khác. Pháp tánh như, như đó ba đời không trái nghịch nhau. Quá khứ như, vị lai như không trái nghịch nhau. Vị lai như, hiện tại như không trái nghịch nhau. Hiện tại như, quá khứ như không trái nghịch nhau. Uẩn, xứ, giới ba đời như. Uẩn, xứ, giới như tức nhiễm tịnh như. Nhiễm tịnh như tức sanh tử Niết bàn như. Sanh tử Niết bàn như tức các pháp như”.

“... Nói Như Như chính là Bất dị; không đổi, không sinh, không tranh, chân thực. Vì không tranh nên gọi là Như, thấy biết như thực các pháp không sinh. Các pháp tuy sinh, nhưng Như Như bất động. Như Như tuy sanh các pháp mà như đó chẳng sanh. Đó gọi là Pháp thân thanh tịnh, bất biến như hư không, vô đẳng đẳng, không có một pháp nào trong tam giới có thể sánh bằng. Khắp thân chúng sanh, không có cái tương tợ; thanh tịnh lìa cấu, xưa nay không nhiễm; tự tính trong sáng, thanh tịnh; tự tính không sinh; tự tính không khởi. Ở tâm, ý, thức mà không phải tánh của tâm, ý, thức; tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Khắp cõi hư không, khắp chúng hữu tình đều bình đẳng, vô lượng, vô biên, không có sai biệt. Không phải sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không lìa sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Không phải địa, thủy, hỏa, phong; không lìa địa, thủy, hỏa, phong. Không phải sanh, không lìa sanh. Tuy nghịch sanh tử nhưng chẳng thuận Niết bàn. Mắt không thể thấy, tai không thể nghe, mũi không thể ngửi, lưỡi không thể nếm, thân không thể xúc chạm, ý không thể biết. Không ở tâm, ý, thức, không lìa tâm, ý, thức.

Thiên vương nên biết! Đấy là pháp tánh”.

Trước hết phải nói đoạn Kinh này có thể xem là một định nghĩa về chơn pháp tánh của tất cả pháp(hay pháp như của tất cả pháp).

Từ “Như” hay “Như Như” là chỉ Chơn như thật tánh của tất cả pháp. Đoạn Kinh trên nói về chơn như này. Đó là “quan niệm” quan trọng của Đại thừa giáo, chỉ thể tính tuyệt đối cuối cùng của vạn hữu. Như đó là như như bất động, thường như, chẳng lúc nào chẳng như. Nó như vậy bởi vì nó như vậy, nằm ngoài mọi lý luận nhận thức. Như này nhằm chỉ cái ngược lại của thế giới hiện tượng thuộc thân tâm. Tri kiến được Chơn như tức là Giác ngộ, vượt ra khỏi thế giới nhị nguyên, chứng được cái nhất thể của khách thể và chủ thể.

Như này đồng nghĩa với Như Lai tạng, Phật tính, Pháp thân. Như này cũng chính là Không. Đó chính 1à chân như quan Bát Nhã như Đại Trí Độ Luận của Bồ Tát Long Thọ đã nói trong thích nghĩa nêu trên.

Chúng ta không lấy làm lạ Kinh hay Luận đối với những từ sau đây có thể thay thế cho nhau tùy trường hợp, để chỉ thật tánh của tất cả pháp: Chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế, Tánh Không…

Vì vậy, Kinh điển Đại thừa mới xếp loại chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh… hay nói rộng “thập nhị chân như” cùng một thể loại như nhau. Bởi vì chúng là anh em với nhau trong cùng bào thai gọi là Như Lai Tạng, nên đồng một như không hai không khác, không cùng tận.

Sau khi thuyết về chơn như như thế, rồi Phật bảo Tối Thắng Thiên Vương: “Đấy là pháp tánh”.

Đây không phải là một chuổi dài của lý luận mà đây là trực giác thực chứng của bậc giác ngộ. Chỉ có bậc Thánh mới thấy chơn như thật tánh của các pháp. Vì vậy, các Ngài mới tránh được mọi hệ lụy thế gian mà được giải thoát. Còn chúng sanh bị khách trần lôi kéo nên theo dòng thế gian mà lưu chuyển trong các cõi luân hồi, nên bị phiền não chẳng lúc nào yên. Phật bảo: “Pháp tánh thanh tịnh là gốc các pháp, tự tánh vốn không hư dối, phiền não đều từ tà niệm điên đảo mà sanh”. Trong phẩm này Phật cũng bảo: “… Biết rõ tất cả pháp đều là Phật pháp…”

Phật nói như vậy có nghĩa, nếu nhập được chơn như, pháp giới rồi thì 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới cùng sơn hà đại địa tức là Nhất thiết trí trí, là Vô thượng Bồ đề. Đó là lý do tại sao chúng tôi thường dẫn chứng câu nói của ngài Hoàng Bá: “Tất cả thanh sắc đều là mắt tuệ Phật”, hay câu nói của Triệu pháp sư “Trời đất cùng ta đồng gốc, vạn vật cùng ta đồng thể” và trong Nhà Thiền cũng bảo: “Chạm mắt tức Bồ đề”.

Khi nào nhập được chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế... thì có thể hiểu những tư tưởng kể trên!

 

3. Tại sao nói pháp tánh lại đề cập đến bình đẳng tánh?

 

“Ở trong 10 phương tìm cầu Phật pháp chắc chắn không thể được. Biết rõ tất cả pháp đều là Phật pháp, không thường, không đoạn. Vì sao? Vì tìm cầu pháp này không thể được. Dùng lý như thật tìm cầu không thể được. Pháp này không thể nói có, nói không, cũng không có danh tướng, vượt cảnh giới này. Nếu lìa danh tướng tức là bình đẳng. Nếu pháp bình đẳng thì không chấp trước. Vì không chấp trước nên là pháp chơn thật. Nếu chấp chơn thật tức là hư vọng. Vì chẳng chấp trước nên chẳng hư vọng. Vì tâm không bị chấp trước nên vô ngại. Vô ngại tức vô chướng. Vô chướng tức không tranh. Nếu không tranh tức đồng với hư không, chẳng lệ thuộc vào ba cõi. Nếu tất cả xứ không còn bị lệ thuộc thì pháp này vô sắc, vô tướng, vô hình. Nếu pháp vô sắc, vô tướng, vô hình, nên biết pháp ấy tùy theo cảnh giới kia nhưng lìa sự biết và đối tượng để biết. Vì sao? Vì trong ấy không có một chút pháp nào để giác ngộ, có thể giác ngộ. Đó là Bồ Tát hành sâu Bát Nhã thông suốt bình đẳng”.

Tất cả những gì thuyết giảng ở đây là nói xa nói gần về chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh... như đã trình bày trên. Bồ Tát hành sâu Bát Nhã chỉ cần quán thấy một trong các pháp này thì thâm nhập được thập nhị chơn như, thấu triệt thật tướng của tất cả pháp, mới có cái thấy bình đẳng thanh tịnh vượt mọi sai biệt của tất cả vạn hữu thế gian.

Phẩm “Bình Đẳng”, Q.570, Hội thứ VI, ĐBN. Nói:

- “Thiên vương nên biết! Các pháp quán bình đẳng, tự tánh của nó tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Tất cả phiền não hư vọng phân biệt, tự tánh tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Danh tướng phân biệt, tự tánh tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Điên đảo diệt, không khởi phan duyên nên gọi là bình đẳng. Tâm năng duyên vô minh, hữu ái diệt; vì si ái diệt, hoàn toàn tịch tĩnh, không còn chấp trước ngã và ngã sở nên gọi là bình đẳng. Vì ngã và ngã sở chấp vĩnh viễn không còn nên danh sắc tịch tĩnh, gọi là bình đẳng. Vì danh sắc diệt nên biên kiến không sanh, gọi là bình đẳng. Vì thường đoạn diệt nên thân kiến tịch tĩnh, gọi là bình đẳng”.

Chúng sanh bình thường thấy bình đẳng là tướng bên ngoài của các pháp như nước bình đẳng chỉ một mực ngang nhau, máu cùng một màu đỏ cùng một vị măn như nhau, nên cho đó là bình đẳng. Đó là cái thấy bình đẳng bên ngoài, vì ở bên ngoài nên dễ thấy. Nhưng thân tâm tịch tĩnh, tâm năng duyên vô minh, hữu ái diệt; vì si ái diệt, hoàn toàn tịch tĩnh, không còn chấp trước ngã và ngã sở nên gọi là bình đẳng. thường đoạn diệt nên thân kiến tịch tĩnh, gọi là bình đẳng. Đó là cái bình đẳng nằm bên trong. Bên trong khó thấy nên nói là nhận thức ở tầng cao hơn. Đây là bài pháp thuyết ở tầng cao của đạo Phật, giáo pháp hết sức thâm sâu.

Cùng đoạn Kinh trên, Phật nói tiếp:

“Thiên vương nên biết! Nói ngã là không đến không đi, không có chơn thật, là pháp phân biệt hư vọng, từ vọng sanh, cũng là hư vọng. Nếu các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo quán pháp như vậy thì lìa xa hư vọng, nên gọi là tịch tĩnh bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Năng chấp, sở chấp gọi là lửa, xa lìa gọi là tịch tĩnh, hoặc chướng là lửa, xa lìa gọi là tịch tĩnh. Nếu các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo, như thật biết năng chấp, sở chấp và các phiền não diệt thì thiện pháp tăng trưởng. Đoạn trừ năng chấp, sở chấp và các phiền não, nhưng không thấy sanh cũng không thấy diệt, nên gọi là bình đẳng. Tu hết thảy chủng loại Ba la mật xa lìa ma chướng, nhưng không thấy có tu cũng không thấy có lìa nên gọi là bình đẳng”.

Bây giờ, chúng ta có thể trả lời tại sao khi nói đến pháp giới, pháp tánh, lại nói đến bình đẳng tánh? Bởi vì trong chơn pháp giới tất cả pháp đều như như bất động, nên nói tất cả pháp đều bình đẳng không hai không khác. Đó cũng là đặc tánh chung của thập nhị chơn như  hay “thập nhị không”hay còn gọi “12 tên gọi thực tướng” của tất cả pháp. Trong rỗng không tất cả pháp đều bình đẳng, có bình đẳng rồi thì được thanh tịnh, và thanh tịnh này là cửa ngỏ của trí tuệ.

 

4. Các pháp không sanh không diệt:

 

Phật bảo Tối Thắng: - “Thiên vương nên biết! Vì các pháp không diệt nên không sanh. Vì sao? Vì tánh không biến đổi, chỉ do người thế tục thấy có sanh, có diệt, đó là sự thấy biết hư vọng, không chơn thật. Những Bồ Tát bằng phương tiện thiện xảo hành sâu Bát Nhã, thì thấy pháp nhân duyên, biết rõ tục đế là Không, vô sở hữu, không bền chắc, không có mà tợ như có, như huyễn hóa, như ảo mộng, như âm vang, như bóng sáng, như ảo ảnh, như quáng nắng, như việc biến hóa, như thành Tầm hương, lay động chẳng yên, đều do nhân duyên mà sanh khởi.

Các Bồ Tát này dùng Bát Nhã vi diệu quán sát các pháp Không, nói rộng cho đến từ nhân duyên sanh khởi. Các Bồ Tát này tư duy: Các pháp này thấy có sanh, có trụ, có diệt. Do nhân duyên nào mà sanh? Do nhân duyên nào mà diệt? Tư duy như vậy rồi biết rõ như thật, do vô minh sanh các hành, do hành sanh thức, nói rộng cho đến do hữu nên có sanh, do sanh nên có lão, do lão nên có tử và ưu, sầu, khổ, não. Cho nên cần phải tu hành để diệt vô minh. Nếu diệt vô minh thì mười một chi còn lại lần lượt diệt theo, như thân đã diệt thì mạng sống đều diệt theo.

Thiên vương nên biết! Tà kiến ngoại đạo mong cầu giải thoát, chỉ muốn đoạn tử chẳng biết đoạn sanh. Nếu pháp không sanh thì không có diệt”. 

Quan niệm con người vốn bản hữu, tự tánh thanh tịnh, bất nhiễm đối với tri thức thường tục của chúng ta là điều khó nuốt, khó tiêu hóa. Bây giờ, nói vạn hữu không sanh không diệt nữa lại càng không thể chấp nhận được? Đối với con người trần tục ai cũng thấy có sanh trụ dị diệt. Con người sanh ra lớn lên, già chết... ai cũng thấy như vậy, nên khi nói các pháp không sanh không diệt, không ai tin nhận. Phật quan niệm các pháp hiện hữu là do nhân duyên. Duyên hợp gọi là sanh, duyên tan thì gọi là diệt. Như nói vô minh sanh hành, hành sanh thức, thức sanh lục xứ, lục xứ sanh xúc, xúc sanh thọ, thọ sanh ái, ái sanh thủ, thủ sanh hữu, hữu sanh sanh, sanh sanh lão tử. Khi vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt... cho đến sanh diệt thì lão tử diệt. Một chuỗi dài sanh diệt vô cùng tận, nhưng không ai biết nguyên do của sanh diệt là do duyên hợp. Chặt đứt bất cứ mắc xích nào trong chuỗi duyên sanh thì không còn tử nữa.

Chư Phật không thấy sanh, các pháp sở dĩ có sanh là do duyên hợp, khi duyên rã rời thì gọi là diệt. Diệt nhưng chẳng có gì gọi là diệt, chỉ là biến thể chớ không phải biến mất. Vì biết như vậy nên chư Bồ Tát mới đạt được Vô sanh pháp nhẫn mà chứng Vô thượng Bồ đề.

Bồ Tát biết như vậy nên đoạn sanh, giết cái mầm sanh thì làm gì có tử? Còn chúng sanh sợ tử nên chỉ muốn đoạn tử để sống mãi. Nên phải lăn lóc chịu khổ trong luân hồi. Hết sanh rồi tử, hết tử rồi sanh bất tận chẳng bao giờ dứt như vòng lửa quay!

 

5. Tu tịnh hạnh:

 

Các Bồ Tát tu Bát Nhã, biết nhân duyên không, không khởi ngã mạn, nên khi sanh trong cảnh nghèo khổ tự biết nghiệp đời trước không được thanh tịnh nên có quả báo thấp kém, liền bỏ cuộc đời, xuất gia tu tịnh hạnh mong thoát khỏi cảnh tối tăm. Tự mình cầu độ, cũng lại độ người; tự cầu giải thoát, cũng lại giải thoát cho người. Vì nhân duyên này tức sanh tinh tấn tu phạm hạnh mà đoạn trừ được phiền não.

“Các Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã như thế thì thường tùy thuận thế gian, thấy kẻ giận dữ thì sanh nhường nhịn, thấy kẻ kiêu mạn thì khởi tưởng vô ngã, thấy kẻ tà vạy thì khởi tưởng chánh trực. Thấy người vọng ngữ thì nói lời chân thật. Thấy kẻ nói ác thì dùng ái ngữ. Thấy kẻ cứng cỏi thì thị hiện nhu hòa. Thấy kẻ nóng giận thì sanh từ nhẫn. Thấy kẻ theo pháp tà thì sanh đại từ. Thấy kẻ khổ não thì sanh đại bi. Thấy kẻ xan tham, tật đố thì hành bố thí”.

Đó là lối hành đạo của Bồ Tát, gọi là Bồ Tát hạnh, hành như thế mới siêu xuất, mới xứng đáng mang danh Bồ Tát.

“Lợi ích thí tức là thí Pháp. An lạc thí tức thí các nhu cầu sinh sống. Vô tận thí tức thị hiện Đạo. An lạc thí là khiến người sinh thiện. Hữu nghĩa ngữ là khiến người thấy lý. Như pháp ngữ là tùy thuận giáo pháp của Phật. Bất dị ngữ là thuyết Pháp như thực. Tài lợi ích bình đẳng là cái có thể ăn, có thể nuốt, có thể uống, có thể nếm, có thể liếm và y phục, vân vân. Thân lợi ích bình đẳng là những gì cần để thu nhiếp, phòng vệ, lợi ích thân mình, khiến người cũng thế. Mạng lợi ích bình đẳng là trân châu, lưu ly, san hô, mã não, đa phần là ngoại mạng. Tư cụ lợi ích bình đẳng là voi, ngựa, xe, tất cả tiền của chính đáng. Bồ Tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật, tự mình hành và người khác hành đều như nhau”.

Bố thí thì buông bỏ vạn duyên, xả bỏ tất cả trong ngoài tức biết thương xót hữu tình, nên nói là có tâm bình đẳng mới có thể hóa độ tất cả.

“... Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã quan sát pháp sanh đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả hoàn toàn không thấy ngã, không thấy hữu tình cho đến không thấy người biết và người thấy. Tuy hành bố thí nhưng không thấy có sự xả bỏ; tuy trì tịnh giới nhưng lìa giới tướng; tuy tu tập an nhẫn nhưng tâm vô tận; tuy tu tập tinh tấn nhưng lìa tướng ấy; tuy tu tập tịnh lự nhưng không có sự vắng lặng; tuy tu tập Bát Nhã nhưng không có đối tượng; tuy tu tập niệm trụ nhưng không chấp chặt; tuy tu tập chánh đoạn nhưng tâm bình đẳng; tuy tu tập thần túc nhưng lìa hý luận, tuy tu tập căn lực nhưng không phân biệt các căn của hữu tình và xa lìa lầm lỗi; tuy tu tập giác chi nhưng không phân biệt; tuy tu tập chi Thánh đạo nhưng tâm vô công dụng; tuy tu tập tịnh tín nhưng không chấp trước. Trí tuệ tự nhiên nhớ nghĩ các pháp với tâm trí bình đẳng, tu tập các diệu định mà tâm không phân biệt, quan sát diệu tuệ mà tâm không ngừng nghỉ. Tu tập quán chỉ tâm không có sự thấy, tu tập pháp quán tâm không có chỗ niệm. Tu tùy niệm Phật tâm thông suốt pháp giới bình đẳng, tu tùy niệm Pháp tâm không có chỗ trụ, tu tùy niệm Tăng nên thanh tịnh bản tâm. Giáo hóa hữu tình không có tâm phân biệt. Tâm pháp giới bao trùm tất cả pháp. Tâm như hư không, trang nghiêm cõi Phật. Tâm không có chỗ chứng đắc đạt Vô sanh nhẫn. Tâm không tiến lùi đạt Bất thối chuyển, xa lìa tâm tướng, không thấy có tướng. Ở trong tam giới dùng tâm bình đẳng, trang nghiêm tòa Bồ đề. Tâm không có chỗ giác ngộ biết rõ tất cả pháp. Tuy chuyển pháp luân nhưng không thấy người nghe, người nói. Tuy hiện Niết bàn nhưng biết bản tánh sanh tử bình đẳng”.

“... Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, quán sát các pháp như vậy nhưng không thấy quán, không thấy có pháp để quán nên được thần thông tự tại. Vì sao? Vì tâm thanh tịnh nên thấy tất cả hữu tình thanh tịnh”.

Tất cả những dẫn chứng nói trên cốt nêu lên lối tu tịnh hạnh. Chỉ cần tu một trong lục độ vạn hạnh như tu tịnh giới thành công thì được gọi là Thánh. Không ai trong cõi đời này có thể tự hào là suốt đời không bao giờ phạm lỗi, chỉ có bậc đạo hạnh sâu dày mới có thể làm được, nên mới được xưng tụng là Thánh nhân. Vì vậy, Phật bảo:... Bồ Tát nào chỉ cần tu một hạnh là đầy đủ các pháp. Như vậy, một hạnh cũng sanh về cõi Phật thanh tịnh. Vì sao? Vì trong mỗi một hạnh đầy đủ các hạnh”.

Tu tịnh hạnh như vậy là sẵn sàng “dọn mình” để chứng Thánh. Nên trong phẩm “Niệm Trụ Đẳng” cũng như phẩm “Pháp Tánh” này Phật dạy tu tịnh hạnh quá thiết tha. Vậy, những ai ấp ủ Bồ đề tâm thương sót chúng sanh phải thọ trì những khuyến dẫn trên của chư Phật cho hạnh nguyện vuông tròn để sớm tế độ chúng sanh.

Có rất nhiều pháp môn vi diệu thuyết giảng trong phẩm này, chúng tôi chỉ lược tóm vài pháp môn chánh. Xin Quý vị thọ trì cẩn thận, đây là một phẩm hay nhất trong các phẩm hay nhất nói về pháp tánh và tịnh hạnh.

 

- Sau đây chúng tôi trình bày các bậc thang giáo lý của Bồ Tát thập địa để các đạo hữu thấy tầm quan trọng trong việc chứng nhập pháp giới:

Bồ Tát thập địa muốn chứng đắc Giác ngộ để được Chánh giác và Nhất thiết trí trí phải có 10 thân Như Lai. Phẩm “Pháp Tánh”, Q.568, ĐBN, nói cứ tu xong một địa thì được một thân Như Lai:

1. Sơ địa (tức Hoan hỉ địa) thì được thân bình đẳng;

2. Nhị địa (tức Li cấu địa) thì được thân thanh tịnh;

3. Tam địa (tức Phát quang địa) thì được thân vô tận;

4. Tứ địa (tức Diệm tuệ địa) thì được thân tu tập viên mãn;

5. Xong ngũ địa (tức Cực nan thắng địa) thì được thân pháp tánh;

6. Vào lục địa (tức Hiện tiền địa) thì được thân lìa tầm tứ;

7. Xong a tăng kỳ kiếp tứ hai, vào thất địa (tức Viễn hành địa) thì được thân bất tư nghì;

8. Bước vào a tăng kỳ kiếp thứ ba, nhập bát địa (tức Bất động địa) thì được thân tịch tịnh;

9. Tu xong địa thứ chín (tức Thiện tuệ địa) thì được thân hư không;

10. Vào địa vị thứ mười (tức Pháp vân địa) thì được thân diệu trí, tức vào Đẳng giác, rồi đạt Diệu giác thì thành Phật.

Như vậy, từ sơ địa cho đến thất địa mới được thân bình đẳng, thân thanh tịnh, thân pháp tánh và thân khả bất tư nghì. Qua a tăng kỳ kiếp thứ hai trước khi thành Phật, mới được thân tịch tịnh, thân như hư không.

- Ai cũng có thân, nhưng muốn được phạm hạnh hơn người thì phải có thân giáo. Thân giáo là giáo pháp vô ngôn. Tuy vô ngôn nhưng có hiệu năng cảm hóa được con người. Người có thân giáo phải là bậc gương mẫu có đạo hạnh, đáng được kính trọng trọn vẹn, đáng nêu gương.

Xin trở lại vấn đề tu tịnh hạnh. Muốn vượt qua thập địa Bồ Tát, phải học Bát Nhã để chứng nhập thập nhị chơn như. Nhập thập nhị chơn như là nhập pháp giới tức Giác ngộ. Có Giác ngộ mới có cơ hội phục vụ chúng sanh. Vì vậy, Kinh bảo phải: “Thành tựu Bát Nhã, giáo hóa hữu tình”, đó là nhị hạnh của Bồ Tát. Viên mãn hai hạnh này là hoàn thành sứ mạng của Bồ Tát. Đó là mục tiêu đầu tiên cũng là mục tiêu tối hậu trong cuộc đời hành đạo của các Ngài. Không có mục tiêu này, cuộc đời của các Ngài không còn ý nghĩa nữa!

Toàn thể bài pháp này nói đến pháp không, pháp như, bình đẳng và thanh tịnh mà Hội thứ X có tên “Lý Thú Bát Nhã Phần”, xem các từ này như các “đại luân tự”, gọi là trí ấn (Thân ấn, Ngữ ấn, Tâm ấn, Pháp ấn) và trí tạng (Thắng tạng, Như Lai tạng, Kim cương tạng, Chánh pháp tạng, Diệu pháp tạng) trong Bí mật tạng ba đời của chư Như Lai.

Vì vậy, chúng tôi lưu ý tu thập nhị chơn như, là con đường tu tắt, có cơ hội nhập pháp giới, được Giác ngộ mà giải thoát./.

 

---o0o---

 

 

 

 

07. PHẨM “BÌNH ĐẲNG”

 

Đầu quyển 570, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương phẩm 6 “Bình Đẳng”, Kinh TTVBN) 

 

Gợi ý:

Đây cũng là thượng phẩm trong các phẩm thuộc Hội thứ VI, ĐBN. Nếu thông đạt phẩm này thì chắc chắn chứng được “thập nhị chơn như” như các phẩm chơn như, pháp giới pháp tánh vừa tụng xong. Đại Bát Nhã đã giới thiệu các phẩm tương tự như vậy rải rác trong 5 Hội đầu. Tuy nhiên, ở đây Phật trực tiếp giảng dạy Thắng Thiên Vương ý nghĩa sâu mầu của từng giáo lý thâm diệu này. Và cũng nhờ tu các giáo lý này nên Phật mới được đầy đủ 10 thân Như Lai mà truyền đạt lại cho Thắng Thiên Vương, và sau đó cũng chính Phật ngay trong phẩm này thọ ký cho Tối Thắng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề!

 

Tóm lược:

 

Quyển 570

 

1.(Tất cả danh sắc tự tánh tịch tĩnh, không sanh không diệt

 nên gọi là bình đẳng)

 

Bấy giờ, Tối Thắng từ chỗ ngồi đứng dậy, kéo phủ áo che vai bên trái, quì gối phải chấm đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Như đức Thế Tôn dạy, pháp tánh bình đẳng. Vậy thế nào là bình đẳng? Những pháp nào gọi là bình đẳng?

Phật dạy Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các pháp quán bình đẳng, tự tánh của nó tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Tất cả phiền não hư vọng phân biệt, tự tánh tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Danh tướng phân biệt, tự tánh tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Các điên đảo diệt, không khởi phan duyên nên gọi là bình đẳng. Tâm năng duyên vô minh, hữu ái diệt; si ái diệt, hoàn toàn tịch tĩnh, không còn chấp trước ngã và ngã sở nên gọi là bình đẳng. Vì ngã và ngã sở chấp vĩnh viễn không còn nên danh sắc tịch tĩnh, gọi là bình đẳng. Vì danh sắc diệt nên biên kiến không sanh, gọi là bình đẳng. Vì thường đoạn diệt nên thân kiến tịch tĩnh, gọi là bình đẳng.

Thiên vương phải biết: Năng chấp sở chấp tất cả phiền não chướng, thiện ác ấy đều nương thân kiến mà sanh. Nếu các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã phương tiện khéo léo năng diệt được thân kiến, tất cả phiền não và tùy miên đều vắng lặng, khởi muốn cũng dứt. Ví như đại thọ bị bật gốc rễ thì cành lớn nhỏ đều khô chết. Như người không đầu, mạng căn đều dứt. Tùy miên phiền não cũng lại như thế, nếu dứt thân kiến các thứ kia đều diệt hẳn. Nếu người quán được các pháp vô ngã thì năng chấp sở chấp đều vắng lặng hẳn.

 

(Bình đẳng mà Hiến Chương Liên Hiệp Quốc rêu rao như quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau, màu da sắc áo ngang nhau, ngôn ngữ, văn hóa, tôn giáo bình đẳng v.v… chỉ là cái vỏ bên ngoài(sở). Cái bình đẳng bên trong(năng) “tất cả phiền não hư vọng phân biệt, tự tánh tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Danh tướng phân biệt, tự tánh tịch tĩnh, không sanh không diệt, nên gọi là bình đẳng. Các điên đảo diệt, không khởi phan duyên nên gọi là bình đẳng. Tâm năng duyên vô minh, hữu ái diệt; si ái diệt, hoàn toàn tịch tĩnh, không còn chấp trước ngã và ngã sở nên gọi là bình đẳng…” Tịch tĩnh bên trong, đó là nội chúng đưa đến cảnh giới thanh tịnh, nên bình đẳng này mới được xem là siêu việt).

 

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao ngã kiến khởi lại làm chướng ngại chân lý?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Đối với năm thủ uẩn, vọng chấp cho là ngã thì tức khởi ngã kiến. Pháp chân thực tự tính bình đẳng, không có nắm bắt và cái được nắm bắt, trái với ngã kiến, nên không gọi là chướng.

Thiên vương nên biết! Thông đạt bình đẳng, gọi là quán Không chơn thực. Không, Vô tướng, Vô nguyện, tự tính tịch tĩnh, không sinh, không diệt, không nắm bắt, không dính mắc, xa lìa ngã kiến, gọi là bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Nói ngã là không đến không đi, không có chơn thật, là pháp phân biệt hư vọng, từ vọng sanh, cũng là hư vọng. Nếu các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo quán pháp như vậy thì lìa xa hư vọng, nên gọi là tịch tĩnh bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Năng chấp, sở chấp gọi là lửa, xa lìa gọi là tịch tĩnh, hoặc chướng là lửa, xa lìa là tịch tĩnh. Nếu các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo, như thật biết năng chấp, sở chấp và các phiền não diệt thì thiện pháp tăng trưởng. Đoạn trừ năng chấp, sở chấp và các phiền não, nhưng không thấy sanh cũng không thấy diệt, nên gọi là bình đẳng. Tu hết thảy Ba la mật xa lìa ma chướng, nhưng không thấy có tu cũng không thấy có lìa nên gọi là bình đẳng.

 

2.(Bồ Tát phải quán ngoại duyên như thế nào để

phát sanh tâm bình đẳng?)

 

Bồ Tát thường duyên Bồ đề phần pháp (1), không khởi tâm Thanh Văn, Độc giác mà đối với các Bồ đề phần pháp, Thanh Văn, Duyên Giác, không thấy tướng khác nhau, gọi là bình đẳng. Tâm duyên Nhất thiết trí, không ngừng nghỉ, thường tu hạnh Không; vì lực Đại bi không bỏ chúng sanh, gọi là bình đẳng. Thiên vương nên biết! Nếu các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo, đối với tất cả pháp, tâm duyên tự tại, tâm duyên vô tướng mà tu Bồ đề, không thấy vô tướng và Bồ đề khác nhau, nên gọi là bình đẳng. Tâm duyên vô nguyện, không bỏ tam giới, không thấy vô nguyện và tam giới khác nhau, nên gọi là bình đẳng. Quán thân bất tịnh, tâm trụ thanh tịnh. Quán hành vô thường, tâm duyên sanh tử mà không chán bỏ. Quán hữu tình khổ, trụ Niết bàn vui. Quán pháp vô ngã, khởi tâm đại bi đối với các loài hữu tình, thường vì hữu tình mà nói thuốc bất tịnh, nhưng không thấy bệnh tham; thường nói đại từ nhưng không thấy bệnh sân; thường nói duyên khởi nhưng không thấy bệnh si. Vì những kẻ bệnh như vậy mà nói thuốc vô thường, nhưng không thấy các bệnh và vô thường khác nhau. Như vậy, Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo, đối với tất cả pháp, tâm duyên tự tại, duyên pháp ly tham là giáo hóa Thanh văn, duyên pháp ly sân là giáo hóa Độc giác, duyên pháp ly si là giáo hóa Bồ Tát. Duyên tất cả sắc, vì nguyện được diệu sắc thanh tịnh vô sở đắc của Như Lai. Duyên tất cả âm thanh, vì nguyện được âm thanh vi diệu vô sở đắc của chư Phật. Duyên tất cả hương, vì nguyện được giới hương thanh tịnh vô sở đắc của chư Phật. Duyên tất cả vị, vì nguyện được tướng đại sĩ phu bậc nhất trong vị vô sở đắc của Như Lai. Duyên tất cả xúc, vì nguyện được bàn tay mềm mại vô sở đắc của Như Lai. Duyên tất cả pháp, vì nguyện được tâm tịch tĩnh vô sở đắc của Như Lai. Tâm duyên bố thí, vì muốn thành tựu thân tướng hảo của Phật. Tâm duyên tịnh giới, vì muốn được quốc độ cõi Phật thanh tịnh. Tâm duyên an nhẫn, nguyện được thân tịnh, quang minh, âm thanh Đại phạm của Như Lai. Tâm duyên tinh tấn, vì nguyện độ hữu tình thường không bị gián đoạn. Tâm duyên tĩnh lự, vì muốn thành tựu thần thông quảng đại. Tâm duyên Bát Nhã, vì muốn đoạn trừ tất cả phiền não vọng kiến. Tâm duyên đại từ bình đẳng vô ngại, vì muốn các hữu tình đều được an lạc. Tâm duyên đại bi, vì muốn hộ trì chánh pháp, cứu độ hữu tình thoát khỏi khổ lớn sanh tử. Tâm duyên đại hỷ, vì muốn được vô ngại tự tại nói pháp, làm vui tất cả hữu tình. Tâm duyên đại xả, vì không còn kiến chấp hữu tình, phiền não, trói buộc, tùy miên.                                                   

Thiên vương nên biết! Nếu các Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã, không thấy 2 việc thì gọi là hành bình đẳng. Duyên tứ nhiếp pháp(2) vì hóa độ hữu tình. Duyên lỗi keo kiệt ganh ghét, vì bỏ tài sản, tu hành bố thí. Duyên lỗi phá giới, vì trụ tịnh giới. Duyên lỗi sân giận, vì muốn được an nhẫn. Duyên lỗi biếng nhác, vì muốn thành tựu đại lực tinh tấn của Như Lai. Duyên lỗi tán loạn, vì muốn đắc định thù thắng tịch tĩnh của Như Lai. Duyên lỗi ác tuệ, vì muốn thành tựu trí tuệ vô ngại của Như Lai. Duyên pháp nhị thừa, vì muốn thành tựu Đại thừa vô thượng. Duyên các cõi ác, vì muốn cứu độ tất cả hữu tình. Duyên các cõi thiện, vì muốn hữu tình biết quả của chư thiên và loài người đều sẽ tan hoại. Duyên các hữu tình, vì muốn hữu tình thông đạt tất cả chỉ là hư vọng, không bền chắc. Duyên tùy niệm Phật, vì muốn thành tựu định thù thắng trợ đạo. Duyên tùy niệm Pháp, vì muốn thông đạt các pháp bí tạng. Duyên tùy niệm Tăng, vì muốn hòa hợp chúng, tâm không thối chuyển. Duyên tùy niệm xả, vì không ái trước. Duyên tùy niệm giới, vì muốn được giới thanh tịnh. Duyên tùy niệm thiên, vì muốn thành tựu Bồ đề, chư thiên tán thán. Duyên tướng tự thân, vì muốn được thân Phật. Duyên tướng tự ngữ, vì muốn được Phật ngữ. Duyên tướng tự ý, vì muốn được tâm bình đẳng của chư Phật. Duyên pháp hữu vi, vì muốn thành tựu Phật trí. Duyên pháp vô vi, vì muốn được tịch tĩnh.

(Mỗi thứ duyên “dù tốt dù xấu” trình bày trong đoạn Kinh trên là một viên ngọc. Hiểu và thực hành theo lời Phật dạy, được như vậy sẽ có cái thấy bình đẳng và thông hóa trên mọi cảnh giới, liền thoát ly sanh tử, chứng Niết bàn tịch tĩnh, an vui)

 

3.(Thấy xấu thì biết tốt, tùy cơ hóa độ chúng sanh)

 

Thiên vương nên biết! Các Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật, không có luống qua một tâm một hạnh mà chẳng hồi hướng Nhất thiết trí. Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật như thế, tuy duyên khắp các pháp nhưng không chấp trước, cho nên gọi là phương tiện thiện xảo. Quán tất cả pháp đều hồi hướng đến đại Bồ đề. Giống như Tam thiên đại thiên thế giới sanh ra các vật, không một vật nào mà không được hữu tình thọ dụng. Cũng vậy, các cảnh giới mà Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật duyên vào, không có cảnh giới nào hồi hướng Bồ đề mà không lợi ích. Ví như các sắc, không có sắc nào mà không có nhân bốn đại chủng. Cũng vậy, các cảnh giới mà Bồ Tát duyên vào, không có một pháp nào mà không hướng đến Bồ đề. Vì sao? Vì Bồ Tát tu hành đều do ngoại duyên mà được thành tựu. Nghĩa là các Bồ Tát thấy nhờ kẻ keo kiệt mà thành tựu bố thí Ba la mật; nhờ thấy kẻ bội ơn mà thành tựu tịnh giới Ba la mật; nhờ thấy kẻ ác mà thành tựu an nhẫn Ba la mật; nhờ thấy kẻ biếng nhác mà thành tựu tinh tấn Ba la mật; nhờ thấy kẻ tán loạn mà thành tựu tĩnh lự Ba la mật; nhờ thấy kẻ ngu si mà thành tựu Bát nhã Ba la mật.

Như các hữu tình làm tổn não Bồ Tát, Bồ Tát nhờ đó chiết phục sân giận. Như thấy người tu hành thiện pháp hướng đến Bồ đề, Bồ Tát sanh tâm xem như con mình. Như thế, Bồ Tát tán thán, không ưa chê bai, không sanh sân giận. Thấy người không vui, Bồ Tát khởi tâm đại từ. Thấy người đau khổ, Bồ Tát khởi tâm đại bi. Thấy người an vui, Bồ Tát khởi tâm đại hỷ. Thấy người không khổ, Bồ Tát khởi tâm đại xả. Vì người khó giáo hóa, Bồ Tát phát khởi Xa ma tha (chỉ). Vì người dễ giáo hóa, Bồ Tát phát khởi Tì bát xá na (quán). Vì người tín hạnh, Bồ Tát phát khởi trí tri ân. Nếu thấy hữu tình ác duyên bên ngoài mạnh hơn thiện duyên bên trong thì Bồ Tát khuyên nên thủ hộ. Nếu thấy người khỏe mạnh, đầy đủ năng lực thì Bồ Tát dùng đủ loại phương tiện dạy cho họ lãnh thọ giáo pháp. Nếu thấy hữu tình trí tuệ khai ngộ thì Bồ Tát tuyên thuyết pháp yếu sâu xa cho họ. Nếu thấy hữu tình giảng rộng mới ngộ thì Bồ Tát nói các pháp theo thứ lớp. Nếu các hữu tình chấp trước văn tự thì Bồ Tát nói cú nghĩa để cho họ hiểu. Nếu người đã học thiền chỉ thì Bồ Tát dạy thiền quán vi diệu. Nếu người đã học thiền quán thì Bồ Tát dạy thiền chỉ vắng lặng. Nếu người chấp chặt trì giới thì Bồ Tát nói địa ngục cho họ, nếu trì giới mà không chấp thì không nói điều này. Nếu người chấp văn tuệ thì Bồ Tát dạy tư tuệ. Nếu người chấp đẳng trì thì Bồ Tát dạy Bát Nhã. Nếu có người ưa thích A lan nhã thì Bồ Tát dạy pháp tâm viễn ly. Nếu có người thích nghe công đức của Phật thì Bồ Tát dạy cho họ nghe Thánh trí vô thượng.

Vì người tham dục, Bồ Tát dạy pháp bất tịnh. Vì người sân giận, Bồ Tát dạy pháp từ bi. Vì người ngu si, Bồ Tát dạy pháp duyên khởi. Vì người đẳng phần, Bồ Tát dạy các loại pháp, hoặc dạy pháp bất tịnh, hoặc dạy pháp từ bi, hoặc dạy pháp duyên khởi. Nếu người đã điều phục thì Bồ Tát dạy giới thanh tịnh, định thù thắng, tuệ vi diệu cho họ. Với người cần vào Phật thừa mới nhận sự giáo hóa thì Bồ Tát nói Ba la mật theo thứ lớp cho họ. Với người cần áp chế mới nhận sự giáo hóa thì Bồ Tát trước phải bẻ gãy ngôn từ của họ, sau mới nói pháp. Với người cần nghe nhiều ngôn từ mới nhận sự giáo hóa thì Bồ Tát nói nhân duyên thí dụ để cho họ được hiểu. Với người cần nghe pháp sâu xa mới nhận sự giáo hóa thì Bồ Tát nói Bát Nhã sâu xa, phương tiện thiện xảo, vô ngã, vô pháp cho họ.

Với người chấp thủ các kiến, Bồ Tát nên nói pháp Không. Với người nhiều tầm tứ, Bồ Tát nói pháp vô tướng. Với người chấp thủ pháp hữu vi, Bồ Tát nói pháp vô nguyện. Với người chấp thủ các uẩn, Bồ Tát nói pháp như huyễn. Với người chấp thủ các cõi, Bồ Tát nói pháp vô tánh. Với người chấp thủ các xứ, Bồ Tát nói pháp như mộng. Với người chấp thủ cõi Dục, Bồ Tát nói sự thiêu đốt hừng hực. Với người chấp thủ cõi Sắc, Bồ Tát nói pháp hành khổ. Với người chấp thủ cõi Vô sắc, Bồ Tát nói các hành vô thường. Với hữu tình khó giáo hóa, Bồ Tát tán thán Thánh chúng. Với hữu tình dễ giáo hóa, Bồ Tát nói pháp tĩnh lự và vô lượng tâm. Với người nghe nói sanh thiên mới chịu sự giáo hóa thì Bồ Tát nói pháp an lạc. Với người nhờ nghe pháp Thanh văn mới chịu sự giáo hóa thì Bồ Tát nói pháp Tứ đế. Với người nhờ nghe pháp Độc giác mới chịu sự giáo hóa thì Bồ Tát nói pháp duyên khởi. Với người nhờ nghe pháp Bồ Tát mới chịu sự giáo hóa thì Bồ Tát nói tâm thanh tịnh. Với người tu hạnh Bồ Tát với pháp đại từ bi thì Bồ Tát nói pháp phước và tuệ. Với Bồ Tát bất thối thì Bồ Tát nói pháp tịnh độ. Với Bồ Tát chỉ còn một lần sanh nữa thì Bồ Tát nói pháp nghiêm tịnh tòa Bồ đề. Với người cần nghe Phật nói mới chịu sự giáo hóa thì Bồ Tát nói trình tự nhiều lần.

 

(Trăm ngàn thành tựu tánh đức trí tuệ để trở thành bậc Thánh đều nằm trong các Thánh chỉ kể trên. Nếu chấp hành nghiêm mật thì một sớm một chiều không những trở thành Thượng tri thức của ba vạn người mà còn trở thành bậc Vô thượng Giác ngộ của toàn thể chúng sanh nữa).

 

Thiên vương nên biết! Bồ Tát hành sâu Bát Nhã thanh tịnh như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, đạt được tự tại, nói pháp lợi ích, không có lỗi hư rỗng.

Khi đức Thế Tôn nói pháp tự tại của Bồ Tát thì ba vạn trời, người đều phát tâm Vô thượng Bồ đề, năm ngàn Bồ Tát đắc vô sanh nhẫn.

Bấy giờ, đức Thế Tôn liền mỉm cười. Thường pháp của chư Phật mỉm cười như vậy thì từ miệng phóng ra vô lượng ánh sáng đủ màu sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng và màu pha lê, chiếu khắp 10 phương vô biên thế giới, hiện bày việc hiếm có, rồi trở về chỗ Phật, nhiễu quanh ba vòng, sau đó nhập vào đảnh Ngài.

 

4.(Phật thọ ký cho Thắng Thiên vương)

 

Khi thấy tướng tốt lành ấy, trong lòng Xá lợi Tử phân vân, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, kéo y che vai trái, quì gối phải chấm đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Vì nhân duyên gì Ngài hiện tướng tốt lành này?

Phật bảo Xá lợi Tử:

- Này Xá lợi Tử! Trong vô lượng, vô số, vô biên đại kiếp quá khứ, vị trời Tối Thắng ấy đã từng ở chỗ chư Phật, tu hành tất cả Ba la mật, vì các Bồ Tát mà thủ hộ Bát nhã Ba la mật. Do nhân duyên đây, nên nay ông ta được gặp Như Lai, tiếp nhận Bát nhã Ba la mật, trải qua vô lượng, vô số đại kiếp đời vị lai, tu tập tư lương Bồ đề vô thượng, sau đó chứng đắc Vô thượng Bồ đề, đầy đủ mười hiệu, tên Phật là Công Đức Trang Nghiêm, cõi nước tên là Tối Cực Nghiêm Tịnh, kiếp tên là Thanh Tịnh. Cõi ấy an lạc sung túc, dân chúng hưng thịnh đều là Bồ Tát Tăng, không có chúng Thanh văn. Đại địa cõi ấy do bảy báu trang nghiêm hợp thành, bằng phẳng như bàn tay, được trang sức bởi các loại cỏ cây, hương hoa xinh đẹp, không có các đồi núi gồ ghề, trang nghiêm bằng các loại cờ phướn lọng hoa. Cõi ấy có đô thành lớn tên là Nan Phục, bên trên được bao phủ bằng lưới bảy báu, kim tuyến bao quanh, linh vàng treo lơ lửng các góc. Ngày đêm sáu thời, trên không trung tấu nhạc và tán rải các loại hương hoa vi diệu của cõi trời. Dân chúng quốc độ ấy vui thích thọ lạc, thù thắng vi diệu hơn cả Thiên cung Tha hóa tự tại; trời, người đến đi không ngăn ngại nhau, không có ba đường ác và tên gọi Nhị thừa. Hữu tình cõi ấy chỉ cầu trí Phật. Phật ấy thường vì các đại Bồ Tát tuyên thuyết đủ loại pháp yếu thanh tịnh. Vô lượng, vô số, vô biên quyến thuộc Bồ Tát cõi ấy không có tà kiến chấp thủ, không có phá giới tà mạng, cũng không có đui, điếc, câm, ngọng, gù lưng, khuyết căn… và các việc xấu ác. Thân của các vị ấy được trang nghiêm bằng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Cõi ấy, đức Như Lai thọ tám tiểu kiếp, chúng trời, người không có ai chết yểu. Phật ấy có vô lượng công đức như vậy. Nếu Phật muốn nói pháp thì trước hết phóng ánh sáng. Thấy ánh sáng ấy, các chúng Bồ Tát biết đức Thế Tôn sắp nói pháp, liền cùng nhau đến nghe.

Khi ấy, chư thiên trải tòa Sư tử cho Phật. Tòa ấy cao rộng trăm do tuần, trang nghiêm bằng đủ loại, cúng dường vô lượng. Đức Thế Tôn thăng tòa, vì chúng mà thuyết pháp. Các Bồ Tát ấy lợi căn thông minh, nghe qua một lần là lãnh hội, lìa xa ngã và ngã sở, khi ứng niệm thì các vật dụng, đồ ăn thức uống liền đến.

Lúc Phật nói pháp thọ ký Tối Thắng thì 5 vạn trời, người thân tâm vui vẻ, cùng phát tâm Vô thượng Bồ đề, nguyện đời vị lai sanh cõi Phật ấy.

Nghe Phật nói vậy, Tối Thắng vô cùng vui mừng, phấn khởi không sao tả được, bay lên hư không khoảng bảy cây Đa la, ba ngàn cõi biến động sáu cách, kĩ nhạc chư thiên không đánh tự kêu, tán rải các loại hoa trời cúng dường Phật, đại Bồ Tát  và Thiên vương Tối Thắng.

Sau đó, Thiên vương Tối Thắng từ hư không bay xuống, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi một bên.

 

Thích nghĩa:

(1). Bồ đề phần pháp: Còn gọi là Tam thập thất đạo phẩm(37 pháp trợ đạo), Tam thập thất phẩm... Gồm: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo. Đôi khi Bồ đề phần pháp nói gọn chỉ cho bảy chi đẳng giác(còn gọi là Thất giác phần).

(2). Tứ nhiếp pháp: Bốn cách tiếp dẫn chúng sinh của Đại thừa: 1- Bố thí, 2- Ái ngữ,  3- Lợi hành và 4- Đồng sự.

 

Lược giải:

 

1. Làm thế nào soi thấy các pháp bình đẳng?

 

Chúng ta thường mộc mạc nghĩ rằng tất cả mặt nước biển của thế giới bất cứ nơi nào… cũng đều một mực ngang nhau, nên nói là bình đẳng hay nói bóng bẩy như Phật: Tất cả chúng sanh máu cùng đỏ, vị cùng mặn như nhau, hay nói như Hiến Chương Liên Hiệp Quốc, một văn kiện tối cao của xả hội loài người, nghĩa vụ và quyền lợi của mọi chủng tộc ngang nhau nên gọi là bình đẳng... Bình đẳng này chỉ có trên phương diện cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng, cộng đồng với các quốc gia dân tộc khác. Đây cái bình đẳng bên ngoài dễ thấy dễ biết. Vì dễ thấy, dễ biết nên dễ nói… Sống mà ý thức và trách nhiệm được như vậy là có trình độ, có đạo đức hơn người.

Lên một tầng nữa quán các pháp không sinh, không diệt, tự tánh vắng lặng. Do vậy, tất cả phiền não, giả dối, phân biệt, chấp trước, không sanh không khởi, tự tánh vắng lặng, nên nói là bình đẳng. Danh tướng hư vọng, các tưởng điên đảo, tâm phan duyên, ái hành dứt diệt... thì si ái không chỗ nương, không chỗ bám. Ngã và ngã sở không tồn tại thì danh sắc sẽ ngủ yên; danh sắc ngủ yên nên thân kiến, biên kiến, kiến thủ lấy đâu sanh khởi. Thân kiến, biên kiến, kiến thủ chẳng thể sanh khởi nên chấp đoạn, chấp thường không còn gốc rễ thì tâm thể được như như bình đẳng.

Tất cả phiền não tương tục, năng thủ sở thủ, năng trước sở trước, chướng ngại pháp lành đều nương vào thân kiến mà sinh trưởng. Diệt được thân kiến thì tất cả tạo tác và kết sử đều đoạn dứt và vắng lặng, nên được bình đẳng. Đây là bình đẳng phát xuất từ bên trong, khó thấy. Khó thấy mà thấy được mới cho là siêu suất. Như vậy, bệnh trong, bệnh ngoài hay cả hai không còn nữa thì pháp nhãn thanh tịnh. Lúc bấy giờ mới thấy chơn như, pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh… hiện tiền. Nên thân tâm được như như bất động, thì thân ngữ ý liền thanh tịnh. Vì vậy, Đại Bát Nhã thường bảo tất cả mọi thứ (năng duyên-sở duyên) trở nên tịch tĩnh nên nói là bình đẳng hay thanh tịnh.

Tất cả sai trái, phải quấy bắt đầu từ ngã kiến, ngã kiến che thì chướng ngại chân lý. Đối với thân năm ấm, vọng chấp có ngã liền sinh ngã kiến. Nhưng pháp chân thật tự tánh bình đẳng, như như, vốn không năng sở, chấp đắm. Chính do ngã kiến trái ngược chánh giác nên gọi là chướng.

Sạch trong sạch ngoài, không chỗ nương bám nên vắng lặng, tức gọi bình đẳng. Xa lìa ngã kiến, thấu rõ bình đẳng, gọi là quán không, tức là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Quán như vậy là chân thật, tức biết ngã không đến, không đi, không còn phân biệt, chấp trước, tự tánh vắng lặng không sinh-diệt, không thủ-xả, xa lìa ngã kiến gọi là bình đẳng.

Thực hành Bát Nhã quán sát các pháp như vậy, xa lìa được hư vọng. Nên có thể biết như thật đã đoạn trừ phiền não. Đoạn trừ nhưng chẳng có gì để đoạn trừ, vì không thấy pháp để tu và không thấy pháp để xa lìa, tự nhậm xa lìa nên phát sinh bình đẳng mà được tự tại.

 

Pháp thoại giữa Phật và Thắng Thiên vương của phẩm “Bình Đẳng” Q.570, Hội thứ VI này, được xem là thậm thâm pháp bảo khi nói về “bình đẳng tánh” trong thập nhị chơn như, như sau:

- “Bạch đức Thế Tôn! Khi ngã kiến khởi thì chướng ngại chân lý như thế nào?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Đối với năm thủ uẩn, vọng chấp cho là có ngã thì tức là khởi ngã kiến. Pháp chơn thật, tự tánh của nó bình đẳng, không có năng chấp và sở chấp. Nếu ngã kiến trái nhau, nên gọi là chướng ngại.

Thiên vương nên biết! Ngã kiến như vậy không ở trong, không ở ngoài, không ở 2 bên, đều không chỗ trụ nên gọi là tịch tĩnh, tức là bình đẳng xa lìa ngã kiến. Thông đạt bình đẳng, gọi là chơn thật Không. Quán sát Không, vô tướng, vô nguyện này tự tánh tịch tĩnh không sanh, không diệt, không thủ, không trước, xa lìa ngã kiến nên gọi là bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Nói ngã là không đến không đi, không có chơn thật, là pháp phân biệt hư vọng, từ vọng sanh, cũng là hư vọng. Nếu các Bồ Tát hành Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo quán pháp như vậy thì lìa xa hư vọng, nên gọi là tịch tĩnh bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Năng chấp, sở chấp gọi là lửa thiêu đốt, lìa tên gọi tịch tĩnh. Các phiền não chướng gọi là lửa thiêu đốt, lìa tên gọi tịch tĩnh. Nếu các Bồ Tát hành Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo, như thật biết năng chấp, sở chấp và các phiền não diệt thì thiện pháp tăng trưởng. Đoạn trừ năng chấp, sở chấp và các phiền não, nhưng không thấy sanh cũng không thấy diệt, nên gọi là bình đẳng. Tu hết thảy chủng loại Ba la mật lìa xa ma chướng, nhưng không thấy có tu cũng không thấy có lìa nên gọi là bình đẳng. Bồ Tát thường duyên pháp phần Bồ đề, không tác ý khởi Thanh văn, Độc giác, nhưng đối với phần Bồ đề Thanh văn, Độc giác, Bồ Tát không thấy dị tướng, nên gọi là bình đẳng.

Thiên vương nên biết! Tâm không ngừng nghỉ duyên Nhất thiết trí, thường tu hạnh Không, do lực đại bi mà không bỏ hữu tình, nên gọi là bình đẳng. Nếu các Bồ Tát hành Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo, đối với tất cả pháp, tâm duyên tự tại, tâm duyên vô tướng mà tu Bồ đề, không thấy vô tướng và Bồ đề khác nhau, nên gọi là bình đẳng. Tâm duyên vô nguyện, không bỏ tam giới, không thấy vô nguyện và tam giới khác nhau, nên gọi là bình đẳng v.v...

(...) Thiên vương nên biết! Nếu các Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã sâu xa, không thấy hai thì gọi là hành bình đẳng”.

Trong toàn thể ĐBN không có phẩm nào thuyết về bình đẳng vi diệu như phẩm này. Những ai chưa học Đại Bát Nhã cũng không thể biết cái bình đẳng “bên trong”. Đó là nội chứng. Có nội chứng nên nói là giác ngộ. Tuy nói chứng nhưng chẳng có gì để chứng. Vì bình đẳng không thể học không thể chứng.

 

2. Bồ Tát phải quán, phải duyên các pháp như thế nào?

 

Bồ Tát hành sâu Bát Nhã dạy chúng sanh 4 pháp quán về thân thọ tâm pháp là bất tịnh, là khổ, là vô thường, là vô ngã để chúng sanh tìm an vui Niết bàn v.v... Đó là quán: Tứ niệm xứ.

Đối với tất cả pháp Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo, dạy chúng sanh tâm duyên tự tại là giáo hóa Thanh văn, duyên pháp ly sân là giáo hóa Độc giác, duyên pháp ly si là giáo hóa Bồ Tát. Duyên sắc, vì nguyện được diệu sắc thanh tịnh. Duyên âm thanh, vì nguyện được âm thanh vi diệu. Duyên hương, vì nguyện được giới hương thanh tịnh. Duyên vị, vì nguyện được tướng đại sĩ phu. Duyên xúc, vì nguyện được bàn tay mền mại để xoa dịu các nỗi đau thương của chúng sanh. Duyên tất cả pháp, vì nguyện được tâm tịch tĩnh.

“Tâm duyên bố thí, vì muốn thành tựu thân tướng hảo của Phật. Tâm duyên tịnh giới, vì muốn được quốc độ cõi Phật thanh tịnh. Tâm duyên an nhẫn, nguyện được thân tịnh, quang minh, âm thanh Đại phạm của Như Lai. Tâm duyên tinh tấn, vì nguyện độ hữu tình thường không gián đoạn. Tâm duyên tĩnh lự, vì muốn thành tựu thần thông quảng đại. Tâm duyên Bát Nhã, vì muốn đoạn trừ tất cả phiền não vọng kiến. Tâm duyên đại từ bình đẳng vô ngại, vì muốn các hữu tình đều được an lạc. Tâm duyên đại bi, vì muốn hộ trì chánh pháp, cứu độ hữu tình thoát khỏi khổ lớn sanh tử. Tâm duyên đại hỷ, vì muốn được vô ngại tự tại nói pháp, làm vui tất cả hữu tình. Tâm duyên đại xả, vì không còn kiến chấp hữu tình, phiền não, trói buộc, tùy miên”.                                                    

“... Duyên tứ nhiếp pháp vì hóa độ hữu tình. Duyên lỗi keo kiệt ganh ghét, vì bỏ tài sản, tu hành bố thí. Duyên lỗi phá giới, vì trụ tịnh giới. Duyên lỗi sân giận, vì muốn được an nhẫn. Duyên lỗi biếng nhác, vì muốn thành tựu đại lực tinh tấn của Như Lai. Duyên lỗi tán loạn, vì muốn đắc định thù thắng tịch tĩnh của Như Lai. Duyên lỗi ác tuệ, vì muốn thành tựu trí tuệ vô ngại của Như Lai, v.v...”.

Duyên tất cả pháp không kể tốt xấu mục đích giúp mình tự cải thiện thân tâm để trở thành người phạm hạnh thánh thiện hơn. Nếu thành công thì được cái thấy biết bình đẳng giữa chúng sanh và vạn hữu để dọn đường cho thánh trí tự giác xuất hiện.

 

3. Thấy xấu thì biết tốt, tùy cơ hóa độ chúng sanh.

 

Bồ Tát đối “với người chấp thủ các kiến, thuyết pháp Không. Với người nhiều tầm tứ, Bồ Tát nói pháp vô tướng. Với người chấp thủ pháp hữu vi, Bồ Tát nói pháp vô nguyện. Với người chấp thủ các uẩn, Bồ Tát nói pháp như huyễn. Với người chấp thủ các cõi, Bồ Tát nói pháp vô tánh. Với người chấp thủ các xứ, Bồ Tát nói pháp như mộng. Với người chấp thủ cõi Dục, Bồ Tát nói sự thiêu đốt hừng hực. Với người chấp thủ cõi Sắc, Bồ Tát nói pháp hành khổ. Với người chấp thủ cõi Vô sắc, Bồ Tát nói các hành vô thường. Với hữu tình khó giáo hóa, Bồ Tát tán thán Thánh chúng. Với hữu tình dễ giáo hóa, Bồ Tát nói pháp tĩnh lự và vô lượng tâm. Với người nghe nói sanh thiên mới chịu sự giáo hóa thì Bồ Tát nói pháp an lạc. Với người nhờ nghe pháp Thanh văn mới chịu sự giáo hóa thì Bồ Tát nói pháp Tứ đế. Với người nhờ nghe pháp Độc giác mới chịu sự giáo hóa thì Bồ Tát nói pháp duyên khởi. Với người nhờ nghe pháp Bồ Tát mới chịu sự giáo hóa thì Bồ Tát nói tâm thanh tịnh. Với người tu hạnh Bồ Tát với pháp đại từ bi thì Bồ Tát nói pháp phước và tuệ. Với Bồ Tát bất thối thì Bồ Tát nói pháp tịnh độ. Với Bồ Tát chỉ còn một lần sanh nữa thì Bồ Tát nói pháp nghiêm tịnh tòa Bồ đề. Với người cần nghe Phật nói mới chịu sự giáo hóa thì Bồ Tát nói trình tự nhiều lần”.

Bồ Tát hành sâu Bát Nhã biết rõ tâm hành sai khác của chúng sanh (Tăng cũng như Tục) mà thuyết pháp tùy theo căn cơ để hóa độ như vậy.

 

Kết luận chung:

(Cho 3 phẩm: Pháp giới, pháp tánh và bình đẳng tánh).

 

Chơn như: Chơn là chơn thực, như là thường như, thể tính của các pháp chơn thực thường như. Pháp giới tức là nói chỗ nương của muôn pháp(tức thế giới ngoại). Pháp tánh là nói bản thể(thế giới nội). Bình đẳng là nói tâm không hai mà pháp cũng bất nhị, lìa tướng sai biệt. Nếu thấy muôn pháp đổi dời, tâm theo khách trần bị lay chuyển, thì đó là bệnh từ ngoài vào. Pháp vốn như, chẳng lúc nào chẳng như, nhưng tâm sanh diệt đổi dời, nên không thấy được như như. Đó là bệnh từ trong ra. 

Phẩm kế tiếp có tên là “Hiện Tướng” Q.570, ĐBN. Nói: “Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã như vậy, tâm không có chỗ duyên cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Vì các Bồ Tát này, tâm không hành cũng không có chỗ hành, tâm không tưởng cũng không có chỗ tưởng, tâm không duyên cũng không có chỗ duyên, tâm không dính mắc cũng không có chỗ dính mắc, tâm không loạn cũng không có chỗ loạn, tâm không cao thấp, tâm không thuận nghịch, tâm không buồn, không vui, không phân biệt, lìa phân biệt…”

Nếu tâm không phân biệt, lìa tướng phân biệt chấp trước, thì tất cả pháp đều vắng lặng bình đẳng như như. Vậy thì trong, ngoài, cả hai đều không bệnh, tức được thanh tịnh thôi!

Pháp không cũng là không, pháp như cũng là không, pháp giới cũng không, pháp tánh cũng không, bình đẳng tánh cũng là không nốt. Tất cả đều bất khả đắc, chỗ gọi là đệ nhất nghĩa đế. Tất cả như vậy không do Phật làm ra, không do ai làm ra, không thể tu, không thể chứng, nên gọi là bất khả tư nghì.

Phương pháp hóa đạo có khác là tùy theo căn tánh chúng sanh, nên Bồ Tát thuyết có quán, có duyên, có trong, có ngoài, có trụ, không trụ, có tốt, có xấu... nhưng tâm Bồ Tát luôn luôn như như bất động.

 

Phẩm “Thắng Nghĩa Du Già” của Kinh Đại Bát Nhã, Phật bảo cụ thọ Thiện Hiện:

“Các pháp như (chơn như), pháp giới, pháp tánh, tánh chẳng hư dối, tánh chẳng biến khác, tánh bình đẳng, tánh ly sanh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Như Lai ra đời hoặc chẳng ra đời, tánh tướng thường trụ, đấy gọi tất cả pháp tánh bình đẳng. Tánh bình đẳng đây gọi pháp thanh tịnh, đây nương thế tục nói là thanh tịnh, chẳng nương thắng nghĩa. Vì sao? Vì trong thắng nghĩa đế không phân biệt, không hý luận, bặt cả danh tự, ngôn thuyết”.

 

Phẩm “Bình Đẳng” của Hội này, Phật cũng bảo:

“Tâm duyên Nhất thiết trí, không có ngừng nghỉ, thường tu hạnh Không; vì lực Đại bi không bỏ chúng sanh, gọi là bình đẳng… Nếu các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, dùng phương tiện thiện xảo, đối với tất cả pháp, tâm duyên tự tại, tâm duyên vô tướng mà tu Bồ đề, không thấy vô tướng và Bồ đề khác nhau, nên gọi là bình đẳng. Tâm duyên vô nguyện, không bỏ tam giới, không thấy vô nguyện và tam giới khác nhau, nên gọi là bình đẳng”.

 (...) Thiên vương nên biết! Nếu các Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật, không thấy hai thì gọi là hành bình đẳng”.

Tri kiến được Chơn như, Pháp giới, Pháp tánh, Bình đẳng tánh hay nói chung là thập nhị chân như tức Giác ngộ. Lại không phân biệt chấp trước, không theo hai pháp, không hành hai hạnh, không theo hai tướng... thì có thể tháo gở được bức màn đen tối phủ kín tâm thức ngàn đời để chứng thật tế, được giải thoát mà sang bờ kia! Vì vậy, trong nhiều pháp hội thuộc ĐBN Phật thường nói Không, Như như, Bình đẳng và Thanh tịnh là các đại luân tự, là pháp ấn, là trí ấn, trí tạng của chư Phật. Vì chúng là thân ấn, ngữ ấn, tâm ấn cũng là trí ấn, trí tạng ba đời của tất cả chư Phật. Phật tu Bồ Tát đạo, phải chứng thân bình đẳng, thân thanh tịnh, thân pháp tánh, thân bất khả tư nghì mới trở thành bậc Chánh giác.

 

Phẩm“Bất Khả Động” Q.386, Hội thứ I, ĐBN. Nói:

“Nếu bản tánh của tất cả pháp chẳng không, thì các đại Bồ Tát  chẳng vì các hữu tình thuyết tất cả pháp đều bản tánh không; thuyết như thế là hoại bản tánh không. Nhưng bản tánh không, lý chẳng thể hoại, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn. Vì sao? Vì lý bản tánh không không phương, không xứ, không từ đâu đến, cũng không về đâu. Lý không như thế cũng gọi là pháp tánh. Trong ấy không có pháp, không tụ, không tán, không tăng, không giảm, không sanh, không diệt, không nhiễm, không tịnh; tất cả pháp ấy vốn là tánh an trụ. Các đại Bồ Tát an trụ trong đó, cầu đạt quả vị Giác ngộ tối cao chẳng thấy các pháp có chỗ hướng đến, không chỗ hướng đến, vì tất cả pháp hoàn toàn không sở trụ, cho nên gọi là pháp trụ. Các đại Bồ Tát an trụ trong đó, tu hành Bát Nhã, thấy tất cả pháp bản tánh không rồi, nhất định hướng đến quả vị Giác ngộ tối cao, được bất thối chuyển. Vì sao? Vì đại Bồ Tát  ấy chẳng thấy có pháp có thể gây chướng ngại. Vì thấy tất cả pháp không chướng ngại nên đối với quả vị Giác ngộ tối cao chẳng sanh nghi hoặc, vì vậy nên không bao giờ thối thất”.

Tu như vậy là đạt đến biên tế thực tại của tất cả pháp. Nên nói là chứng thật tế thì có thể nhập Niết bàn. Người nào chứng được Chơn như thật tánh các pháp thì được xem là Giác ngộ. Vì vậy, Đại Trí Độ Luận, phẩm thứ nhất, Tập 2, quyển 32, nói rằng: “Khi đã vào được nơi Thật Tướng pháp rồi, thì chẳng còn có sự phân biệt giữa tướng và tánh. Lúc bấy giờ, tướng và tánh chỉ là một, chẳng phải hai, chẳng phải khác. Bởi vậy, nên Thật Tướng pháp còn được gọi là: Pháp như, pháp tánh, thật tế.

- Pháp Như: Là tánh như như, bất biến của các pháp. Tánh ấy vốn thường KHÔNG.

- Pháp Tánh: Là bản tánh, là thật thể của các pháp. Tánh ấy vốn thường KHÔNG.

- Thật Tế: Là lý chân thật, vẹn toàn của các pháp. Thật Tế vốn cũng thường KHÔNG.

Hỏi: Pháp Như, Pháp Tánh và Thật Tế có 3 nghĩa riêng khác, hay chỉ có một nghĩa thôi?

Đáp: Pháp Như, Pháp Tánh và Thật Tế đều là Thật Tướng Pháp cả, đều diễn đạt lý KHÔNG của các pháp. Chỉ là một nghĩa mà có 3 tên gọi khác nhau, để tùy trường hợp rộng giải về lý KHÔNG.

Đây chỉ là phương tiện. Thật ra Pháp Như, Pháp Tánh, Thật Tế đều là bất khả đắc cả”.

Do đó, trong Đại thừa giáo, tất cả từ Chơn như, Pháp giới, Pháp tánh, Bất hư vọng tánh, Bất biến dị tánh, Bình đẳng tánh, Pháp định, Pháp trụ, Thật tế, Hư không giới, Bất tư nghì giới, Phật tánh, Tánh Không, Vô tướng, Thật Tướng, Pháp thân, Viên Thành Thực, Tự tánh Thanh tịnh thân, Bản lai diên mục, Như như, Niết bàn… tất cả những từ này đồng nghĩa với nhau, chúng lưu xuất từ giữa lòng chân tánh của tất cả vật thể trần gian hay nói theo thuật ngữ đạo Phật, từ trong cùng một bào thai của Như Lai gọi là Như Lai Tạng nên gọi là như. Chứng được như đó thì trở thành Như Lai không khác.

Phải nói thêm rằng không có Kinh nào trong hệ Bát Nhã thuyết về các pháp không, pháp như, bình đẳng và thanh tịnh vi diệu như Hội thứ VI này (kể cả Hội thứ X, ĐBN có tên “Lý Thú Bát Nhã Phần”), tụng đi tụng lại nhiều lần cũng cảm thấy chưa đủ. Văn từ chương cú hết sức lưu loát, nghĩa thú lại quá phong phú. Đó là nét đặc thù của Hội thứ VI, ĐBN, có không khí khác hẳn với 5 pháp hội đầu, giúp ích rất nhiều trong việc bồi dưỡng phước đức trí tuệ. Thật là thậm thâm pháp bảo!

Chứng giải này có thể mang lại xác tín cho những ai phụng trì nó./.

 

---o0o---

 

 

 

 

 

 

08. PHẨM “HIỆN TƯỚNG”

 

Cuối quyển 570, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương phẩm 7, “Hiện Tướng”, Kinh TTVBN)

 

  Tóm lược:

 

Bấy giờ, Xá lợi tử hỏi Tối Thắng:

- Bồ Tát tu hành Bát Nhã sâu xa, bằng phương tiện thiện xảo thông đạt pháp tánh. Khi ấy, tức liền ngồi tòa Bồ đề, chứng đắc Vô thượng Bồ đề, chuyển bánh xe pháp vi diệu, độ chúng hữu tình. Vậy vì nhân duyên gì mà trước phải hiện tướng khổ hạnh 6 năm, hàng phục thiên ma, sau mới thành Chánh giác?

Tối Thắng đáp:

- Đại đức nên biết! Bồ Tát tu hành Bát Nhã, bằng phương tiện thiện xảo thông đạt pháp tánh, thật không có khổ hạnh, vì điều phục ngoại đạo nên thị hiện đó thôi. Lại nữa, Thiên ma kia là vua cõi Dục, bẩm tánh hiền hòa, thật chẳng đáng ngại, nhưng vì giáo hóa hữu tình nên thị hiện hàng phục. Vì các ngoại đạo tự xưng là mình tu khổ hạnh bậc nhất, nên Bồ Tát thị hiện tu khổ hạnh hơn các vị khổ hạnh ấy. Nghĩa là có các hữu tình thấy Bồ Tát đứng một chân, hoặc thấy Bồ Tát đứng giơ hai tay, hoặc thấy Bồ Tát đứng nhìn mặt trời, hoặc thấy Bồ Tát phơi thân dưới mặt trời, bốn bên đốt lửa chịu nóng, hoặc thấy Bồ Tát treo ngược thân, hoặc thấy Bồ Tát nằm trên gai gốc, hoặc nằm trên phân bò, hoặc ngồi trên đá, hoặc nằm trên đất, hoặc nằm trên ván mỏng, hoặc nằm trên cái chày, hoặc nằm trên tro đất, hoặc thấy Bồ Tát chỉ mặt áo bằng ván cây, hoặc mặc áo cỏ gai, hoặc mặc áo cỏ rơm, hoặc mặc áo vỏ cây, hoặc mặc áo cỏ tranh, hoặc lộ hình, hoặc hướng mặt về phía mặt trời, xoay chuyển theo mặt trời, hoặc thấy Bồ Tát chỉ ăn cây cỏ, hoặc ăn lúa mạch, hoặc ăn rễ cây, hoặc ăn lá cây, hoặc ăn hoa quả, hoặc ăn hoài sơn, hoặc ăn khoai sọ, hoặc ăn ngó sen, hoặc ăn đậu, hoặc ăn ngũ cốc, hoặc ăn mè, hoặc ăn gạo, hoặc sáu ngày ăn một bữa, hoặc uống nước qua ngày, hoặc trong một ngày chỉ ăn một chút bơ, hoặc một giọt mật, hoặc một giọt sữa, hoặc không ăn gì, hoặc thường ngủ say. Bồ Tát thị hiện đủ loại khổ hạnh như vậy, hơn sáu năm trường mà không thiếu sót buông bỏ tí nào. Nhưng thật ra, Bồ Tát không có hành khổ hạnh ấy. Với những hữu tình đáng độ, tự thấy có Bồ Tát hành khổ hạnh như vậy. Có sáu mươi muôn ức các chúng trời, người do thấy việc này mà an trụ nơi Tam thừa.

Lại có trời, người đời trước đã trồng thiện căn tín lực thâm sâu ưa thích Đại thừa, nên khi thấy đài bảy báu của Bồ Tát ngồi, thấy Bồ Tát thân tâm bất động, nét mặt tươi vui mỉm cười, nhập vào đẳng trì tối thắng. Trải qua sáu năm, Bồ Tát mới từ định khởi xuất, có các trời, lại có chúng sanh vui sâu Đại thừa, nếu muốn nghe pháp, liền thấy Bồ Tát ngồi ngay ngắn thuyết pháp.

Đại đức nên biết! Bằng phương tiện thiện xảo như vậy, Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, chế phục thiên ma, ngoại đạo, đại bi hóa độ hết thảy hữu tình. Đã trải qua sáu năm, từ định khởi xuất, Bồ Tát tùy thuận thế pháp, đến sông Vô cấu tẩy rửa. Sau khi tắm rửa xong, Bồ Tát lên đứng trên bờ. Tại đây, có một người nữ chăn bò lấy sữa của trăm con bò hòa chung cho một con bò uống. Sau đó, nàng ta lấy sữa của con bò này nấu thành cháo sữa, dâng cho Bồ Tát.

Lại có sáu ức trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược… đều đem đủ loại hương thơm, đồ ăn thức uống mĩ vị đến dâng cho Bồ Tát, thưa rằng: “Thưa Đại sĩ! Thưa Chánh sĩ! Cúi xin Ngài thọ nhận đồ ăn thức uống của con cúng dường”. Bồ Tát vì thương họ mà thọ nhận tất cả.

Khi ấy, nàng mục đồng và các trời, rồng, Kiện đạt phược… ai cũng cảm thấy như Bồ Tát chỉ nhận đồ cúng của mình thôi.

Lúc đó, có vô lượng các trời, người… do thấy Bồ Tát nhận đồ cúng mà được ngộ đạo. Cho nên Bồ Tát vì họ mà thị hiện việc ấy. Thật ra, lúc bấy giờ, Bồ Tát không có tắm rửa, cũng không có thọ nhận của trời, người… cúng dường.

Đại đức nên biết! Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, thị hiện đi đến tòa Bồ đề. Khi ấy, trời Địa cư tên là Diệu Địa cùng với các thiên thần quét dọn, trang hoàng, rưới nước hương, rải hoa thơm vi diệu khắp cả khu vực ấy.

Khắp ba ngàn đại thiên thế giới ấy, Tứ đại thiên vương thống lãnh chúng trời của mình tuôn trận mưa hoa vi diệu cúng dường Bồ Tát. Thiên chủ Đế Thích phân các Thiên vương thống lãnh chúng trời của mình, trụ giữa hư không tấu âm nhạc trời, tán thán Bồ Tát. Thiên vương Hỷ Túc thống lãnh chúng trời của mình, đem lưới bảy báu phủ khắp cả thế giới, bốn góc lưới ấy được treo các linh vàng, tím và phun mưa các báu cúng dường Bồ Tát. Thiên vương Thiện Hóa thống lãnh chúng trời của mình, dùng lưới vàng, tím giăng khắp cả thế giới, đánh các loại nhạc trời, làm các loại mưa hoa cúng dường Bồ Tát. Thiên vương Tự Tại thống lãnh chúng trời của mình, như các rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược… đem đủ các loại phẩm vật thượng diệu cúng dường Bồ Tát. Đại Phạm Thiên Vương, chủ thế giới Kham Nhẫn thấy Bồ Tát đến tòa Bồ đề, liền bảo tất cả chúng Phạm thiên rằng:

“Các ông nên biết! Nay Bồ Tát này, giáp trụ kiên cố, tự trang nghiêm mình, chẳng trái với thệ nguyện xưa, tâm không biếng nhác, các hạnh Bồ Tát đều đã đầy đủ viên mãn, thông đạt vô lượng pháp hóa độ hữu tình, đều được tự tại nơi các địa Bồ Tát. Tâm Ngài thanh tịnh, khéo biết hết thảy căn tánh khác nhau của các hữu tình, thông đạt tạng bí mật sâu xa của Như Lai, giác ngộ siêu tuyệt tất cả sự nghiệp của ma, tập hợp các thiện căn chẳng dựa vào ngoại duyên, được hết thảy các đức Như Lai hộ niệm, rộng vì hàm thức(1) mà khai mở môn giải thoát, là đại tướng Đạo sư đánh tan quân ma, dũng mãnh độc nhất trong đại thiên giới, là đại Y vương khéo cho thuốc pháp. Ngài từ bỏ sự quán đảnh, nhận ngôi vị pháp vương, phóng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp các cõi, tám pháp thế gian chẳng nhiễm ví như hoa sen, thông đạt trọn vẹn các môn tổng trì, sâu xa khó lường giống như biển lớn, an định bất động như núi Diệu Cao, trí tuệ thanh tịnh không chút cấu nhiễm, trong ngoài tinh khiết như châu Mạc ni, với các pháp tướng đều được tự tại, phạm hạnh thanh bạch đạt đến tuyệt đối. Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, vì độ hữu tình mà đến tòa Bồ đề, trải tòa, ngồi kiết già, hàng phục ma oán, thành tựu vô lượng vô biên công đức của chư Phật như: 10 lực, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt và 18 pháp Phật bất cộng…, chuyển đại pháp luân, rống tiếng Sư tử, dùng pháp thí cho khắp tất cả hữu tình được đầy đủ như sở thích của họ, làm cho các hữu tình đều được pháp nhãn thanh tịnh, hàng phục ngoại đạo bằng pháp Vô thượng. Vì muốn nêu bày sự thành tựu bổn nguyện của chư Phật nên đối với các pháp, Ngài đều được tự tại. Các ông nên đến cúng dường Bồ Tát ”.

Đại đức nên biết! Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, thị hiện đi đến tòa Bồ đề. Khi ấy, tướng Bức luân ở dưới 2 bàn chân đều phóng ra vô lượng ánh sáng vi diệu, chiếu khắp các cõi địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ. Hữu tình trong các cõi này thấy ánh sáng đó đều lìa khổ, thân tâm an lạc. Cũng lúc ấy, trong cung rồng, Đại long vương tên Ca lý ca thấy ánh hào quang kia vô cùng vui mừng phấn khởi, liền bảo các rồng:

“Ánh sáng vi diệu này chiếu đến chỗ chúng ta, làm cho thân tâm chúng ta an lạc. Xưa kia, khi ta thấy ánh sáng này, thời có đức Như Lai xuất hiện ở thế gian. Nay lại thấy ánh sáng vi diệu này, nhất định ta biết thế gian có đức Phật xuất hiện. Các ông nên chuẩn bị các loại hương hoa, trân bảo, cờ phướn, lộng hoa thù diệu và các loại âm nhạc để đến cúng dường Ngài”. Tức thời, long vương dẫn các quyến thuộc đem đủ các đồ cúng, cưỡi trên các đám mây lớn, rải xuống loại mưa hương, rồi đến chỗ Bồ Tát, tấu các loại nhạc, bày các đồ cúng dường, đi nhiễu bên phải Bồ Tát, tán thán rằng:

“Ánh sáng vi diệu khiến cho tất cả an lạc, quyết định Phật tối thắng suất hiện không nghi. Đủ loại trân bảo trang nghiêm đại địa, tất cả cỏ cây đều biến thành cây báu, các dòng sông đều lặng yên, không một gợn sóng, do đây nhất định biết được Phật xuất hiện ở thế gian. Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, Phạm Thiên, Đế Thích đều không thể chiếu đến cõi ác, nhưng ánh sáng của Phật thì chiếu suốt không nghi. Thí như có người thất lạc cha mẹ, năm tháng trôi qua, người ấy lớn dần, bỗng gặp lại cha mẹ mình, vô cùng vui mừng phấn khởi, không sao kiềm chế được. Tất cả thế gian thấy Phật xuất hiện, đều cùng vui mừng cũng lại như vậy. Trong quá khứ, chúng ta đã từng cúng dường chư Phật, nên nay mới được gặp đấng Pháp vương, thầy của trời người. Chúng ta sanh ra thật là không uổng”.

Đại đức nên biết! Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, ở dưới gốc cây Bồ đề, nhận tòa ngồi bằng thảm cỏ, nhiễu phải bảy vòng, chánh niệm ngồi ngay. Các hữu tình hạ liệt thì thấy tướng như vậy. Nhưng các Bồ Tát thì thấy có tám vạn bốn ngàn Thiên tử, mỗi vị đều trải một tòa Sư tử lớn. Các tòa Sư tử này được làm bằng các báu, lưới bảy báu bao phủ trên ấy. Tại bốn góc tòa đều treo linh vàng vi diệu; cờ, phướn, kim tuyến, lọng báu giăng đầy khắp nơi. Bồ Tát biến hình, an tọa trên tám vạn bốn ngàn tòa Sư tử này, nhưng các Thiên tử đều không thấy như vậy, nên cho rằng Bồ Tát chỉ ngồi trên tòa của ta mà chứng được Vô thượng Bồ đề. Vì nhân duyên đây nên họ rất vui mừng, đối với Vô thượng Bồ đề đều được Bất thối chuyển.

Đại đức nên biết! Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như vậy, bằng phương tiện thiện xảo, phóng ánh sáng lớn giữa đôi chân mày, chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, các cung điện ma đều mất ánh sáng. Khi ấy, các ma vương đều nghĩ: Vì nhân duyên gì mà có ánh sáng đây, che phủ cả cung điện uy quang của chúng ta, trừ phi Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề sắp chứng Vô thượng Bồ đề. Nghĩ vậy, họ cùng quán sát, thấy Bồ Tát ngồi trên tòa Kim cương, dưới cội Bồ đề. Thấy vậy, ma liền kinh sợ, triệu tập ma quân, vô lượng trăm ngàn đủ loại hình dạng, dẫn nhiều kỹ nữ, đem cờ phướn, phát ra đủ các loại âm thanh, nếu có người nghe thấy thì trong tai, mũi, miệng đều bị chảy máu.

Bấy giờ, Bồ Tát dùng lực đại bi khiến cho chúng ma quân không thể phát ra âm thanh. Đó gọi là Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã sâu xa.

Đại đức nên biết! Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã như vậy, nhớ nghĩ vô lượng ức kiếp quá khứ, đã tinh tấn tu hành bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát nhã Ba la mật, từ, bi, hỷ, xả, niệm trụ chánh đoạn, thần túc căn lực, giác chi, đạo chi, tịch chỉ, diệu quán, tam minh, tám giải thoát đều được viên mãn. Sau khi nhớ nghĩ xong, Ngài liền đưa cánh tay kim sắc xoa đảnh đầu mình cho đến khắp toàn thân, rồi nói như vầy: “Ta muốn cứu vớt các khổ của hữu tình, mà khởi tâm đại bi”.

Khi ấy, các ma vương và quyến thuộc của ma nghe Bồ Tát nói như vậy đều kinh sợ, ngã lăn xuống đất.

Bấy giờ, Bồ Tát dùng lực đại bi làm cho các chúng ma nghe âm thanh phát ra từ trong hư không rằng: “Các ngươi nên qui y đấng Đại tiên tịnh giới, người hay bố thí úy, cứu hộ tất cả”.

Toàn thể quyến thuộc ma phủ phục lạy sát đất thưa như vầy: “Cúi xin đấng Đại tiên cứu hộ mạng chúng con”.

Bồ Tát nương vào phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật, phóng ánh sáng lớn. Ai gặp ánh sáng ấy đều lìa xa sự sợ hãi. Ma và quyến thuộc thấy thần biến ấy vừa kinh sợ vừa vui mừng.

Đại đức nên biết! Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã như vậy, khiến cho các hữu tình đều thấy khác nhau: Có hữu tình thì thấy việc hàng ma như vậy, có hữu tình thì không thấy việc ấy, hoặc thấy Bồ Tát chỉ ngồi ở tòa cỏ, hoặc thấy Bồ Tát ngồi tòa Sư tử, hoặc thấy Bồ Tát ngồi trên đất, hoặc thấy Bồ Tát ngồi tòa Sư tử giữa hư không. Ngay cả tướng cây bồ đề, hữu tình cũng thấy khác nhau: Như có người thì thấy đó là cây Tất bát la, có người thấy đó là cây Thiên Viên Thải, hoặc thấy cây ấy do các báu hợp thành, hoặc thấy cây ấy cao bằng bảy cây Đa la, hoặc thấy cây ấy cao khoảng tám vạn bốn ngàn du thiện na, có tòa Sư tử cao bốn vạn hai ngàn du thiện na, Bồ Tát ngồi trên toà ấy, ở dưới gốc cây này. Hoặc thấy Bồ Tát đi dạo giữa hư không, hoặc thấy Bồ Tát ngồi dưới cội Bồ đề. Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã như vậy, thị hiện đủ loại thần thông biến hóa, độ các hữu tình.

Đại đức nên biết! Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã như vậy, ngồi tòa Bồ đề, có vô lượng, vô số, vô biên Bồ Tát khắp 10 phương thế giới như cát sông Hằng đều vân tập về, trụ giữa hư không, phát ra nhiều loại âm thanh khích lệ Bồ Tát, khiến cho thân Bồ Tát an lạc, tâm sanh hoan hỷ, bằng những lời như vầy: “Lành thay Đại sĩ! Tinh tấn dũng mãnh, mau chóng thành tựu kiết tường rộng lớn, tâm như kim cương chớ sanh kinh sợ, thần thông du hý lợi lạc hữu tình, có thể trong một sát na chứng Nhất thiết trí”.

Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề ma đến nhiễu loạn đều không kinh sợ. Trong một sát na tâm, phương tiện thiện xảo, khéo tương ưng với lý thú Bát nhã Ba la mật, thông đạt rốt ráo tất cả sở tri, kiến, giác.

Đại đức nên biết! Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã như vậy, ngồi tòa Bồ đề, chư Phật khắp 10 phương thế giới như cát sông Hằng đồng thanh tán thán: “Lành thay! Lành thay! Chỉ có Đại sĩ mới thông đạt tự nhiên trí, vô ngại trí, bình đẳng trí, vô sư trí đại bi trang nghiêm”.

Đại đức nên biết! Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã như vậy, khéo thị hiện đủ các việc, làm cho các loài hữu tình, hoặc thấy Bồ Tát nay được Bồ đề, hoặc thấy Bồ Tát từ lâu đã thành Phật, hoặc chỉ thấy bốn Đại thiên vương trong một thế giới đều dâng hiến bát, hoặc lại thấy bốn Đại thiên vương khắp cả 10 phương thế giới nhiều như cát sông Hằng đều dâng hiến bát. Bấy giờ, Bồ Tát vì hữu tình nên nhận hết tất cả bát, chồng lên nhau trong lòng bàn tay, lấy tay ấn xuống hóa thành một bát. Các vị Tứ đại thiên vương đều không thấy, nên cho rằng đức Thế Tôn chỉ nhận bát của ta. Khi ấy liền có sáu vạn Thiên tử nương nguyện lực đời trước đến cúng Bồ Tát trước nhất. Trong đời quá khứ họ phát nguyện rằng: “Nếu khi Bồ Tát này thành Phật, mong Ngài nhận đồ cúng dường của chúng con đầu tiên”.

Lúc Phật nói pháp này, có ba vạn Bồ Tát đắc vô sanh pháp nhẫn, lại có ba mươi sáu vạn Bồ Tát đối với Vô thượng Bồ đề được Bất thối chuyển; tám vạn trời, người lìa xa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh; vô lượng vô biên các loài hữu tình đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng giác.

Đại đức nên biết! Lúc bấy giời, Bồ Tát nương vào phương tiện thiện xảo Bát Nhã, sắp thị hiện chuyển bánh xe pháp lớn thì Phạm vương Trì Kết chủ thế giới Kham nhẫn, liền cùng sáu mươi tám vạn các chúng Phạm thiên, đi đến chỗ Phật, đảnh lễ dưới chân Ngài, chắp tay cung kính, đi nhiễu quanh bên phải bảy vòng, rồi thỉnh Phật ba lần: “Cúi xin đức Đại Bi thương xót chúng con mà chuyển bánh xe pháp lớn. Cúi xin đức Đại Bi thương xót chúng con mà chuyển bánh xe pháp lớn. Cúi xin đức Đại Bi thương xót chúng con mà chuyển bánh xe pháp lớn”. Sau khi thỉnh ba lần như vậy, Phạm thiên liền hóa làm tòa đại Sư tử cao rộng bốn vạn hai ngàn du thiện na, kiên cố an ổn, trang nghiêm bằng đủ loại báu. Khi ấy, vô lượng thiên chủ Đế Thích khắp 10 phương thế giới, đều đến trải tòa Sư tử cho Như Lai, và số lượng chư thiên đến trang nghiêm tòa Sư tử cũng lại như vậy.

Bấy giờ, Bồ Tát hiện sức thần thông làm cho chư thiên đều thấy Bồ Tát ngồi trên tòa ấy mà chuyển pháp luân. Sau khi ngồi trên tòa Sư tử ấy, Bồ Tát nhập vào vô biên cảnh giới Tam ma địa, phóng ánh sáng lớn chiếu khắp 10 phương thế giới nhiều như cát sông Hằng v.v…, làm cho các thế giới ấy chấn động sáu cách. Trong các thế giới ấy, các khổ của hữu tình tạm ngưng, thân tâm an lạc, cũng tạm lìa xa pháp ác bất thiện, tham, sân, si... Tâm từ cùng hướng về nhau như mẹ với con. Khi đó, ba ngàn đại thiên thế giới đầy kín người, không có khe hở nào dù bằng một lỗ chân lông. Trời, rồng, Dạ xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, nhơn phi nhơn… đầy đủ trong ấy. Nếu các hữu tình cần nghe pháp khổ mà được thọ hóa thì nghe Phật nói khổ; cần nghe pháp vô ngã, tịch tĩnh, viễn ly, vô thường mà được thọ hóa thì cũng như vậy; cần nghe pháp như huyễn mà được thọ hóa thì nghe pháp như huyễn; cần nghe pháp như mộng, như tiếng vang, như ảnh tượng, như ánh sáng, như quáng nắng, như biến hóa, như thành Tầm hương mà được thọ hóa thì cũng lại như vậy; cần nghe pháp giải thoát môn không, vô tướng, vô nguyện mà được thọ hóa thì nghe Phật nói không, vô tướng, vô nguyện.

Khi ấy, có các hữu tình nghe Như Lai nói, tất cả các pháp từ nhân duyên sanh, hoặc nghe nói uẩn, hoặc nghe nói xứ, hoặc nghe nói giới, hoặc nghe nói khổ, hoặc nghe nói tập, diệt, đạo, hoặc nghe nói 4 niệm trụ, 4 chánh đoạn, 5 căn, 5 lực, 6 thần túc, 7 chi đẳng giác, 8 chi Thánh đạo(tức 37 pháp trợ đạo), hoặc nghe nói pháp tịch chỉ diệu quán, hoặc nghe nói các pháp Thanh văn, hoặc nghe nói các pháp Độc giác, hoặc nghe nói các pháp Bồ Tát. Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã như vậy, thị hiện đủ loại tướng chuyển pháp luân, tùy theo căn tánh sai biệt của các hữu tình mà được lợi lạc, thân tâm hoan hỷ.

Khi ấy, Xá lợi tử nói với Tối Thắng:

- Này Thiên vương! Cảnh giới mà Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã thật là quá thậm thâm, khó nghĩ, khó bàn, khó biết, khó nhập.

Tối Thắng đáp:

- Thưa Đại đức! Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã, việc ấy thù thắng, công đức vô lượng vô biên, nay tôi có nói trăm phần, ngàn phần cho đến cực số phần cũng chẳng hết. Chỉ có đức Như Lai mới có thể nói trọn vẹn. Nay một ít phần ấy của tôi nói đều là nương vào sức oai thần của đức Như Lai. Vì sao? Vì cảnh giới của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, các chúng Bồ Tát chỉ còn một lần sanh nói công đức ấy còn chẳng thể hết, huống nữa là các vị Bồ Tát khác.

Đại đức nên biết! Cảnh giới của chư Phật tịch tĩnh, lìa ngôn thuyết, chỉ có trí vô phân biệt và hậu đắc trí mới có thể hiểu được.

Đại đức nên biết! Nếu đại Bồ Tát  muốn chứng nhập cảnh giới của chư Phật thì phải học phương tiện thiện xảo Bát Nhã, mới thông đạt rốt ráo Tam ma địa kiện hành, Tam ma địa như huyễn, Tam ma địa kim cương dụ, Tam ma địa kim cương luân, Tam ma địa vô động tuệ, Tam ma địa thông đạt khắp, Tam ma địa không duyên cảnh giới, Tam ma địa sư tử tự tại, Tam ma địa vua Tam ma địa, Tam ma địa công đức trang nghiêm, Tam ma địa tuệ tịch tĩnh, Tam ma địa siêu việt khắp, Tam ma địa vô nhiễm trước, Tam ma địa tuệ trang nghiêm vương, Tam ma địa vô đẳng đẳng, Tam ma địa đẳng giác, Tam ma địa chánh giác, Tam ma địa ý vui, Tam ma địa hoan hỷ, Tam ma địa thanh tịnh, Tam ma địa hỏa diệm, Tam ma địa quang minh, Tam ma địa nan thắng, Tam ma địa thường hiện tiền, Tam ma địa không hòa hợp, Tam ma địa vô sanh, Tam ma địa thông đạt, Tam ma địa tối thắng, Tam ma địa vượt qua cảnh giới ma, Tam ma địa nhất thiết trí tuệ, Tam ma địa tràng tướng, Tam ma địa đại bi, Tam ma địa an lạc, Tam ma địa ái niệm và Tam ma địa pháp bất kiến…

Đại đức nên biết! Nếu đại Bồ Tát học phương tiện thiện xảo Bát Nhã thì có thể thông đạt rốt ráo vô lượng, vô biên hằng hà sa số môn Tam ma địa này, mới có khả năng chứng nhập cảnh giới của chư Phật, thân tâm an ổn, không có kinh sợ, như sư tử chúa không sợ cầm thú. Vì sao? Vì nếu các đại Bồ Tát tu các Tam ma địa bình đẳng như vậy thì hành động gì đều không kinh sợ, không thấy trước mặt mình có oán địch nào. Vì sao?

Thưa Xá lợi tử! Vì đại Bồ Tát này hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã sâu xa, tâm không có chỗ duyên cũng không có chỗ trụ. Thí như có người sanh cõi Vô sắc, trong tám vạn đại kiếp chỉ có một thức, không có chỗ trụ cũng không có chỗ duyên. Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã như vậy, tâm không có chỗ duyên cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Vì các Bồ Tát này, tâm không hành cũng không có chỗ hành, tâm không tưởng cũng không có chỗ tưởng, tâm không duyên cũng không có chỗ duyên, tâm không dính mắc cũng không có chỗ dính mắc, tâm không loạn cũng không có chỗ loạn, tâm không cao thấp, tâm không thuận nghịch, tâm không buồn, không vui, không phân biệt, lìa phân biệt, lìa Xa ma tha, Tỳ bát xá na, tâm chẳng theo trí, tâm chẳng trụ nơi mình cũng chẳng trụ nơi khác, chẳng nương vào mắt mà trụ, chẳng nương vào tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà trụ, chẳng nương vào sắc mà trụ, chẳng nương vào thanh, hương, vị, xúc, pháp mà trụ. Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở hai bên. Tâm chẳng duyên pháp cũng chẳng duyên trí, chẳng trụ 3 đời cũng chẳng lìa 3 đời.

Đại đức nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã ấy, chẳng giữ một pháp, nhưng đối với các pháp, trí thấy biết vô ngại, tâm hành thanh tịnh, thấy tất cả pháp đều không cấu nhiễm, không nắm bắt tướng thấy, thấy không phân biệt, lìa các hí luận.

Đại đức nên biết! Các Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã ấy, chẳng cùng với nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng; cũng lại chẳng cùng với tất cả thiên nhĩ, tha tâm, túc trụ, thần cảnh, các trí lậu tận tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng.

Đại đức nên biết! Phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật cùng với tất cả pháp, đều chẳng tương ưng, cũng chẳng phải không tương ưng. Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật, đối với tất cả pháp được trí bình đẳng, khéo quán tâm hành của tất cả hữu tình, đều như thật biết tất cả nhiễm tịnh, cũng không quên mất 10 lực Phật, 4 điều không sợ, 4 sự hiểu biết thông suốt, 18 pháp Phật bất cộng… và vô lượng, vô biên công đức của chư Phật. Các đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã phương tiện thiện xảo, không công dụng hạnh, đạt tất cả pháp không tâm ý thức, thường ở trong tam muội tịch tĩnh, không bỏ tam muội mà giáo hóa hữu tình, làm Phật sự thường chẳng nghỉ ngưng. Đối các Phật pháp được trí vô ngại, tâm không nhiễm đắm, ví như hóa Phật hóa làm Như Lai. Như Lai hóa ra vô thức, không thân không thân nghiệp, không ngữ không ngữ nghiệp, không ý không ý nghiệp mà năng thi tác được tất cả Phật sự nhiêu ích hữu tình. Vì sao? Vì là thần lực của Phật.

Bồ Tát như thế hành Bát Nhã sâu thẳm phương tiện thiện xảo hóa làm ra đó, không thân không thân nghiệp, không ngữ không ngữ nghiệp, không ý không ý nghiệp, tâm không công dụng, thường làm Phật sự nhiêu ích hữu tình. Vì sao?

Thưa Xá lợi tử! Vì các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã sâu xa, thông đạt các pháp đều như huyễn…, tâm không phân biệt, nhưng các hữu tình luôn nghe thuyết pháp.

Đại đức nên biết! Trí tuệ của các Bồ Tát này không trụ hữu vi, không trụ vô vi; không trụ các uẩn và các xứ, các giới, không trụ trong, ngoài và hai bên; không trụ thiện, ác và thế gian hay xuất thế gian; không trụ nhiễm-tịnh, hữu lậu-vô lậu, hữu vi-vô vi; không trụ ba đời và lìa ba đời; không trụ hư không, trạch diệt, phi trạch diệt. Các Bồ Tát này hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã, tuy tâm thường vô trụ như vậy, nhưng thông đạt tánh tướng các pháp; dùng trí vô ngại, vô công dung hạnh, tuyên thuyết các pháp thường tại tịch tĩnh, làm việc giáo hóa không có ngừng nghỉ. Nguyện lực đời trước của các Bồ Tát ấy vững mạnh, vô công dụng hạnh, vì người khác mà nói pháp. Các Bồ Tát ấy nhờ phương tiện thiện xảo Bát Nhã nên thường không kinh sợ. Vì sao? Vì hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm có thần Chấp Kim Cang thường luôn đi theo bảo vệ.

Đại đức nên biết! Nếu đại Bồ Tát nghe nói Bát nhã Ba la mật như vậy mà tâm không kinh sợ, không mê hoặc, không nghi ngờ thì nên biết vị ấy đã được thọ ký Bồ đề. Vì sao? Vì người tin nhận phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật là gần cảnh giới Phật. Dùng nhất tâm này thì có thể thông đạt tất cả Phật pháp. Thông đạt Phật pháp nên lợi lạc hữu tình, nhưng không thấy hữu tình và Phật khác nhau. Vì sao? Vì lý không hai.

 

Thích nghĩa:

(1). Hàm thức: (含識) Phạm: Sattva. Pàli: Satta. Dịch âm: Tát đóa; dịch ý: Hữu tình, Chúng sanh. Cũng gọi Hàm linh, Hàm sinh, Hàm loại, Hàm tình, Bẩm thức. Chỉ chung tất cả chúng sanh hữu tình tức loài có tâm thức, trong 6 đường.

(2). Trạch diệt:擇滅; S: pratisaṃkhyā-nirodha; Nghĩa là diệt độ bằng trí huệ phân tích, phân biệt đúng sai (trạch); Chấm dứt Ô nhiễm (s: kleśa), đồng nghĩa với Niết-bàn. Trạch diệt là một trong những Pháp Vô vi (S: asaṃskṛta) của Nhất thiết hữu bộ (s: sar-vāstivāda) và Duy thức tông (S: vijñānavāda, yogācāra). Một loại diệt thứ hai được nhắc đến, đối nghĩa với Trạch diệt là Phi trạch diệt (S: apratisaṃkhyā-nirodha).

(3). Phi trạch diệt: 非擇滅; S: apratisaṃkhyā-nirodha; Là diệt độ không cần sự cố gắng, vô tình, không phụ thuộc, không dựa trên Bát-nhã (S: prajñā), không phân biệt, phân tích (phi trạch). Đây là một trong những Pháp (S: dharma) không phụ thuộc (Vô vi) trong học thuyết của Nhất thiết hữu bộ (S: sarvāstivā-da) và Duy thức tông (S: yogācāra).

Lứu ý: Từ điển Đạo Uyển giải thích mục (2). và (3), nhưng rất khó hiểu. Chúng tôi cố gắng tìm các thích nghĩa khác. Nhưng, các giải thích khác cũng không giúp được gì!

 

Lược giải:

 

Phẩm này nói về hiện tướng của một Bồ Tát trở thành một vị Phật, giống như trường hợp của Phật Thích Ca Mâu Ni. Thái tử Tất Đạt Đa rời vợ con, bỏ ngai vàng, xa lìa cung điện vào núi tuyết tu khổ hạnh sáu năm, nhưng không tìm thấy Chánh giác. Nên rời núi tuyết vì thấy tu hành xác không mang lại lợi ích gì, mới đến sông Nairanjana (Ni Liên Thiền) tắm gội, nhưng khi lên bờ thì kiệt lực, bất tỉnh. May nhờ cô gái chăn bò tên Nanda (nandàbàla) đội bình sữa đi qua, nàng thấy Thái tử bất tỉnh vì quá quá suy nhược, nên mở bình sữa đổ ra một bát cho Thái tử uống. Bát sữa do cô gái dâng cho thanh khiết như nước Cam lồ, mang lại khí lực, nhờ đó thái tử mới có đủ sức, vượt sông Ni Liên Thiền đi về hướng núi Gaga.

Tại đây, Thái tử tìm thấy một tảng đá như cái nôi dưới cội bồ đề to lớn và quyết định ở lại đây tiếp tục thiền định, tìm Chánh giác. Có một chú bé cắt cỏ đi ngang qua, thấy dung mạo phi phàm của Thái tử, liền tặng tất cả cỏ do mình thu hoạch cho Thái tử dùng làm nệm ngồi.

Rồi sau 49 ngày thiền định, chế phục thiên ma, ngoại đạo. Khi sao Mai vừa ló dạng, Thái tử Tất Đạt Đa chứng tam minh, ngũ nhãn, lục thần thông và trong một sát na tương ưng với diệu tuệ, diệt trừ được tất cả phiền não tương tục nhỏ nhiệm, trở thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Sau đó, Phật Thế Tôn chu du khắp châu thổ sông Hằng và vùng Trung Bắc Ấn độ, hóa độ chúng sanh hết 45 năm, rồi nhập diệt tại rừng cây Tha la.

 Đó là lịch sử hiện tướng của một Bồ Tát biến thành một vị Phật, gọi là Phật Thích Ca Mâu Ni tương tự như phẩm“Hiện Tướng” của Hội thứ VI này. Nhưng Phẩm “Hiện Tướng” này có tính cách thần bí không giống những gì mô tả trong thực tế.

Phật tích của Đức Thích Ca là một câu chuyện rất bình dị nhân bản. Vì bình dị nhân bản, nên gần gũi, đáng yêu, đáng ngưỡng mộ hơn bao giờ hết! Chúng ta không thích thần thánh hóa, chỉ thích cái gì gần gũi với thế tục, giống như câu chuyện động tâm của 1 vì vua, là Sơ Tổ dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam. (xem Phụ đính) 

 

Còn hiện tướng miêu tả trong phẩm này có tánh “thần bí”, không thuộc nhãn căn cảnh giới của chúng ta, nên không dám lạm bàn. Xá Lợi Tử nói với Thắng Thiên vương:

- “Này Thiên vương! Cảnh giới mà Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã thật là quá thậm thâm, khó nghĩ, khó bàn, khó biết, khó nhập”.

Xá Lợi Tử là bậc Thanh văn trí tuệ nhất trong hàng Thanh văn đã nói như thế. Nên chúng ta không bàn đến nữa. Ai muốn tin hiểu... thì tự mình thọ trì đọc tụng thôi.

 

Các giáo pháp đáng ghi nhớ ở đây là: Hành nhưng xem như vô hành, (vô công dụng hạnh), trụ như vô trụ:

 

1- “(...)Vì đại Bồ Tát này hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã, tâm không có chỗ duyên cũng không có chỗ trụ. Thí như có người sanh cõi Vô sắc, trong tám vạn đại kiếp chỉ có một thức, không có chỗ trụ cũng không có chỗ duyên. Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã như vậy, tâm không có chỗ duyên cũng không có chỗ trụ. Vì sao? Vì các Bồ Tát này, tâm không hành cũng không có chỗ hành, tâm không tưởng cũng không có chỗ tưởng, tâm không duyên cũng không có chỗ duyên, tâm không dính mắc cũng không có chỗ dính mắc, tâm không loạn cũng không có chỗ loạn, tâm không cao thấp, tâm không thuận nghịch, tâm không buồn, không vui, không phân biệt, lìa phân biệt, lìa Xa ma tha, Tỳ bát xá na, tâm chẳng theo trí, tâm chẳng trụ nơi mình cũng chẳng trụ nơi khác, chẳng nương vào mắt mà trụ, chẳng nương vào tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà trụ, chẳng nương vào sắc mà trụ, chẳng nương vào thanh, hương, vị, xúc, pháp mà trụ. Tâm chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở hai bên. Tâm chẳng duyên pháp cũng chẳng duyên trí, chẳng trụ 3 đời cũng chẳng lìa 3 đời”.

Làm sao đạt được tâm không chỗ duyên? Làm sao đạt được vô sở trụ? Muốn thế thì phải “…tâm không hành cũng không có chỗ hành, tâm không tưởng cũng không có chỗ tưởng, tâm không duyên cũng không có chỗ duyên, tâm không dính mắc cũng không có chỗ dính mắc, tâm không loạn cũng không có chỗ loạn, tâm không cao thấp, không thuận nghịch, tâm không buồn không vui, không phân biệt, lìa phân biệt...”

Đó là đỉnh cao của tu hành. Muốn được như vậy phải học Bát nhã Ba la mật thôi.

 

2- “(...)Trí tuệ của các Bồ Tát này không trụ hữu vi, không trụ vô vi; không trụ các uẩn và các xứ, giới, không trụ trong, ngoài và hai bên; không trụ thiện, ác và thế gian hay xuất thế gian; không trụ nhiễm, tịnh, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi; không trụ ba đời và lìa ba đời; không trụ hư không, trạch diệt, phi trạch diệt. Các Bồ Tát này hành phương tiện thiện xảo Bát Nhã, tuy tâm thường vô trụ như vậy, nhưng thông đạt tánh tướng các pháp; dùng trí vô ngại, vô công dung hạnh, tuyên thuyết các pháp thường tại tịch tĩnh, làm việc giáo hóa không ngừng nghỉ. Nguyện lực đời trước của các Bồ Tát ấy vững mạnh, vô công dụng hạnh, vì người khác mà nói pháp. Các Bồ Tát ấy nhờ phương tiện thiện xảo Bát nhã Ba la mật nên thường không kinh sợ. Vì sao? Vì hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm có thần Chấp Kim Cang thường luôn đi theo bảo vệ”.

Đó là hành, là trụ của Bồ Tát: Hành như vô đạo hành, trụ mà chẳng có chỗ trụ, trụ như hư không. Không còn so đo, phân biệt nữa.

 

Phụ đính:

 

Phật Hoàng Trần Nhân Tông:

Vị Phật Việt Nam của thời cận đại.

 

Một nhân vật được lịch sử Phật giáo Việt Nam tôn sùng, đó là Vua Trần Nhân Tông, Ngài là Sơ Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử của Việt Nam và hầu như đa số Phật tử Việt Nam đều biết đến Ngài với tên gọi là Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Ngài là con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh. Từ nhỏ có tướng đặc biệt là thân màu vàng, nên vua cha đặt cho biệt hiệu là Phật kim.

Khi lên 16 tuổi Ngài được lập làm Đông cung Thái tử và cùng năm đó Ngài kết hôn với Công chúa Quyên Khánh trưởng nữ của Hưng Đạo Đại Vương. Năm 21 tuổi Ngài được Trần Thánh Tông truyền ngôi trị vì thiên hạ nước Đại Việt, lấy niên hiệu là Thiệu Bảo. Với tài kinh ban tế thế Ngài mang lại an cư lạc nghiệp cho toàn thể dân chúng sau hai lần chiến thắng quân ngoại xăm Nguyên - Mông. Năm lên 41 tuổi, Ngài nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng.

Ngài rất sùng đạo lúc thiếu thời đã thờ Tuệ Trung Thượng sĩ làm thầy học đạo và Thiền. Ngài thường viếng chùa Tư Phúc trong kinh thành để tụng Kinh, tọa thiền, lễ bái Tam bảo.

Sau khi nhường ngôi cho con xong Ngài quyết định thọ giáo qui y. Nên, đến Hành cung Vũ Lâm - Ninh Bình cầu Quốc sư Huệ Tuệ làm lễ xuất gia, tập sự tu hành tại đây một thời gian. Ngài quyết tâm trở lại thăm kinh sư lần cuối, rồi đi thẳng lên núi Yên Tử - Quảng Ninh quyết chí tu hành, tham thiền nhập định, lấy tên là “Hương Vân Đại Đầu Đà” và độ Đồng Kiên Cương làm đệ tử và ban pháp hiệu cho là Pháp Loa.

Đến năm 1307, Ngài truyền Y Bát lại cho Tôn giả Pháp Loa, lên làm Sơ Tổ Trúc Lâm và Pháp Loa là Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm. Sau đó, Ngài thường chống gậy lui tới các chùa để giảng Kinh, bốc thuốc, thí phát qui y cho dân chúng. Đến năm 1308 Ngài thị tịch tại am Ngọa Vân Đông triều - Tỉnh Quảng Ninh. Vua Trần Anh Tông cung thỉnh nhục thân Ngài về kinh đô Thăng Long cử hành Quốc táng. Sau đó, Vua, quần thần, văn võ bá quan, đệ tử Pháp Loa, Bảo Sát và chúng Tăng trong nước cử hành lễ Trà tỳ(thiêu).

Xá lợi của Ngài được chia làm hai phần, một phần xây tháp thờ ở Lăng Quý Đức phủ Long Hưng - Thái Bình; một phần xây tháp tôn thờ tại chùa Vân Yên - Yên Tử, Quảng Ninh, lấy hiệu là Huệ Quang Kim Tháp.

Các tác phẩm Phật học của Ngài còn lưu truyền như: Trần Nhân Tôn thi tập, Đại Hương Hải Ấn thi tập, Tăng Già Toái Sự, Thạch Thất Mỵ Ngữ, Trung hưng Thực Lục trong đó có một số kệ nổi tiếng như Sơn Phòng Mạn Hứng, Cư Trần Lạc Đạo, Mười bài thơ Xuân, v.v...

Vào khoảng cuối đời, Ngài sống gần gũi, chia vui sẻ buồn với muôn dân đen trong cảnh bần hàn nghèo khổ. Ngài thường chống gậy xuống núi thí phát qui y, giảng đạo, bốc thuốc cho dân... cho đến khi viên tịch, thật xứng đáng là Phật Tâm Thiên tử của muôn dân. Nên được tấn phong là Trúc Lâm Đại Đầu Đà, Tịnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Phật Tổ.

Đó là Hiện Tướng của một vị Phật Việt Nam! Một câu chuyện thật động tâm không những đối với người xưa mà cả hôm nay. Một người đầy uy quyền, phú quý vinh quang, giàu sang danh vọng tột đỉnh,... lại mặc áo vá quàng, cơm canh dưa muối qua ngày, sớm hôm vui buồn cùng đạo, bầu bạn với đám dân đen, thật hiếm có lắm thay!

Phẩm này chỉ trùng tuyên của các phẩm cùng tên. Kinh trước sau đều thuyết như vậy, nên chúng tôi ghi như vậy, chẳng có gì mới mẻ ở đây./.

 

---o0o---

 

 

 

 

09. PHẨM “VÔ SỞ ĐẮC”

 

Đầu quyển 571, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương phẩm 8 “Không Có Đắc”, Kinh TTVBN)

  

Gợi ý:

Giáo pháp “Vô Sở Đắc” hay “Bất Khả Đắc” là một trong những giáo pháp được lặp đi lặp lại nhiều lần nhất trong toàn hệ Bát Nhã. Tuy đọc quá nhiều lần, nhưng không bao giờ chán. Đó là giáo pháp tối cao của Phật đạo. Ngày nào còn ôm ấp trong tâm hai chữ “sở đắc” ngày ấy còn sống trong mờ mịt, mộng ảo thôi. Đó là tự dối mình, dối người và cũng sẽ bị người khác lừa dối, phỉnh gạt thôi!

Ngoài giáo pháp vô sở đắc trên, các giáo pháp khác về tu tịnh hạnh để hộ trì chánh pháp cũng hết sức vi diệu, được xiển dương trong phẩm này mà bất cứ người tu Phật chân chánh nào cũng phải chấp trì nếu muốn thân tâm không giao động, đạt chánh hạnh, chánh giác, chứng Diệu trí, Diệu tuệ, các Tổng trì và các Vô ngại pháp môn khác v.v... Đây là các pháp tu thiết thực nhất cho những ai tu Bồ Tát đạo hay Bồ Tát hạnh.

Tiếc thay phẩm này không nói nhiều về vô sở đắc mà lại đề cập nhiều về hành phương tiện xảo của Bát Nhã để đắc Vô thượng Bồ đề!

 

Tóm lược:

 

Quyển 571

 

1.(Muốn đắc thì không đắc, không muốn mới đắc)

 

Bấy giờ, trong hội có vị đại Bồ Tát  tên là Thiện Tư hỏi Tối Thắng:

- Đức Phật đã thọ ký quả Bồ đề cho Thiên vương ư?

Tối Thắng đáp:

- Tôi tuy được thọ ký mà như trong mộng vậy.

Thiện Tư hỏi tiếp Tối Thắng:

- Thiên vương được thọ ký là đắc cái gì vậy?

Tối Thắng đáp:

- Tôi tuy được thọ ký nhưng không đắc gì cả.

Thiện Tư lại hỏi:

- Không đắc ấy là không đắc pháp nào?

Tối Thắng trả lời:

- Không đắc ấy là chẳng đắc ngã, chẳng đắc hữu tình, cho đến chẳng đắc sự thấy biết, chẳng đắc các uẩn và các xứ giới, hoặc thiện hay chẳng phải thiện, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, hoặc sanh tử, hoặc Niết bàn, đối với hết thảy như vậy đều không đắc gì cả.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu không có đắc chi cả thì thọ ký để làm gì?

Tối Thắng đáp:

- Vì vô sở đắc nên được thọ ký.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu như nghĩa Thiên vương đã nói đó, bèn có hai cái hiểu: Một là không được gì cả, hai là được trao ký?

Tối Thắng đáp:

- Nếu có hai thì không được thọ ký. Vì sao? Vì trí Phật không hai. Chư Phật Thế Tôn dùng trí không hai để thọ ký cho Bồ Tát.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu trí chẳng hai thì làm sao có trao ký nhận ký?

Tối Thắng đáp:

- Trao ký và nhận ký, ngằn ấy không hai.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu không hai làm sao có ký?

Tối Thắng đáp:

- Nếu hiểu được không có hai ngằn tức có thọ ký.

Thiện Tư lại hỏi:

- Thiên vương nay trụ trong ngằn nào mà được thọ ký vậy?

Tối Thắng đáp:

- Tôi trụ bờ ngã, trụ bờ hữu tình cho đến bờ mé của thấy biết mà được thọ ký.

Thiện Tư lại hỏi:

- Bờ ngã v.v... này phải cầu ở đâu?

Tối Thắng đáp:

- Phải cầu ở bờ giải thoát của chư Phật.

Thiện Tư lại hỏi:

- Bờ giải thoát của Phật lại cầu ở đâu?

Tối Thắng đáp:

- Phải cầu ở bờ vô minh, hữu, ái.

Thiện Tư hỏi:

- Vô minh, hữu, ái lại cầu ở đâu?

Tối Thắng đáp:

- Phải cầu ở bờ rốt ráo không sanh.

Thiện Tư hỏi tiếp:

- Bờ không sanh này cầu ở đâu?

Tối Thắng đáp:

- Bờ này phải cầu ở bờ vô tri.

Thiện Tư hỏi lại:

- Bờ vô tri ấy tức là không có sự hiểu biết, vậy thì làm sao bờ này phải cầu sang bờ kia?

Tối Thắng đáp:

- Nếu theo sự hiểu biết mà cầu thì không thể được, vì vô tri nên mới cầu nơi bờ kia.

Thiện Tư lại hỏi:

- Bờ này lìa sự nói năng thì làm sao có thể cầu?

Tối Thắng đáp:

- Bởi xa lìa ngôn ngữ nên có thể cầu được.

Thiện Tư lại hỏi:

- Ngôn ngữ này vì sao xa lìa?

Tối Thắng đáp:

- Vì các pháp dựa vào nghĩa, chẳng dựa vào ngữ.

Thiện Tư lại hỏi:

- Tại sao dựa vào nghĩa?

Tối Thắng đáp:

- Vì chẳng thấy tướng nghĩa.

Thiện Tư lại hỏi:

- Vì sao chẳng thấy?

Tối Thắng đáp:

- Chẳng khởi phân biệt nghĩa là bị nương, ta là hay nương, không hai việc đây nên gọi chẳng thấy.

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu chẳng thấy nghĩa này thì cầu chỗ nào?

Tối Thắng đáp:

- Không thấy không nắm bắt nên cầu.

Thiện Tư hỏi lại:

- Pháp có thể cầu ấy tức là có cầu?

Tối Thắng đáp:

- Nghĩa đấy chẳng phải. Bởi vì cầu pháp ấy thật không sở cầu. Vì sao? Nếu thật khá cầu tức là phi pháp.

Thiện Tư lại hỏi:

- Cái nào là pháp?

Tối Thắng đáp:

- Pháp không văn tự, cũng lìa ngôn ngữ.

Thiện Tư lại hỏi:

- Trong lìa văn tự ngôn ngữ thì cái nào là pháp?

Tối Thắng đáp:

- Tánh lìa văn tự ngôn ngữ, dứt chỗ tâm hành. Đây gọi là pháp. Tánh tất cả pháp đều không thể nói. Cái không thể nói cũng không thể nói. Nếu có nói ra tức là hư dối. Trong pháp hư dối hoàn toàn không có thật pháp.

Thiện Tư lại hỏi:

- Chư Phật Bồ Tát thường có lời nói, vậy đều là hư dối sao?

Tối Thắng đáp:

- Chư Phật Bồ Tát từ đầu đến cuối chẳng nói một chữ, thì làm sao có hư dối?

Thiện Tư lại hỏi:

- Nếu có nói ra sẽ mắc lỗi gì?

Tối Thắng đáp:

- Có lỗi về lời nói.

Thiện Tư lại hỏi:

- Lời nói có lỗi gì?

Tối Thắng đáp:

- Có lỗi về nghĩ bàn.

Thiện Tư lại hỏi:

- Pháp nào không lỗi?

Tối Thắng đáp:

- Có nói, không nói chẳng thấy hai tướng thì không có lỗi.

Thiện Tư lại hỏi:

- Lỗi lấy gì làm gốc?

Tối Thắng đáp:

- Năng chấp làm gốc.

Thiện Tư lại hỏi:

- Chấp lấy gì làm gốc?

Tối Thắng đáp:

- Lấy tâm chấp đắm làm gốc.

Thiện Tư lại hỏi:

- Đắm lấy gì làm gốc.

Tối Thắng đáp:

- Hư vọng phân biệt là gốc.

Thiện Tư lại hỏi:

- Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc?

Tối Thắng đáp:

- Vin vào duyên làm gốc.

Thiện Tư lại hỏi:

- Duyên theo chỗ nào?

Tối Thắng đáp:

- Duyên theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

Thiện Tư lại hỏi:

- Làm thế nào để không duyên theo?

Tối Thắng đáp:

- Nếu xa lìa ái, thủ thì không còn chỗ để duyên. Vì nghĩa này nên Như Lai thường nói các pháp bình đẳng, không thể duyên theo được.

Khi nói pháp này có năm ngàn Bí sô xa lìa trần cấu sanh pháp nhãn thanh tịnh. Lại có một vạn hai ngàn Bồ Tát đắc Vô sanh nhẫn. Vô lượng, vô biên hữu tình đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Bấy giờ, Tối Thắng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chệch y che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những thiện nam, thiện nữ nghe Bát Nhã thâm sâu, làm thế nào để những người chưa phát Bồ đề tâm liền có thể phát tâm, tất cả đều thành tựu và đạt được Bất thối chuyển, sự tu hành thường tiến chẳng lùi?

Phật dạy:

- Thiên vương! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe và suy nghĩ thật kỹ. Ta sẽ nói cho ông.

Tối Thắng thưa:

- Lành thay, Đại Thánh! Cúi xin Ngài nói cho, chúng con muốn nghe.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương phải biết! Nếu các thiện nam, thiện nữ nghe Bát Nhã thâm sâu, đem ý thuần tịnh phát Bồ đề tâm, đầy đủ chánh tín, gần gũi Thánh Hiền, ưa nghe chánh pháp, xa lìa sự đố kỵ, bỏn sẻn, thường tu tịch tĩnh, ưa hành bố thí, tâm không hạn ngại, lìa các uế trược, chánh tín nghiệp quả, tâm chẳng do dự, biết rõ như thật nghiệp quả đen trắng. Nếu vì thân mạng quyết chẳng làm ác. Những thiện nam, thiện nữ này tu hành Bát Nhã thâm sâu như vậy thì có thể xa lìa 10 nghiệp ác đạo, tâm thường nhớ nghĩ về 10 thiện nghiệp đạo. Những thiện nam, thiện nữ này hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, nếu gặp các Sa môn, Bà la môn v.v... tinh tấn tu hành chân chánh, giới phẩm trong sạch, nghe nhiều hiểu nghĩa thì thường khởi lên chánh niệm, tâm tánh điều hoà nhu nhuyến, tịch tĩnh không loạn, thường ái ngữ, siêng tu các điều thiện, xa lìa các điều ác; chẳng đề cao mình, chẳng khinh thường người khác; lìa lời thô ác, bỏ lời vô nghĩa, chẳng bỏ niệm trụ, tâm giữ trung thực, thường dứt hung bạo, khéo nhổ tên độc, vứt bỏ hoàn toàn các gánh nặng, ra khỏi tám nạn xứ, không còn thọ thân sau. Những thiện nam, thiện nữ này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, nếu gặp Bồ Tát này thì phải nương tựa gần gũi để làm bạn tốt.

Khi ấy, Bồ Tát này dùng phương tiện thiện xảo tùy theo sự thích nghi, vì họ mà thuyết pháp: “Các ông nên biết! Người thường bố thí sẽ được giàu vui. Thọ trì tịnh giới thì được tôn quí sanh lên trời. Lắng nghe chánh pháp thì được trí tuệ lớn, lại bảo:

Đây là bố thí, đây là quả của bố thí.

Đây là xan tham, đây là quả của xan tham.

Đây là tịnh giới, đây là quả của tịnh giới.

Đây là phạm giới, đây là quả của sự phạm giới.

Đây là an nhẫn, đây là quả của an nhẫn.

Đây là tức giận, đây là quả của sự tức giận.

Đây là tinh tấn, đây là quả của sự tinh tấn.

Đây là biếng nhác, đây là quả của sự biếng nhác.

Đây là tịnh lự, đây là quả của tịnh lự.

Đây là tán loạn, đây là quả của tán loạn.

Đây là diệu tuệ, đây là quả của diệu tuệ.

Đây là ngu si, đây là quả của ngu si.

Đây là nghiệp lành của thân, đây là quả của nghiệp lành nơi thân.

Đây là nghiệp ác của thân, đây là quả của nghiệp ác nơi thân.

Đây là nghiệp lành của lời nói, đây là quả nghiệp lành của lời nói.

Đây là nghiệp ác của lời nói, đây là quả của nghiệp ác nơi lời nói.

Đây là nghiệp lành của ý, đây là quả của nghiệp lành nơi ý.

Đây là nghiệp ác của ý, đây là quả nghiệp ác của ý.

Đây là pháp nên làm, đây là pháp chẳng nên làm.

Nếu tu như thế thì cảm nhận được niềm vui lâu dài. Còn không tu như vậy thì chịu khổ triền miên. Những thiện nam, thiện nữ này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, gần gũi bạn lành, được nghe thuyết pháp thứ tự như vậy”. 

Khi Bồ Tát này biết người có pháp khí thì vì họ tuyên thuyết Bát Nhã thâm sâu, nghĩa là không, vô tướng, vô nguyện, không tạo tác, không sanh, không diệt, không ngã, không hữu tình, nói rộng cho đến người biết, người thấy. Lại tuyên thuyết duyên khởi sâu xa, nghĩa là do pháp này có nên pháp kia sanh. Khi pháp này diệt thì pháp kia cũng diệt theo. Đó là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử, sầu than, khổ, ưu, não. Nếu vô minh diệt thì hành diệt, cho đến sanh diệt thì lão tử, sầu than, khổ, ưu, não diệt.

Khi Bồ Tát này hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu lại nói thế này:

Trong lý chân thật không có một pháp nào có thể sanh có thể diệt. Vì sao? Vì các pháp thế gian đều do nhân duyên sanh, không có ngã, hữu tình, người tạo tác, người lãnh thọ. Nhân duyên hòa hợp thì nói pháp sanh. Nhân duyên ly tán thì nói pháp diệt. Không một pháp thật nào để lãnh thọ sự sanh diệt, hư vọng phân biệt trong ba cõi chỉ là giả danh, tùy theo nghiệp chướng phiền não mà thọ quả báo dị thục. Nếu dùng Bát Nhã như thật quán sát thì tất cả pháp không sanh, không diệt, không tạo, không nhận. Nếu pháp không tạo cũng là pháp không hành, thì đối với các pháp, tâm không có chấp trước. Nghĩa là chẳng đắm sắc, thọ, tưởng, hành, thức; chẳng đắm nhãn xứ cho đến ý xứ; chẳng đắm sắc xứ cho đến pháp xứ; chẳng đắm nhãn giới cho đến ý giới; chẳng đắm sắc giới cho đến pháp giới; chẳng đắm nhãn thức giới cho đến ý thức giới.

Khi ấy Bồ Tát lại nói thế này:

Tự tánh các pháp đều rốt ráo Không, vắng lặng xa lìa, không nắm giữ, không đắm trước. Các thiện nam, thiện nữ nghe nói lời như vậy, vẫn tu hành thì càng ngày càng tiến chứ không thối lui.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã muốn gặp chư Phật, ưa nghe chánh pháp, chẳng rơi vào dòng ti tiện; dù sanh ở nơi nào cũng được gặp Phật, được nghe chánh pháp và cúng dường chúng Tăng. Thường diện kiến chư Phật, dõng mãnh tinh tấn, chí cầu chánh pháp, chẳng đắm vợ con, tôi tớ hữu vi. Đối với của cải nhu cầu sinh sống cũng chẳng tham đắm, chẳng nhiễm các dục. Thường nương chánh giáo tu tập pháp Phật, bỏ tục xuất gia như giáo lý tu hành, lại dạy cho người khác. Tuy chỉ dạy cho người khác nhưng chẳng cầu đền đáp. Thấy người nghe pháp thường khởi đại từ. Đối với loài hữu tình thường khởi đại bi, học rộng nghe nhiều chẳng tiếc thân mạng. Thường ưa hạnh viễn ly, ít muốn, vui đủ. Chỉ cầu tìm nghĩa lý, chẳng câu nệ lời nói. Thuyết pháp tu hành không chỉ vì mình, mà vì loài hữu tình được nguồn vui Vô thượng, gọi là Bồ đề của Phật, là cảnh giới đại Niết bàn.    

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, tu hành như vậy sẽ xa lìa sự buông lung, dõng mãnh tinh tấn, hộ trì các căn. Khi mắt thấy sắc chẳng đắm tướng của sắc, như thật quán sát tội lỗi của sắc này. Tai tiếng, mũi hương, lưỡi vị, thân xúc, ý pháp cũng thế. Nếu buông thả các căn gọi là buông lung. Nếu thường hộ trì gọi là không buông lung. Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã bằng phương tiện thiện xảo, điều phục tự tâm, giúp người giữ ý gọi là không buông lung, xa lìa tham dục, tâm thuận pháp lành, quán sát sân si chẳng phải gốc của căn lành, nghiệp ác thân ý là hai tà mạng. Tất cả nghiệp chẳng lành đều phải xa lìa gọi là không buông lung. Khi đại Bồ Tát này hành Bát Nhã, tâm thường chánh niệm gọi là không buông lung. Đại Bồ Tát này biết tất cả pháp, lấy đức tin làm đầu. Người nào chánh tín sẽ không đọa cảnh giới ác, tâm chẳng làm ác, được Thánh Hiền khen ngợi.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, tu hành đúng pháp, dù sanh chỗ nào thường được gặp Phật, xa lìa nhị thừa, an trú chánh đạo, được đại tự tại, thành tựu việc lớn gọi là Chánh trí giải thoát của các Như Lai. Đại Bồ Tát này hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã muốn cầu an lạc, thường siêng tùy thuận đạo Nhất thiết trí.

Thiên vương nên biết! Nay đại chúng đây được nghe Bát Nhã như vậy, là nhờ đã từng ở vô lượng đại kiếp trong quá khứ cúng dường chư Phật, tu tập căn lành. Vì vậy, cần phải siêng năng tinh tấn hơn, đừng để lui mất. Nếu các trời người thường chế ngự các căn, chẳng đắm năm dục lạc, xa lìa thế gian, thường tu xuất thế, thanh tịnh ba nghiệp, tu tập pháp trợ đạo gọi là không phóng dật. Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, đầy đủ chánh tín, tâm không buông lung, siêng tu tinh tấn, đạt được thắng pháp, gọi là không buông lung. Các đại Bồ Tát  muốn đủ chánh tín, tâm không buông lung, tinh tấn chánh niệm, phải học Bát Nhã. Nhờ niệm trí này mau chứng được Vô thượng Bồ đề đã mong cầu. Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, đầy đủ chánh tín, tâm không buông lung, siêng tu tinh tấn liền được chánh niệm. Dùng niệm trí này biết có, biết không.

(Không có lời dạy bảo nào đầy trí tuệ như lời dạy bảo của Phật đối với Thắng Thiên vương, Thiên tử và tất cả Bồ Tát như phẩm này. Đó là những khuyến dẫn hết sức thực tế. Nếu tu tập được như vậy thì sẽ vượt qua cả cổng phước môn, trí môn mà thành tựu đạo nghiệp. Tuy nhiên, các lời khuyên bảo này không dễ gì thực hiện trong một sớm một chiều. Phải tu hành vô lương kiếp mới có cơ hội thành tựu. Vậy, phải kiên nhẫn phụng trì thôi!)

 

2.(Thế nào gọi là Có, thế nào gọi là Không?)

 

Thế nào là có, là không?  Nếu tu chánh hạnh được chánh giải thoát, đây gọi là có. Nếu tu tà hạnh được chánh giải thoát, đây gọi là không.

Sáu căn: mắt, tai, mũi v.v... Sáu cảnh: sắc, thanh, hương vị v.v... Thế tục là có. Thắng nghĩa là không.

Bồ Tát tinh tấn chứng được Bồ đề, đây gọi là có. Bồ Tát biếng nhác chứng được Bồ đề, đây gọi là không.

Nói 5 thủ uẩn đều từ hư dối phân biệt mà sanh, đây gọi là có. Nói pháp thế tục tự nhiên mà khởi chẳng phải do nhân duyên, đây gọi là không.

Nói sắc là pháp vô thường, khổ bại hoại, đây gọi là có. Nếu nói thường vui chẳng phải pháp bại hoại, đây gọi là không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Vô minh duyên hành, đây gọi là có. Nếu lìa vô minh mà hành phát sinh, đây gọi là không. Cho đến sanh duyên lão tử, sầu than khổ não cũng lại như vậy.

Bố thí được phước lớn, đây gọi là có, còn bần cùng thì gọi là không.

Thọ trì tịnh giới được sanh cõi lành, đây gọi là có, sanh vào cõi ác thì gọi là không.

Cho đến tu tuệ được thành Thánh, đây gọi là có, tu huệ mà trở thành kẻ ngu si thì gọi là không.

Nếu tu tập nghe nhiều sẽ được trí lớn, đây gọi là có, còn ngu si thì gọi là không.

Nếu tu chánh niệm, thường được xuất ly, đây gọi là có, không được gọi là không.

Nếu tu tà niệm chẳng được xuất ly, đây gọi là có, thường được xuất ly là không.

Nếu lìa ngã và ngã sở thường được giải thoát, đây gọi là có. Chấp ngã và ngã sở nếu được giải thoát, đây gọi là không.

Nếu nói hư không ở khắp tất cả mọi nơi, đây gọi là có. Nói trong năm uẩn có ngã chơn thật, đây gọi là không.

Như thật tu trí thường được giải thoát, đây gọi là có; nếu mắc vào tà trí mà được giải thoát, đây gọi là không.

Lìa các ngã kiến v.v... được Không trí, đây gọi là có. Đắm vào các ngã kiến v.v... thường được trí Không, đây gọi là không.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát tu hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu biết có biết không của thế gian, thường tu bình đẳng, hiểu rõ các pháp do nhân duyên sanh; vì theo thế tục nên nói có, chẳng khởi thường kiến; biết pháp nhân duyên bản tánh của chúng đều là Không, chẳng sanh đoạn kiến, đối với giáo pháp của chư Phật như thật thông suốt.

Thiên vương nên biết! Phật vì Bồ Tát lược nói bốn pháp là thế gian(thường, lạc, ngã, tịnh). Sa môn, Bà la môn v.v... và trời Trường Thọ đều đeo chấp thường. Vì phá chấp này, thuyết các là vô thường. Có những trời người nhiều tham đắm dục lạc, vì phá kiến chấp này nên nói tất cả là khổ. Với hạng tà kiến ngoại đạo chấp thân có ngã, vì phá kiến chấp này nên nói thân vô ngã. Kẻ tăng thượng mạn hủy báng Niết bàn chơn thật, vì vậy nói Niết bàn vắng lặng. Nói vô thường để họ chí tâm cầu pháp rốt ráo, nói khổ để họ mong cầu xa lìa sanh tử. Đối với người nói vô ngã thì hiển rõ Không môn để họ thông suốt, và nói tịch tĩnh để họ hiểu rõ vô tướng, xa lìa sự chấp tướng.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát nhã, tu học như vậy đối với các pháp lành quyết không thối lui, mau thành Vô thượng Bồ đề.

 

3.(Bồ Tát phải tu những hạnh nào để hộ trì Chánh pháp?)

 

Bấy giờ, Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tu những hạnh nào để hộ trì chánh pháp?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, thực hành không trái lời và tôn trọng sư trưởng, thuận theo chánh pháp, tâm hành điều hòa nhu nhuyến, chí tánh thuần chất, các căn vắng lặng, xa lìa tất cả pháp ác bất thiện, tu căn lành thù thắng gọi là hộ trì chánh pháp.

Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tu ba nghiệp thân, ngữ, ý, từ bi, chẳng màng danh lợi, giữ giới thanh tịnh, xa lìa các kiến chấp, gọi là hộ trì chánh pháp.

Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tâm hành chẳng theo thương, giận, sợ, si, gọi hộ trì chánh pháp. Tu tập tàm quí (tự mình hổ thẹn và biết hổ thẹn với người) gọi là hộ trì chánh pháp. Thuyết pháp tu hành đều đúng như những điều đã nghe gọi là hộ trì chánh pháp.

Thiên vương nên biết! Chư Phật ba đời vì hộ trì chánh pháp mà thuyết Đà la ni ủng hộ Thiên vương và Nhân vương v.v..., để họ hộ trì chánh pháp được tồn tại lâu dài trên thế gian, cùng các hữu tình làm lợi ích lớn nên nói Đà la ni:

 

Đát điệt tha, a hổ lạc, quật lạc phạt để, hỏa thích noa tóa lũ đồ, giả già, giả già chiếc, ni a bôn, nhã sát đa, sát đa sát diên đa, sát dã tóa ha, thiểm mạt ni yết lạc, ổ lỗ ổ lỗ phạt để ca, la bạt để ca, a bệ xa để ni tóa thích ni, khư xà, khư xà mạt để, a phạt thủy ni, phạt thi phạt đa, phạt đa, nô sa lý ni, bộ đa nô tất một lật để, đề phạt đa nô tất một lật để, tóa ha”.

 

Thiên vương nên biết! Đại thần chú này có thể làm cho tất cả trời, rồng, Dạ xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạc hô lạc già, người chẳng phải người v.v... tất cả hữu tình đều được an vui. Chư Phật ba đời nói đại thần chú này vì hộ trì chánh pháp và ủng hộ Thiên Vương, Nhân Vương v.v... được an lạc nên dùng sức phương tiện mà tuyên thuyết. Do đó, Thiên Vương, Nhân Vương bản thân và quyến thuộc v.v… đều được an vui, chánh pháp được tồn tại lâu trên thế gian, hữu tình và quốc độ không có tai nạn, nên mỗi mỗi đều phải tinh tấn siêng năng chí thành tụng niệm. Như vậy, làm cho các oán địch, nạn tai, việc ma và chướng ngại pháp v.v... thảy đều tiêu diệt. Nhờ thần chú ấy mà chánh pháp tồn tại lâu dài trên thế gian, các hữu tình được lợi ích lớn.

Khi thuyết đại thần chú Bát Nhã này, các cung điện trời, núi, biển, đại địa v.v... đều chấn động. Có tám mươi ngàn hữu tình phát tâm Vô thượng Bồ đề.

 

4.(Bồ Tát tu những pháp nào mà tâm chẳng giao động

đối với quả vị Vô Thượng Bồ đề?)

 

Khi ấy, Thiên vương Tối Thắng vui mừng hớn hở, dùng lưới bảy báu che lên đức Phật, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tu những pháp nào mà tâm chẳng giao động đối với Vô thượng Bồ đề?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát nào hành sâu Bát Nhã, tinh tấn siêng năng tu tập, không ngại đại từ, không chán đại bi, thành tựu việc lớn, gia tăng tinh tấn, học đẳng trì Không, cũng thường tinh tấn siêng năng tu trí bình đẳng, với phương tiện thiện xảo hiểu rõ như thật đại trí thanh tịnh, thông suốt diệu lý bình đẳng của ba đời, không còn chướng ngại, đi theo con đường chư Phật ba đời đã đi.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, tu pháp như thế thì tâm chẳng giao động đối với Vô thượng Bồ đề.

 

5. (Tu những pháp nào khi nghe việc bất khả tư nghì của Như Lai

mà không kinh, không sợ…?)

 

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tu những pháp nào mà nghe việc Bất tư nghì của các Như Lai, chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng ưu, chẳng não?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát tu hành diệu tuệ, diệu trí đầy đủ, gần gũi bạn lành, ưa nghe pháp thâm sâu, hiểu rõ các pháp đều như huyễn v.v... ngộ đời là vô thường, có sanh thì phải có diệt, tâm không trụ dính mắc giống như hư không.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã tu pháp như vậy nên nghe việc Bất tư nghì của các Như Lai, tâm chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng ưu não.

 

6.(Bồ Tát tu những pháp nào mà thường được tự tại

dù ở bất cứ nơi nào?)

 

Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tu những pháp nào mà thường được tự tại dù ở bất cứ chỗ nào?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tu 5 thần thông đầy đủ không ngại. Đối với các môn giải thoát, tịnh lự, vô lượng, phương tiện Bát nhã Ba la mật thường được tự tại dù ở bất cứ đâu.

 

7.(Bồ Tát hành sâu Bát Nhã chứng được những pháp môn nào?)

 

Bấy giờ, Tối Thắng bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã chứng được những môn nào?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, chứng được môn Diệu trí thì có thể ngộ nhập các căn lanh lợi, chậm lụt của tất cả hữu tình; đạt được môn Diệu tuệ thì có thể phân biệt cú nghĩa của các pháp; đạt được môn Tổng trì thì hiểu rõ tất cả âm thanh và lời nói; đạt được môn Vô ngại thì có thể nói các pháp rốt ráo vô tận.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã sẽ chứng được các môn như vậy.

 

8.(Bồ Tát hành Bát Nhã chứng được những lực nào?)

 

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã chứng được những lực gì?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã sẽ được năng lực tịch tĩnh nên thành tựu đại bi; được năng lực tinh tấn nên thành tựu bất thối; được năng lực nghe nhiều nên thành tựu đại trí; được năng lực tin ưa nên thành tựu giải thoát; được năng lực tu hành nên thành tựu xuất ly; được năng lực an nhẫn nên thương giúp hữu tình; được năng lực Bồ đề tâm nên đoạn trừ ngã kiến; được năng lực đại bi nên giáo hóa hữu tình; được năng lực vô sanh nhẫn nên thành tựu mười lực.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã được các năng lực thù thắng như vậy.

Khi Thế Tôn thuyết pháp này, năm trăm Bồ Tát đắc vô sanh nhẫn. Tám ngàn Thiên tử đắc Bất thối chuyển, một vạn hai ngàn các chúng Thiên tử xa lìa trần cấu, phát sanh pháp nhãn thanh tịnh. Bốn vạn trời người đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.

 

Lược giải:

 

1. Muốn đắc thì không đắc, không muốn mới đắc!

 

Một đoạn Kinh bất hữu nói trong phẩm “Xảo Tiện” Q.462, Hội thứ II và phẩm “Phương Tiện Khéo léo” Q.525, Hội thứ III, ĐBN diễn tả hết sâu sắc thế nào là hữu sở đắc, thế nào là vô sở đắc mà qua đó chúng ta có thể hiểu toàn bộ giáo pháp này.

Phật bảo Thiện Hiện:

Nơi nào có hai tướng là hữu sở đắc; nơi nào không hai là vô sở đắc. Khi mắt đối với sắc hay ý đối với pháp là có hai tướng. Chúng sanh đối với Phật là hai tướng. Pháp nương tựa hai tướng là pháp hý luận, thuộc cõi hữu sở đắc.

Phi mắt phi sắc, phi tai phi thanh, phi ý phi pháp, cho đến phi giác phi Phật; lìa hết thảy hý luận như thế, đó là vô nhị, không hai. Đó là chỗ vô sở đắc.

Thiện Hiện bạch Phật: Bạch thế Tôn! Phải chăng vì hữu sở đắc nên là vô sở đắc hay vì vô sở đắc nên vô sở đắc?

Phật nói: Không phải do hữu sở đắc nên là vô sở đắc. Nhưng vì hữu sở đắc vô sở đắc đều bình đẳng trong tự tánh nên gọi là vô sở đắc. Bồ Tát khi học như thế, gọi là học Bát nhã Ba la mật trong nghĩa vô sở đắc, lìa bỏ các sai lầm.

Thiện Hiện lại bạch Phật: Bạch thế Tôn! Nếu Bồ Tát Ma ha tát khi thực hành Bát Nhã, không dính hữu sở đắc, không dính vô sở đắc, Bồ Tát đó làm thế nào tu hành thậm thâm Bát Nhã có thể từ một địa vị tiến lên một địa vị, dần dần đến chỗ tròn đầy mà chứng đắc Nhất thiết trí?

Phật bảo Thiện Hiện: Bồ Tát khi thực hành Bát Nhã, không phải trụ hữu sở đắc, không phải trụ vô sở đắc, thực hành Bát Nhã có thể từ một địa vị tiến lên một địa vị dần dần tròn đầy mà chứng đắc Nhất thiết trí. Vì sao? Bát Nhã là vô sở đắc, Nhất thiết trí cũng vô sở đắc; người thực hành Bát Nhã, chỗ thực hành và khi thực hành, tất cả đều vô sở đắc. Vô sở đắc này cũng là vô sở đắc nốt!

Chẳng phải có sở đắc nên vô sở đắc, chẳng phải vô sở đắc nên vô sở đắc. Có sở đắc hay không sở đắc tánh bình đẳng gọi vô sở đắc. Các đại Bồ Tát  đối tánh bình đẳng có sở đắc, không sở đắc nên siêng tu học cả hai. Các đại Bồ Tát  khi học như thế gọi học Bát Nhã vô sở đắc.

Các đại Bồ Tát  khi hành Bát Nhã chẳng phải trụ có sở đắc được từ một bậc đến một bậc lần hồi viên mãn Nhất thiết trí trí, chẳng phải trụ sở đắc được từ một bậc đến một bậc lần hồi viên mãn được Nhất thiết trí trí. Vì sao? Vì có sở đắc là có chấp, có chấp là có dính mắc quái ngại. Vì vậy, không được Vô Thượng Chánh Đẳng giác, không được Nhất thiết trí trí. Nên Phật bảo: “Vô sở đắc là tướng của Bát nhã Ba la mật, vô sở đắc là tướng của Vô thượng Bồ đề, vô sở đắc cũng là tướng của người hành Bát nhã Ba la mật”.

Nhưng một khi quan niệm vô sở đắc là tôn chỉ tối cao của Bát Nhã, thì vô sở đắc cũng trở thành một chướng ngại khác của hành giả Bát Nhã. Vô sở đắc rốt ráo phải là vô sở đắc nốt. Tất cả phải là không, là rỗng không. Đó là tôn chỉ Bát Nhã! Bát Nhã phải là Bát Nhã khi hành không, vô tướng, vô tác. “Bát nhã Ba la mật thậm thâm là Vô sở đắc, Nhất thiết trí trí cũng là Vô sở đắc; người thực hành Bát Nhã, chỗ thực hành và khi thực hành, tất cả cũng đều Vô sở đắc; Vô sở đắc này cũng là Vô sở đắc nốt”. Phủi sạch hết tất cả thế là xong!

Cuộc đối thoại giữa Thiện Tư và Thắng Thiên vương của phẩm này là lối diễn đạt hết sức bình dị. Thắng Thiên vương bảo: Vì vô sở đắc mà được thọ ký. Nhưng thọ ký chẳng khác nào giấc mộng đêm qua. Đắc mà chẳng có gì để đắc: “Không đắc ấy là chẳng đắc ngã, chẳng đắc hữu tình, cho đến chẳng đắc sự thấy biết, chẳng đắc các uẩn xứ giới hoặc thiện hay chẳng phải thiện, hoặc tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, hoặc thế gian, hoặc xuất thế gian, hoặc hữu vi, hoặc vô vi, hoặc sanh tử, hoặc Niết bàn, đối với hết thảy như vậy đều không đắc gì cả”.

Đó là ý chính của phẩm này: Không đắc thiện hay ác, không đắc tạp nhiễm hay thanh tịnh v.v... cho đến không đắc sanh tử hay Niết Bàn. Đó là pháp pháp Không, gọi là nhị pháp. Pháp Phật là pháp môn bất nhị, sống trong bất nhị là sống trong Đệ nhất nghĩa đế, được thân bình đẳng, thì tâm trở nên tịch lặng an nhiên thôi.

Phẩm này chỉ thuyết vắn tắt về vô sở đắt như trên, phần còn lại đa số thuyết về tu chánh hạnh để hộ trì chánh pháp và kết quả do tu hành mà gặt hái được!

 

2. Thế nào gọi là Có? Thế nào gọi là Không?

 

Phẩm “Vô Sở Đắc” Q.571, tiếp tục thuyết:

Thế nào là có, là không? Nếu tu chánh hạnh được chánh giải thoát, đây gọi là có. Nếu tu tà hạnh được chánh giải thoát, đây gọi là không.

Sáu căn: mắt, tai, mũi v.v... Sáu cảnh: Sắc, thanh, hương vị v.v... Thế tục gọi có. Thắng nghĩa nói không.

Bồ Tát tinh tấn chứng được Bồ đề, đây gọi là có. Bồ Tát biếng nhác chứng được Bồ đề, đây gọi là không, v.v... và v.v...”

Khi còn lẩn quẩn trong vòng lưỡng nguyên, tâm thức sẽ không thoát khỏi sự ràng buộc, chấp trước... liền bị dính mắc, chướng ngại. Chỉ khi nào vượt qua và vượt khỏi thế lưỡng nguyên: Hữu vô, sanh diệt, đoạn thường, khứ lai,... lúc bấy giờ sẽ thấy bình đẳng giữa các pháp, mới hy vọng đạt ngộ hay giải thoát. Vì vậy, Bồ Tát phải tu Bát Nhã, theo con đường Tổ phụ ba đời đã đi, thực thi và hộ trì chánh pháp mới có hy vọng!

 

3. Bồ Tát phải tu những hạnh nào để hộ trì Chánh pháp?

 

“... Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, thực hành không trái lời và tôn trọng sư trưởng, thuận theo chánh pháp, tâm hành điều hòa nhu nhuyến, chí tánh thuần chất, các căn vắng lặng, xa lìa tất cả pháp ác bất thiện, tu căn lành thù thắng gọi là hộ trì chánh pháp.

Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tu ba nghiệp thân, ngữ, ý, từ bi, chẳng màng danh lợi, giữ giới thanh tịnh, xa lìa các kiến chấp, gọi là hộ trì chánh pháp.

Thiên vương nên biết! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tâm hành chẳng theo thương, giận, sợ, si, gọi hộ trì chánh pháp. Tu tập tàm quí gọi là hộ trì chánh pháp. Thuyết pháp tu hành đều đúng như những điều đã nghe gọi là hộ trì chánh pháp”.

An nhẫn, tinh tấn tu những hạnh như vậy là hộ trì Chánh pháp!

 

4. Bồ Tát tu những pháp nào mà tâm chẳng giao động

đối với quả vị Vô Thượng Bồ đề?

 

“... Đại Bồ Tát nào hành sâu Bát Nhã, tinh tấn siêng năng tu tập, không ngại đại từ, không chán đại bi, thành tựu việc lớn, gia tăng tinh tấn, học đẳng trì Không, cũng thường tinh tấn siêng năng tu trí bình đẳng, với phương tiện thiện xảo hiểu rõ như thật đại trí thanh tịnh, thông suốt diệu lý bình đẳng của ba đời, không còn chướng ngại, đi theo con đường chư Phật ba đời đã đi”.

Nếu Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã, tu các pháp như thế (tu tinh tấn, tu đẳng trì Không, tu trí bình đẳng, tu đại trí thanh tịnh) thì tâm chẳng giao động đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

 

5. Bồ Tát tu những pháp nào mà nghe việc bất khả tư nghì của

Như Lai mà không kinh, không sợ…?

 

“... Nếu đại Bồ Tát tu hành diệu tuệ, diệu trí đầy đủ, gần gũi bạn lành, ưa nghe pháp thâm sâu, hiểu rõ các pháp đều như huyễn v.v... ngộ đời là vô thường, có sanh thì phải có diệt, tâm không trụ dính mắc giống như hư không”.

Nếu Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã tu pháp như vậy nên khi nghe việc bất tư nghì của các Như Lai, tâm chẳng kinh, chẳng sợ, cũng chẳng ưu não.

 

6. Bồ Tát tu những pháp nào mà thường được tự tại

dù ở bất cứ nơi nào?

 

“... Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, tu năm thần thông đầy đủ không ngại. Đối với các môn giải thoát, tịnh lự, vô lượng, phương tiện Bát nhã Ba la mật thường được tự tại dù ở bất cứ đâu”.

 

7. Bồ Tát hành sâu Bát Nhã chứng được pháp môn nào?

 

“... Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, chứng được môn Diệu trí thì có thể ngộ nhập các căn lanh lợi, chậm lụt của tất cả hữu tình; đạt được môn Diệu tuệ thì có thể phân biệt cú nghĩa của các pháp; đạt được môn Tổng trì thì hiểu rõ tất cả âm thanh và lời nói; đạt được môn Vô ngại thì có thể nói các pháp rốt ráo vô tận”.

Nếu Đại Bồ Tát này hành sâu Bát Nhã như thế sẽ chứng được các môn như vậy.

 

8. Bồ Tát hành Bát Nhã chứng được những lực nào?

 

“... Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã sẽ được năng lực tịch tĩnh nên thành tựu đại bi; được năng lực tinh tấn nên thành tựu bất thối; được năng lực nghe nhiều nên thành tựu đại trí; được năng lực tin ưa nên thành tựu giải thoát; được năng lực tu hành nên thành tựu xuất ly; năng lực an nhẫn nên thương giúp hữu tình; được năng lực Bồ đề tâm nên đoạn trừ ngã kiến; được năng lực đại bi nên giáo hóa hữu tình; được năng lực vô sanh nhẫn nên thành tựu mười lực”.

Đó là tất cả pháp, tất cả hạnh mà Bồ Tát phải học để tự độ và có đủ khả năng độ tha mà Phật dạy Thắng Thiên Vương, Thiên tử và tất cả Bồ Tát. Các pháp tu này hết sức thiết thực, chắc chắn mang lại nhiều kết quả tốt đẹp. Phải học phải hành như thế nếu muốn tu Bồ Tát đạo hành Bồ Tát hạnh hay nói khác “tu lục độ vạn hạnh” để mang lại an lạc hạnh phúc cho toàn thể chúng sanh tận đời vị lai.

Nếu theo đúng chỉ dẫn trên tu tập trí tuệ và tịnh hạnh, ắt được nhiều phúc lợi, thiện căn công đức và trí tuệ trong hiện đời hay hậu đời không những một kiếp mà còn trong nhiều đời nhiều kiếp khác nữa.

Vì vậy, mở đầu Hội này chúng tôi gợi ý: Nếu các đạo hữu bỏ qua không đọc tụng và phụng trì Hội này cũng như Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã”, rồi một lúc nào đó có dịp tụng đọc Kinh này trong hệ Bát Nhã, sẽ ân hận thôi./.

 

---o0o---

 

 

 

10. PHẨM “CHỨNG KHUYẾN”

 

Cuối quyển 571, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương phẩm 9, “Chứng Khuyến”, Kinh TTVBN) 

 

Tóm lược: 

 

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Vô số đại kiếp trong quá khứ không thể nghĩ bàn có đức Phật tên là Công Đức Bảo Vương, đầy đủ 10 hiệu. Nước của Phật này tên là Bảo Nghiêm, kiếp tên là Thiện Quán. Cõi ấy sung túc vui vẻ không có bệnh tật khổ não. Trời người qua lại chẳng cách ngại nhau. Đất đai bằng phẳng như bàn tay, không có núi gò sỏi đá chông gai. Cỏ nhung mọc khắp, mềm mại xanh biếc như lông khổng tước, cao chừng bốn lóng tay, nếu đặt chân xuống thì cỏ liền nằm rạp xuống, cất bước lên thì cỏ trở lại như cũ. Hoa Chiêm bác ca, hoa Duyệt ý v.v... và các thứ cỏ mềm mọc đều khắp rất xinh đẹp. Thời tiết chẳng nóng chẳng lạnh, bốn mùa điều hòa. Đất bằng như ngọc báu lưu ly.

Tâm tánh của các hữu tình cõi ấy ôn hòa hiền thiện. Ba độc phiền não bị chế phục nên không còn hiện hành. Hàng Thanh văn đệ tử của chư Phật Thế Tôn kia có tới số một vạn hai ngàn muôn ức. Hàng đệ tử Bồ Tát có sáu mươi hai ức. Con người lúc đó tuổi thọ tới ba mươi sáu muôn năm, không có người chết yểu.

Cõi ấy có thành tên Vô Cấu Trang Nghiêm. Thành ấy từ Nam đến Bắc dài 128 do tuần, từ Đông sang Tây 80 do tuần, thành dày mười sáu do tuần. Tường, cửa, lầu đều do bảy báu tạo thành, mười ngàn khu vườn được trang trí nghiêm trang. Mười ngàn thành nhỏ bao vây chung quanh, có bốn khu vườn đầy hoa xinh đẹp với phong cảnh rất vừa ý. Khổng tước nô đùa, bốn mùa vui thích. Có bốn ao lớn, bờ bằng bảy báu, ngang rộng đều bằng nửa do tuần, đường đi và lề đường đều bằng vàng ròng, khắp đáy ao rải toàn cát vàng rất đẹp. Trong ao có nước đủ tám công đúc. Mùi thơm hoa báu xen lẫn. Trong đó có các vịt trời, chim nhạn, chim uyên ương tụ lại nhảy nhót vui vẻ. Bờ ao có nhiều cây: Bạch đàn, Xích đàn, Thi lợi sa v.v... Trên cây có chim Oanh vũ, Xá lợi bay nhảy vui chơi.

Cõi đó có vua Chuyển luân tên là Trị Thế, đầy đủ bảy báu, làm vua bốn đại châu, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật. Ở chỗ chư Phật gieo trồng căn lành sâu nặng, có tâm đại Bồ đề Bất thối chuyển. Quyến thuộc nội cung bảy mươi ngàn người, thân hình xinh đẹp, là ngọc nữ dâng thờ nhà vua, đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Vua Chuyển luân ấy có đủ ngàn con, sức lực dõng mãnh tráng kiện, đủ 28 tướng đại trượng phu, có thể chinh phục oán địch, cũng phát tâm Vô thượng Bồ đề.

 

Bấy giờ, Công Đức Bảo Vương Như Lai đem các Thanh văn và chúng Bồ Tát, cùng với vô lượng trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạt hô lạc già, người chẳng phải người v.v… lần lượt trước sau đi vào thành Vô Cấu Trang Nghiêm. Khi ấy, vua Chuyển luân với xe bảy báu dẫn đầu cùng với một ngàn người con và quyến thuộc trong nội cung ra thành nghinh rước, kính lễ thỉnh vào, thiết bày các thứ tuyệt diệu cúng dường.

Thế Tôn và các quyến thuộc thọ dụng đồ cúng dường xong trở về bổn xứ. Luân vương Trị Thế xuất thành cung kính đưa tiễn rồi trở về cung. Lúc ấy, bỗng nhiên vua Chuyển luân tự than:

- Thân người vô thường, giàu sang như chiêm bao, may mắn được đầy đủ các căn mà chánh tín còn khó khăn, vậy huống chi được gặp Như Lai, được nghe giáo pháp nhiệm mầu, thật là điều hiếm có, như thấy được hoa Ưu đàm vậy!

Khi ấy, ngàn người con của vua biết ý phụ vương ngưỡng mộ Thế Tôn muốn nghe chánh pháp, liền kiến tạo đài đẹp rộng lớn bằng gỗ Ngưu đầu chiên đàn, trang nghiêm bằng bảy báu. Đài này từ Nam chí Bắc dài mười ba do tuần, từ Đông sang Tây rộng mười do tuần. Trụ lớn bốn góc trang nghiêm bằng các thứ trân bảo. Phía dưới đài có ngàn bánh xe báu (đài làm như cỗ xe có ngàn bánh). Sau khi hoàn tất dâng lên vua cha. Vua cha nhận rồi ban lời khen:

- Hay thay! Hay thay! Rất hiểu ý ta. Ta muốn đến chỗ Phật để nghe chánh pháp.

Ngàn người con lại dựng tòa Sư tử để trong đài, an trí chỗ Phụ vương ngự, sai khiến cho các cung nhân hầu cận trước sau. Quanh đài có các chuông vàng rất đẹp thòng xuống, rèm treo, phan lọng, lưới che bằng bảy báu, lại rải các thứ hương hoa quý lạ, đốt hương vô giá, xoa dầu thơm. Khi ấy, ngàn vị vương tử, mỗi vị khiêng một bánh xe, giống thiên nga chúa bay bổng lên hư không đến chỗ Phật, nhẹ nhàng để xuống đất và đi đến chỗ Như Lai. Đến nơi đảnh lễ chân Thế Tôn, nhiễu bên phải bảy vòng rồi lui đứng một bên. Khi ấy, các quyến thuộc trong nội cung của vua Chuyển luân kia theo sau phía dưới đài. Vua cất mão ngọc và các quyến thuộc nội cung đều cởi giày dép ngọc, đến trước chỗ Phật đảnh lễ sát chân Phật, đi nhiễu quanh Phật bảy vòng bên phải, lui ngồi một phía.

Khi ấy, Công Đức Bảo Vương Như Lai bảo Trị Thế:

- Đại vương! Hôm nay vì nghe chánh pháp mà Ngài đến đây chăng?

 

1.(Những gì được gọi là Chánh pháp?)

 

Vua Chuyển luân từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục thưa:

- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là được nghe chánh pháp?

Phật khen vua:

- Lành thay! Lành thay! Hôm nay Ngài muốn cho chúng trời người được lợi ích an vui, nên muốn nghe chánh pháp thâm sâu. Vậy lắng nghe cho kỹ, suy nghĩ thật rốt ráo. Ta sẽ phân biệt giải nói cho Đại vương.

Trị Thế bạch Phật:

- Xin Thế Tôn cứ nói. Con rất muốn nghe.

Thế Tôn bảo vua:

- Đại vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật đã đạt được tánh bình đẳng của tất cả pháp, gọi là chánh pháp. Bao gồm: Bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám Thánh đạo, không, vô tướng, vô nguyện v.v..., đạt được tất cả pháp tánh bình đẳng nên gọi là chánh pháp.

Trị Thế lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vì sao các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, ở trong Đại thừa thường được thăng tiến chẳng có thối lui?

Phật bảo Trị Thế:

- Đại vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu, nhờ sức chánh tín mà được thăng tiến. Chánh tín là gì? Là biết các pháp bản tánh vắng lặng, chẳng sanh chẳng diệt. Thường được thân cận với những người tu hành chân chánh, pháp nào không nên làm thì kiên quyết không làm. Tâm lìa tán loạn, nghe nhận chánh pháp, chẳng thấy người kia nói, chẳng thấy ta nghe, siêng năng tu tập chánh hạnh, mau đắc thần thông. Những loài hữu tình nào kham lãnh được, thì ta có thể giáo hóa, nhưng không bao giờ thấy ta có thần thông có thể giáo hóa hữu tình và hữu tình kia đã nhận sự giáo hóa của ta. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát khi hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã hoàn toàn chẳng thấy ta, chẳng thấy hữu tình, hai bên bình đẳng thì được thăng tiến không thối lui.

Đại vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, hộ trì các căn, chẳng để chấp trước, đối với đồ vật giúp cho sự sống luôn khởi tưởng vô thường, biết các pháp vắng lặng, thân mạng như vay mượn tạm có.

Đại vương nên biết! Các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như vậy, ở trong Đại thừa tâm không buông lung.

Đại vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, thậm chí trong giấc mộng còn chẳng quên mất tâm Bồ đề, giáo hóa các hữu tình khiến họ tu Phật đạo, đem các căn lành ban cho loài hữu tình để hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, thấy được thần lực của Phật, vui mừng khen ngợi.

Đại vương nên biết! Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã như vậy sẽ mau thành Vô thượng Bồ đề. Thế nên đại vương phải siêng năng tinh tấn trụ ở ngôi tôn quý, chớ sanh buông lung. Đại Bồ Tát  nào muốn cầu chánh pháp thì chớ đắm ngũ dục. Vì sao? Vì tất cả phàm phu không nhàm chán dục lạc, còn bậc đạt Thánh trí thì có thể từ bỏ được. Vì thân người vô thường, thọ mạng ngắn ngủi.

Đại vương! Nay nên hiểu cho rốt ráo, chán bỏ thế gian để cầu đạo xuất thế. Đại vương nên đem căn lành đã cúng dường Như Lai, để hồi hướng cho bốn việc:

- Một là tự tại vô tận.

- Hai là chánh pháp vô tận.

- Ba là diệu trí vô tận.

- Bốn là biện tài vô tận.

Bốn việc hồi hướng này cùng Bát Nhã thâm sâu đều vô tận. Đại vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu nên tu trì giới giữ thân, ngữ, ý một cách thanh tịnh. Vì sao? Vì muốn hướng đến văn, tư, tu. Dùng sức phương tiện giáo hóa các hữu tình, dùng sức Bát Nhã phá dẹp các ma, thành tựu nguyện lực, việc làm và lời nói không trái nhau.

Khi vua Chuyển luân nghe Phật thuyết Bát Nhã thâm sâu, vui mừng hớn hở như được điều chưa từng có, tự lấy mão ngọc, cởi chuỗi anh lạc, quỳ thẳng dâng lên cúng dường Như Lai, xả bốn đại châu dâng cúng hết cho Phật, nguyện đem phước này thường tu phạm hạnh, học Bát Nhã, đem tâm quyết định vì loài hữu tình hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Những cung nữ của vua nghe Phật thuyết pháp đều sanh vui mừng phát tâm Bồ đề, đều cởi áo báu và chuỗi ngọc anh lạc dâng lên cúng cho Công Đức Bảo Vương Như Lai. Vua đem đài báu và tòa Sư Tử dâng lên Phật mà cầu xuất gia. Lúc đó đức Như Lai khen ngợi Trị Thế:

- Vua được như vậy thật quí thay! Những gì làm hôm nay chẳng trái nguyện xưa, nên siêng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự và Bát nhã Ba la mật. Chư Phật quá khứ nhờ tu pháp này mà chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Chư Phật vị lai cũng lại như thế.

Bấy giờ, Trị Thế lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát tu hành bố thí có khác với Bát Nhã thâm sâu không?

Phật bảo:

- Trị Thế! Nếu bố thí không có trí tuệ Ba la mật thì chỉ được gọi tên là bố thí, chẳng thể đến bờ kia. Phải do trí tuệ Ba la mật mới được gọi là bố thí đến bờ bên kia. Tịnh giới, nhẫn nhục, tinh tấn, tịnh lự cũng như vậy. Vì sao? Vì tánh Bát Nhã thâm sâu đều bình đẳng.

Khi đức Phật thuyết pháp thậm thâm này, vua liền chứng được Vô sanh pháp nhẫn.

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, phải như vua siêng cầu chánh pháp kia. Vua Chuyển luân khi ấy là Phật Nhiên Đăng, còn ngàn con kia chính là ngàn Phật thời Hiền kiếp.

 

2. (Làm thế nào Bồ Tát hành sâu Bát Nhã mau thành đạo Bồ đề?)

 

Tối Thắng bèn thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã tu hành mau thành đạt đạo Bồ đề?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, tu tâm từ v.v... không làm tổn hại các hữu tình, siêng năng hành tất cả Ba la mật và bốn nhiếp sự, bốn vô lượng tâm và Bồ đề phần pháp, tu học phương tiện thiện xảo của thần thông, với tất cả pháp lành đều tu viên mãn. Nếu các Bồ Tát tu hành như vậy thì có thể mau thành đạo đại Bồ đề. Đạo Bồ đề ấy gọi là tín tâm, tâm thanh tịnh, tâm xa lìa sự dối gạt, tâm tu hành bình đẳng, tâm thí vô úy, giúp các hữu tình hoàn toàn gần gũi, siêng tu hành bố thí thì quả báo sẽ vô tận. Thọ trì tịnh giới mà không có sự chướng ngại. Tu hành an nhẫn xa lìa các sự giận dữ, siêng năng tinh tấn thêm thì sự tu hành dễ thành tựu, có tịnh lự thù thắng chẳng khởi tán loạn, đầy đủ Bát nhã Ba la mật sẽ thông suốt hoàn toàn. Có đại từ nên làm lợi ích hữu tình. Có đại bi nên quyết không thối chuyển. Có đại hỷ nên thường làm vui lòng người khác. Có đại xả nên không khởi lên sự phân biệt. Không còn ba độc nên lìa các chông gai. Chẳng đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc cho nên diệt trừ hý luận. Không có phiền não nên xa lìa thù oán. Xả bỏ niệm của nhị thừa nên tâm rộng lớn. Đủ Nhất thiết trí nên thường xuất ra nhiều thứ báu.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, tu hành như vậy thì có thể mau thành tựu đạo đại Bồ đề.

 

3. (Bồ Tát hóa hiện hình tướng nào để hóa độ chúng sanh?)

 

Tối Thắng lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, hóa hiện hình tướng như thế nào để giáo hóa loài hữu tình?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, hiện ra hình tướng không nhất định. Vì sao? Vì tùy theo sự ưa thích(của chúng sanh), Bồ Tát liền hiện ra hình tướng như vậy. Hoặc hiện ra màu vàng ròng, hoặc hiện ra màu bạc, hoặc hiện ra màu pha lê, hoặc hiện ra màu lưu ly, hoặc hiện màu thạch tàng (mã não), hoặc hiện màu chơn châu, hoặc hiện màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hoặc hiện màu ngọn lửa, mặt trời, mặt trăng, hoặc hiện màu Đế Thích, hoặc hiện màu Phạm vương, hoặc hiện màu sương tuyết, hoặc hiện màu thư hoàng (có lẽ là lưu hoàng một loại khoáng chất vàng còn gọi là diêm sinh dùng để chế thuốc súng), hoặc hiện màu châu đan, hoặc hiện màu mưa hoa, hoặc hiện màu hoa Chiêm bác ca, hoặc hiện màu hoa Tô mạt na, hoặc hiện màu hoa sen xanh, hoặc hiện màu hoa sen vàng, đỏ, hoặc hoa sen trắng, hoặc hiện màu trời Công đức, hoặc hiện màu con thiên nga, con công, hoặc hiện màu ngọc san hô, hoặc hiện màu châu như ý, hoặc hiện màu cõi hư không; tùy theo màu của trời, người đều hiện ra theo loại ấy.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này đều có thể thị hiện tùy theo sắc màu, hình tướng sai khác của tất cả hữu tình trong hằng hà sa số thế giới khắp mười phương. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã thâm sâu có thể nhiếp hóa khắp tất cả hữu tình, cho đến chẳng rời bỏ tất cả hữu tình. Vì sao? Vì tâm hành của tất cả hữu tình khác nhau. Thế nên Bồ Tát thị hiện nhiều thứ. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này ở đời quá khứ có nguyện lực lớn, tùy theo các hữu tình ưa thấy thọ hóa liền thị hiện thân mà họ muốn thấy, như trong gương sáng vốn không có ảnh tượng nhưng tùy theo thể chất tốt xấu đều hiện tất cả. Nhưng gương sáng này cũng không có phân biệt: Thể thanh tịnh sáng suốt của ta hay hiện ra sắc tướng của chúng sanh. Như vậy, Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã không có tâm phân biệt, tùy sự ưa muốn mà thị hiện, cũng chẳng phân biệt ta có thể hiện thân.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, tùy theo Thánh chúng ở trong chỗ ngồi, tâm họ ưa thích được thấy thân nào thuyết pháp, thì Bồ Tát hiện ngay thân ấy. Nghĩa là hoặc thấy Phật, hoặc thấy Bồ Tát, hoặc thấy Độc giác, hoặc thấy Thanh văn, hoặc thấy Phạm vương, hoặc thấy Đế Thích, hoặc thấy Đại Tự Tại, hoặc thấy Tỳ sắc noa, hoặc thấy Hộ Thế, hoặc thấy Luân vương, hoặc thấy Sa môn, hoặc thấy dị đạo, hoặc thấy Bà la môn, hoặc thấy Sát đế lợi, hoặc thấy Phệ xá, hoặc thấy Thủ đà la, hoặc thấy trưởng giả, hoặc cư sĩ, hoặc thấy ngồi trong đài báu, hoặc thấy ngồi trên hoa sen, hoặc thấy tại đất, hoặc thấy bay trên hư không, hoặc thấy thuyết pháp, hoặc thấy thiền định.

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, vì cứu độ hữu tình nên không một kiểu hình nào và không một oai nghi nào mà không thể hiện được.

 

4. (Hư không và Bát Nhã)

 

Bát Nhã thâm sâu giống như hư không, không hình, không tướng, khắp 10 phương thế giới không chỗ nào không có.

Lại như hư không lìa các hý luận. Bát Nhã cũng lại như vậy, vượt qua ngôn ngữ.

Lại như hư không cần cho đời sống, với Bát Nhã cũng vậy, tất cả Thánh phàm đều chung thọ dụng.

Lại như hư không xa lìa phân biệt. Bát Nhã cũng lại như vậy, không có tâm phân biệt.

Lại như hư không dung chứa các sắc. Bát nhã Ba la mật cũng dung chứa được tất cả Phật pháp.

Lại như hư không thường hiện sắc. Bát Nhã cũng thường hiện ra tất cả Phật pháp.

Lại như hư không tất cả cỏ cây, thuốc thang hoa quả đều nương vào đó mà tăng trưởng. Cũng vậy, tất cả căn lành đều dựa vào Bát Nhã thâm sâu mà tăng trưởng.

Lại như hư không chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, chẳng phải pháp để nói năng. Bát Nhã cũng lại như vậy, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, lìa các ngôn ngữ. Thế gian Sa môn, Bà la môn v.v... cho đến Đế Thích, Phạm Thiên chẳng thể nghĩ lường Bát Nhã thâm sâu được.

Thiên vương nên biết! Bát Nhã thâm sâu không có một pháp nào có thể thí dụ được. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... tin thọ Bát nhã Ba la mật thì công đức đạt được không thể nghĩ bàn. Nếu công đức này có hình sắc thì cõi hư không chẳng chứa hết được. Vì sao? Vì Bát Nhã thâm sâu sanh ra tất cả thiện pháp thế gian và xuất thế gian. Tất cả chúng trời, người, hoặc vua trời người, bốn hướng, bốn quả và các Độc giác, thập địa Bồ Tát, quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề của chư Phật, Nhất thiết chủng trí, lực vô sở úy, và 18 pháp Phật bất cộng v.v... đều hoàn toàn dựa vào Bát Nhã mà thành tựu.

Khi thuyết pháp này, năm vạn Bồ Tát chứng được Bất thối chuyển. Một vạn năm ngàn chúng thiên tử được Vô sanh pháp nhẫn. Một vạn hai ngàn chúng trời, người xa lìa trần cấu sanh pháp nhãn thanh tịnh. Hằng hà sa số loài hữu tình phát tâm Vô Thượng Bồ đề. Trên hư không, chư Thiên trổi các kỹ nhạc và rải các thứ hương hoa đẹp của cõi trời để cúng dường Như Lai và Bát Nhã này. Lại có vô lượng trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạt hô lạc già, người chẳng phải người v.v... cũng rải các thứ hoa và những vật báu cúng dường Như Lai và Bát Nhã. Khi đó, trời rồng và những chúng khác chấp tay cung kính đồng thanh cất tiếng khen ngợi Phật:

- Hay thay! Hay thay! Thế Tôn đã hoan hỷ thuyết Bát Nhã như vậy.

 

Lược giải:

 

Phật Thế Tôn thuật cho Thắng Thiên Vương và chúng hội nghe câu chuyện của một vì vua Chuyển luân có tên là Trị Thế, nhân cúng dường Công Đức Bảo Vương Như Lai tại thành Vô cấu mới được nghe pháp, nên hiểu ra rằng cuộc đời là vô thường, giàu sang phú quý chẳng khác chiêm bao, may mắn được đầy đủ các căn mà chánh tín còn khó thấy, huống chi gặp Như Lai được nghe chánh pháp, thật là điều hiếm có!

 

1.Những gì được gọi là Chánh pháp?

 

Một ngàn người con của vua thầm hiểu ý cha nên lập một đài lớn bằng bảy báu như cỗ xe có ngàn bánh, rồi đưa phụ vương đến gặp Công đức Bảo Vương Như Lai để nghe chánh pháp. Sau khi lễ lạy ra mắt xong, Thế Tôn mới giải thích “thế nào là chánh pháp”, lại khuyên “nên siêng tu tập bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự và Bát nhã Ba la mật, để trở thành bậc Vô thượng Bồ đề”. Nghe xong thời pháp, Chuyển vương Trị Thế đắc Vô sanh pháp nhẫn.

Sau khi kể xong câu chuyện trên, Phật(Thích Ca) bảo Tối Thắng Thiên Vương:

- “Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, phải như vua siêng cầu chánh pháp kia. Vua Chuyển luân khi ấy là Phật Nhiên Đăng, còn ngàn con kia chính là ngàn Phật thời Hiền kiếp”.

 

Đó là câu chuyện “màu đầu”, buổi thuyết pháp của Phật Thích Ca Mâu ni cho Thắng Thiên Vương về phẩm “Chứng Khuyến” này.

 

2. Làm sao mau thành đạo Bồ đề?

 

“Lúc ấy, Tối Thắng bèn thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào mà các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã tu hành mau thành đại đạo Bồ đề?

Phật bảo Tối Thắng:

- Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, tu tâm từ v.v... không làm tổn hại các hữu tình, siêng năng hành tất cả Ba la mật và bốn nhiếp sự, bốn vô lượng tâm và Bồ đề phần pháp, tu học phương tiện thiện xảo của thần thông, với tất cả pháp lành đều tu viên mãn. Nếu các Bồ Tát tu hành như vậy thì có thể mau thành đạo Bồ đề. Đạo Bồ đề ấy gọi là tín tâm, tâm thanh tịnh, tâm xa lìa sự dối gạt, tâm tu hành bình đẳng, tâm thí vô úy, giúp các hữu tình hoàn toàn gần gũi, siêng tu hành bố thí thì phước báo sẽ vô tận. Thọ trì tịnh giới mà không có sự chướng ngại. Tu hành an nhẫn xa lìa các sự giận dữ, siêng năng tinh tấn thêm thì sự tu hành dễ thành tựu, có tịnh lự thù thắng chẳng khởi tán loạn, đầy đủ Bát Nhã sẽ thông suốt hoàn toàn. Có đại từ nên làm lợi ích hữu tình. Có đại bi nên quyết không thối chuyển. Có đại hỷ nên thường làm vui lòng người khác. Có đại xả nên không khởi lên sự phân biệt. Không còn ba độc nên lìa gai gốc. Chẳng đắm sắc, thanh, hương, vị, xúc cho nên diệt trừ được hý luận. Không có phiền não nên xa lìa thù oán. Xả bỏ niệm của nhị thừa nên tâm rộng lớn. Đủ Nhất thiết trí nên thường xuất ra nhiều thứ báu.

Thiên vương nên biết! Các đại Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, tu hành như vậy thì có thể mau thành tựu đạo Bồ đề”.

Đạt đạo Bồ đề cũng chẳng có gì khác không ngoài tu các thiện pháp, các pháp mầu Phật đạo nhất là tu và hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã. Nghiêm trì các thiện pháp và 6 pháp đáo bỉ ngạn thì Giác ngộ, được Nhất Thiết trí trí và trở thành Vô thượng Bồ đề nên gọi là chứng; đó là lời khuyên răn chân thật của tất cả chư Phật ba đời nên gọi là khuyến. Ý nghĩa của phẩm này có tên “Chứng Khuyến” là vậy! Giản dị thế thôi!

 

3. Bồ Tát hóa hiện sắc tướng nào để hóa độ chúng sanh?

 

Tùy theo tâm chúng sanh mong cầu chiêm ngưỡng Bồ Tát hiện ra sắc tướng khác nhau:

- Hoặc hiện ra màu vàng ròng, màu bạc, hoặc hiện ra màu pha lê, hoặc hiện ra màu lưu ly, hoặc hiện màu thạch tàng, hoặc hiện màu chơn châu, hoặc hiện màu lửa, màu mặt trời mặt trăng, hoặc hiện màu hoa sen xanh, đỏ, trắng, vàng, hoặc hiện màu con thiên nga, con công, hoặc hiện màu ngọc san hô, hoặc hiện màu châu như ý v.v...

- Đại Bồ Tát tùy theo các hữu tình ưa thấy hình tướng nào liền thị hiện thân cho họ thấy như họ ưa thích thấy thân thuyết pháp, thì Bồ Tát hiện ngay thân ấy. Nghĩa là hoặc thấy Phật, hoặc thấy Bồ Tát, hoặc thấy Độc giác, hoặc thấy Thanh văn, hoặc thấy Phạm vương, hoặc thấy Đế Thích, hoặc thấy Đại Tự Tại, hoặc thấy Hộ Thế, hoặc thấy Luân vương, hoặc thấy Sa môn, hoặc thấy Bà la môn, hoặc thấy Sát đế lợi, hoặc thấy Phệ xá (aiśya (S), Drha-pati (S), Vessa (P)Tỳ xá da, giai cấp thứ ba ở Ấn độ, gồm: nông dân, công nhân, thương gia), hoặc thấy Thủ đà la (Sudra (skt)—giai cấp thứ tư là giai cấp nô lệ, người làm mướn, lao động, và nông dân ở Ấn Độ), hoặc thấy trưởng giả, hoặc cư sĩ, hoặc thấy ngồi trong đài báu, hoặc thấy ngồi trên hoa sen, hoặc thấy tại đất, hoặc thấy bay lên hư không, hoặc thấy thuyết pháp, hoặc thấy thiền định v.v…

Thiên vương nên biết! Đại Bồ Tát này tu hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã, vì cứu độ hữu tình nên không một kiểu hình nào, không một oai nghi nào mà không thể hiện được.

 

4. Hư không và Bát Nhã.

 

Phần cuối của phẩm này so sánh Bát nhã Ba la mật với hư không rộng lớn vì Bát nhã Ba la mật sanh ra các thiện pháp thế gian, xuất thế gian và tất cả các công đức khác.

Bát Nhã thâm sâu giống như hư không, không hình, không tướng, khắp 10 phương thế giới không chỗ nào không có.

Lại như hư không lìa các hý luận. Bát Nhã cũng lại như vậy, vượt qua ngôn ngữ.

Lại như hư không cần cho đời sống, Bát Nhã cũng vậy, tất cả Thánh phàm đều chung thọ dụng.

Lại như hư không xa lìa phân biệt. Bát Nhã cũng lại như vậy, không có tâm phân biệt.

Lại như hư không dung chứa các sắc. Bát nhã Ba la mật cũng dung chứa được tất cả Phật pháp.

Lại như hư không thường hiện sắc. Bát Nhã cũng thường hiện ra tất cả Phật pháp.

Lại như hư không tất cả cỏ cây, thuốc thang hoa quả đều nương vào đó mà tăng trưởng. Cũng vậy, tất cả căn lành đều dựa vào Bát Nhã thâm sâu mà tăng trưởng.

Lại như hư không chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, chẳng phải pháp để nói năng. Bát Nhã cũng lại như vậy, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, lìa các ngôn ngữ. Thế gian Sa môn, Bà la môn v.v... cho đến Đế Thích, Phạm Thiên chẳng thể nghĩ lường Bát Nhã thâm sâu được.

Thiên vương nên biết! Bát Nhã thâm sâu không có một pháp nào trong thế gian có thể so sánh thí dụ được. Nếu các thiện nam, thiện nữ v.v... tín thọ Bát nhã Ba la mật thì công đức đạt được không thể nghĩ bàn. Nếu công đức này có hình sắc thì cõi hư không chẳng chứa hết được”.

Câu nói này đủ chứng minh tánh cách bao dung rộng lớn của Bát nhã Ba la mật, không có gì sánh bằng, không gì hơn!

 

Kinh thuyết theo lối “tự thuật”, rất dễ hiểu nên không cần nói thêm./.

 

---o0o---

 

 

 

 

 

 

 

 

11. PHẨM “HIỂN ĐỨC”

 

Đầu quyển 572, Hội thứ VI, ĐBN:

(Tương đương phẩm 10, “Thuật Đức”, Kinh TTVBN)

 

  Tóm lược:

 

Quyển 572

 

1.(Không nhóm hợp công hạnh, trồng nhiều căn lành,

thời chẳng được nghe công đức danh tự Bát Nhã).

 

Bấy giờ, đại Bồ Tát  Mạn Thù Thất Lợi (tên khác là Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát) từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch:

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát  trải qua bao nhiêu kiếp hành sâu Bát Nhã, cúng dường bao nhiêu đức Phật mà có thể thưa hỏi, hiển dương khen ngợi về Bát Nhã thâm sâu như Như Lai đã thuyết cho Thiên vương Tối Thắng vậy?

Phật bảo đại Bồ Tát  Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Việc đó chẳng thể nghĩ bàn. Nếu chẳng phải vô lượng trăm ngàn đại kiếp nhóm hợp công hạnh, trồng nhiều căn lành, thời chẳng được nghe công đức danh tự Bát nhã Ba la mật sâu thẳm.

Thiện nam tử! Số cát sông Hằng trong hằng hà sa số thế giới khắp 10 phương còn có thể biết được, chứ đại Bồ Tát này hành Bát Nhã đã trải qua bao nhiêu số kiếp, cúng dường bao nhiêu vị Phật đều không thể biết được.

Thiện nam tử! Trong quá khứ vô lượng, vô biên vô số kiếp khó nghĩ bàn, có đức Phật ra đời tên là Đa Văn đầy đủ mười hiệu, kiếp tên là Tăng Thượng, nước tên là Nhật Quang. Như Lai Đa Văn thuyết pháp môn thanh tịnh cho các đại Bồ Tát:

“Thiện nam tử! Ông phải siêng năng tu các pháp lành chẳng tiếc thân mạng”.

Khi đó, trong hội kia, có một vị Bồ Tát tên là Tinh Tấn Lực, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Ngài, kéo áo che vai trái, gối phải quì sát đất, chắp tay cung kính thưa Phật:

- Đức Thế Tôn đã nói: Ông nên siêng năng tinh tấn tu các pháp lành chẳng tiếc thân mạng. Như con hiểu nghĩa Phật đã nói đó, các đại Bồ Tát  lẽ ra “không nên sớm” chứng Vô thượng Chính đẳng Chính giác. Vì sao? Nếu các Bồ Tát siêng tu các pháp (sớm thành tựu mau chứng đắc) thì không thể trụ trong sanh tử lâu dài để làm lợi lạc cho hữu tình. Các đại Bồ Tá hành sâu Bát Nhã, chấm dứt phiền não, trụ lâu trong sanh tử, quyết chẳng phải vì bản thân để mau chứng Niết bàn, mà chỉ vì lợi lạc cho các hữu tình. Bồ Tát lấy sanh tử làm vui, chẳng lấy Niết bàn làm vui. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát lấy sự giáo hóa hữu tình làm vui vậy. Nghĩa là tùy theo chỗ ưa muốn mà phương tiện khéo léo truyền trao pháp môn giúp họ được an lạc. Nếu siêng tu pháp lành thì mau hết phiền não, không thể làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình. Thế nên Bồ Tát quán sát sanh tử nhiều sự khổ não, khởi tâm đại bi chẳng bỏ hữu tình, thành tựu bản nguyện.

Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát  đủ sức phương tiện ở lâu trong sanh tử, thấy được vô lượng vô biên đức Như Lai, nghe và lãnh thọ vô lượng vô biên chánh pháp, giáo hóa và dẫn dắt vô lượng vô biên hữu tình. Thế nên, vì việc này mà Bồ Tát chẳng nhàm chán sanh tử, không ưa thích Niết bàn. (Q.572, ĐBN)

 

2.(Thế nào là phi đạo?)

 

- Bạch Thế Tôn! Các đại Bồ Tát  khi quán sanh tử mà khởi lên sự chán sợ, ưa vui Niết bàn thì sẽ rơi vào phi đạo, không thể làm lợi lạc cho tất cả hữu tình, không thông suốt cảnh giới mầu nhiệm của Như Lai?

Là ưa Thanh văn và bậc Độc giác, đối với các loài hữu tình không có tâm đại bi. Vì sao? Vì đạo mà Thanh văn và Độc giác hành trì chẳng phải đạo của các đại Bồ Tát. Vì sao? Vì Thanh văn và Độc giác chán sợ sanh tử, ưa vui với Niết bàn, không thể đầy đủ phước đức trí tuệ, vì nghĩa này nên chẳng phải đạo Bồ Tát.

Khi ấy, Phật Đa Văn liền khen ngợi Tinh Tấn Lực:

- Hay thay!! Như lời ông nói, các đại Bồ Tát nên tu tự hành chớ tu tập theo phi đạo.

 

3.(Thế nào là Bồ Tát tu đạo tự hành?)

 

Tinh Tấn Lực thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là đại Bồ Tát đã tu đạo tự hành?

Phật Đa Văn nói:

- Bồ Tát thành tựu tất cả phước tuệ, vì sức đại bi không bỏ hữu tình, xa lìa Thanh văn và bậc Độc giác, được đắc Vô sanh nhẫn nhưng chẳng bỏ ba cõi, không lìa hữu tình, dùng phương tiện thiện xảo tu hành tất cả Ba la mật. Dùng sức trí tuệ, không tâm phân biệt, sanh trưởng căn lành, thành tựu tận trí được vô lượng công đức. Dù biết các pháp không có một pháp nào tự nó có thể sanh, chỉ phương tiện hiện sanh. Dù biết hữu tình không có một hữu tình nào là thật có mà vẫn phương tiện giáo hóa, biết tất cả pháp đều lìa tự tánh. Quán các cõi Phật đều như hư không nhưng thường dùng phương tiện khéo léo nghiêm tịnh cõi Phật. Biết tất cả pháp thân Phật không có hình tướng nhưng phương tiện thị hiện tướng hảo trang nghiêm. Tùy theo tâm các hữu tình ưa thích điều gì liền phương tiện trao cho họ. Thân tâm Bồ Tát tuy thường vắng lặng nhưng vẫn thuyết pháp giáo hóa hữu tình, cũng dùng phương tiện thiện xảo xa lìa ồn náo, tu các thiền định, biết tự tánh Không nhưng thông suốt được tất cả trí tuệ sâu xa, dùng phương tiện thuyết pháp cho người khác, không chứng quả Thanh văn, Độc giác thừa, mà siêng năng cầu chứng được quả Giải thoát của Như Lai, chẳng bỏ tất cả đạo hạnh của Bồ Tát. Đây gọi là Bồ Tát đã tự hành đạo của mình”.

Bồ Tát Tấn Lực đã từng nghe Đa Văn Thế Tôn nói về cảnh giới chưa từng có mà Bồ Tát thực hành, nên Bồ Tát Tấn Lực bạch Phật:

 - “Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có, như con hiểu ý Phật nói là: Bồ Tát đầy đủ phương tiện thiện xảo, quán tất cả pháp đều là đạo cả. Ví như hư không dung chứa các sắc. Như vậy, Bồ Tát đầy đủ phương tiện lớn, sự hành đạo thâu nhiếp tất cả pháp. Lại như hư không, tất cả cỏ cây hoa quả đều nhờ đó mà sanh trưởng. Như vậy, các vật đối với cõi hư không không thể làm nhiễm hoặc tịnh, chẳng làm giận làm vui. Đại Bồ Tát này đầy đủ phương tiện lớn là Bát Nhã, nên quán tất cả pháp đều là đạo, nghĩa là pháp của phàm phu hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ Tát, hoặc pháp Như Lai. Vì sao? Vì các Bồ Tát này đã thông suốt rồi. Ví như lửa mạnh, nếu gặp cỏ cây tất không lùi lại. Các cây cỏ này đều thuận theo, càng làm cho ngọn lửa cháy mạnh thêm. Cũng vậy các pháp hoàn toàn thuận theo đạo của Bồ Tát nên gọi là Bồ Tát đạo. Thí như kim cương, thể chất nó rắn chắc, dao không thể chặt gãy, lửa không thể đốt cháy, nước không thể làm tan rả, độc không thể hại. Cũng vậy, với phương tiện trí tuệ của Bồ Tát, Thanh văn, Độc giác, các ngoại đạo, và tất cả phiền não không thể nào làm tổn hoại được. Như ngọc lọc được nước, nếu ở trong nước đục thì làm cho trong. Ngọc Bát Nhã của Bồ Tát có thể làm cho tất cả phiền não của hữu tình đều được thanh tịnh. Ví như thuốc tốt như Diệu bảo thần châu không thể ở chung với chất độc, có khả năng làm tiêu hết các chất độc. Cũng vậy, Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát Nhã chẳng chung cùng với tất cả phiền não, mà có thể đoạn diệt tất cả phiền não. Nhân duyên các pháp như vậy đều là đạo của đại Bồ Tát”.

Mạn Thù Thất Lợi! Khi Tinh Tấn Lực nói về pháp này, tám vạn Bồ Tát đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Hai trăm Bồ Tát đắc Vô sanh pháp nhẫn. Mạn Thù Thất Lợi! Tinh Tấn Lực kia chính là Thiên vương Tối Thắng hôm nay.

(Tu như Nhị thừa, sợ trần sa hoặc(1), để tự độ không phải độ tha, rồi trốn vào Niết bàn. Đó là phi đạo, chư Phật Thế Tôn đều quở trách. Tu luôn luôn tưởng nhớ hữu tình, chẳng bỏ đạo hạnh Bồ Tát. Đó là tu đạo tự hành của Bồ Tát. Chư Phật thế Tôn luôn khen ngợi, tán thán!)

 

4.(Làm thế nào Bồ Tát hành sâu Bát Nhã được sức kiên cố

hộ trì Chánh Pháp?)

 

Bấy giờ, Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã được sức kiên cố, hộ trì chánh pháp?

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Đại Bồ Tát nào thà bỏ thân mạng chứ không bỏ chánh pháp, khiêm nhường với mọi người, không sanh kiêu mạn, nhẫn nại đối với sự sỉ nhục của bọn hạ tiện, cho hữu tình đói khát những thức ăn ngon, ban bố sự không sợ hãi cho người gặp nạn, trị liệu đúng pháp cho người bệnh tật, bố thí nhiều của báu cho hữu tình nghèo thiếu, sửa sang trang nghiêm tháp miếu thờ chư Phật, diệt trừ việc xấu, phát huy việc thiện, đem an vui cho hữu tình buồn khổ. Đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã như vậy sẽ được sức kiên cố, hộ trì chánh pháp.

 

5.(Bồ Tát hành sâu Bát Nhã làm sao có thể điều phục được tâm?)

 

Mạn thù thất lợi lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Làm sao các đại Bồ Tát hành Bát Nhã có thể điều phục tâm?

Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Đại Bồ Tát nào hành sâu Bát Nhã chẳng xen vào việc của người khác, suy nghĩ trước rồi mới làm. Tâm tánh ngay thẳng điều hòa, lìa xa sự dua nịnh, chẳng tự khoe mình, ý thường nhu hòa. Đại Bồ Tát này có thể điều phục được tâm.

Mạn thù thất lợi lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã có thể điều phục được tâm thì sẽ sanh về cõi nào?

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã có thể điều phục được tâm hoặc sanh lên cõi trời, hoặc sanh trong loài người. Nếu sanh lên cõi trời thì làm Đế Thích, hoặc làm Phạm vương là chủ cõi Kham Nhẫn. Nếu sanh vào loài người sẽ làm vua Chuyển luân hoặc làm các vua khác, hoặc làm trưởng giả, cư sĩ. Sanh lên trời hay người cũng thường được gặp Phật. Đại Bồ Tát này hành Bát Nhã có thể điều phục tâm sẽ sanh vào cảnh giới như vậy. (Q.572, ĐBN)

Mạn Thù Thất Lợi lại thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chánh tín đưa đến pháp nào?

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Chánh tín sinh ra sự khéo hiểu biết.

- Bạch Thế Tôn! Đa văn đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Đa văn dẫn đến trí tuệ vi diệu.

- Bạch Thế Tôn! Bố thí đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Bố thí dẫn đến phước lớn.

- Bạch Thế Tôn! Tịnh giới đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tịnh giới dẫn đến cảnh giới lành.

- Bạch Thế Tôn! An nhẫn đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- An nhẫn dẫn đến sự dung nạp tất cả hữu tình.

- Bạch Thế Tôn! Tinh tấn đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tinh tấn dẫn đến sự thành tựu tất cả Phật pháp.

- Bạch Thế Tôn! Tịnh lự đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tịnh lự dẫn đến sự xa lìa tất cả tán loạn giao động.

- Bạch Thế Tôn! Bát Nhã đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Bát Nhã dẫn đến sự xa lìa tất cả phiền não.

- Bạch Thế Tôn! Nghe pháp đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Nghe pháp dẫn đến sự xa lìa tất cả lưới nghi.

- Bạch Thế Tôn! Hỏi đúng đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Hỏi đúng dẫn đến trí tuệ vi diệu quyết định đối với các pháp.

- Bạch Thế Tôn! Trú tịch tĩnh sinh ra pháp gì?

Phật dạy:

- Sinh ra thiền định và các thần thông.

- Bạch Thế Tôn! Tu đúng sinh ra pháp gì?

Phật dạy:

- Tu đúng dẫn đến chánh đạo.

- Bạch Thế Tôn! Tiếng vô thường đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tiếng vô thường dẫn đến sự không nắm bắt đối với cảnh.

- Bạch Thế Tôn! Tiếng khổ đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tiếng khổ dẫn đến sự vô sanh.

- Bạch Thế Tôn! Tiếng vô ngã đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tiếng vô ngã dẫn đến sự diệt trừ chấp ngã và ngã sở.

- Bạch Thế Tôn! Tiếng Không đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Tiếng Không dẫn đến sự tịch tĩnh.

- Bạch Thế Tôn! Chánh niệm đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Chánh niệm dẫn đến Thánh kiến.

- Bạch Thế Tôn! Thân tâm xa lìa đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Thân tâm xa lìa dẫn đến tất cả thần thông diệu tịnh.

- Bạch Thế Tôn! Thánh đạo đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Thánh đạo dẫn đến Thánh quả.

- Bạch Thế Tôn! Thắng giải đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Thắng giải dẫn đến sự thành tựu tất cả giải thoát.

- Bạch Thế Tôn! Đức Phật ra đời đưa đến pháp nào?

Phật dạy:

- Phật ra đời dẫn đến tất cả Bồ đề phần pháp.

(Tất cả các chỉ dẫn khuyến tấn về tu hành của Hội thứ VI nói chung, hết sức chi li sâu sắc so với các Hội khác. Cố gắng phụng trì, sẽ được nhiều lợi lạc lớn trong hiện đời và hậu đời, xin chớ bỏ qua!)

 

6.(Phật ra đời như thế nào?)

 

Bấy giờ, Tối Thắng ở trước Phật thưa:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là Phật ra đời?

Phật dạy:

- Tối Thắng! Như phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là phát tâm quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề?

Phật dạy:

- Như phát sanh đại bi.

- Bạch Thế Tôn! Sanh đại bi là thế nào?

Phật dạy:

- Chẳng bỏ tất cả hữu tình.

- Bạch Thế Tôn! Chẳng bỏ tất cả hữu tình là sao?

Phật dạy:

- Phải giống như chẳng bỏ Tam bảo.

- Bạch Thế Tôn! Ai có thể không bỏ Tam bảo?

Phật dạy:

- Tất cả những người không có phiền não.

Tối Thắng liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật kỳ lạ. Bạch Thiện Thệ! Thật hy hữu! Chư Phật kín đáo thâm sâu mầu nhiệm, tuy nói pháp Không, không sanh, không diệt, xưa nay vắng lặng nhưng chẳng phá hoại nghiệp quả thiện ác, xa lìa đoạn thường. Bạch Thế Tôn! Có trường hợp nào mà những hữu tình nghe pháp này chẳng kính tin lại sanh tâm hủy báng không?

Phật dạy:

- Cũng có.

- Bạch Thế Tôn! Hữu tình này do đời quá khứ tu hành thiện nghiệp nên được thọ thân người. Nhưng do gần gũi bạn ác nên đối với giáo pháp thâm sâu không thể kính tin lại sanh hủy báng, chỉ làm uổng phí nghiệp thiện quá khứ. Ân đức của chư Phật thật là sâu nặng, giả sử có đem máu thịt của mình cúng dường chư Phật cũng chẳng đền đáp được. Nhờ ơn Phật nên ngày nay chúng ta tăng trưởng căn lành, được pháp lạc lớn, trụ đại tự tại, trời người cung kính.

Bạch Thế Tôn! Các Bồ Tát hành sâu Bát Nhã nên biết ơn Phật, thân gần bạn lành, phải tu hạnh của chư Phật, chứng quả Bồ đề của chư Phật.

Khi nói pháp này, trong chúng có hai vạn năm ngàn Bồ Tát đắc Vô sanh nhẫn, bốn vạn năm ngàn chúng trời người đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Một vạn hai ngàn chúng Thiên tử xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh.

 

Thích nghĩa:

(1). Trần sa hoặc: Có nhiều nghĩa, nhưng ở đây có thể giải thích “đó là các lậu hoặc nhiều như cát bụi”. Trần sa là cát bụi, nghĩa bóng là các phiền não lậu tận. Trong phần này có ý nói: Người tu sạch hết lậu hoặc có thể trở thành Thánh nhân, lại sợ dính bụi trần mà rơi rụng, nên mau trốn vào Niết bàn. Phật có quan niệm ngược lại, nên đặt câu hỏi “nếu quặng lọc hết các bẩn để trở thành vàng ròng, một khi đã là vàng ròng rồi thì vàng có thể trở lại thành quặng mỏ nữa hay không?” Điều này có nghĩa: Một khi đã trở thành Thánh nhân rồi thì có bị rơi rụng trở lại thành phàm phu nữa hay không? Quý vị có thể tự trả lời câu hỏi này. TB

 

Lược giải:

 

Phần đầu phẩm này nói về đạo của Bồ Tát hay đạo Bồ đề, tu không phải như Nhị thừa sớm thành tựu giác ngộ chứng thật tế rồi vào Niết Bàn, tu là phải ở lâu trong sanh tử để phục vụ chúng sanh. Đó mới là đạo của Bồ Tát.

Phẩm này chẳng qua là so sánh sự hành đạo của Nhị thừa với Đại thừa. Kinh Đại Bát Nhã hoặc các Bộ Kinh khác thuộc Đại thừa lúc nào Phật cũng phân biệt hai thừa này. Sự phân biệt không phải là phân chia hệ cấp trong Phật đạo như trong các tôn giáo khác. Phật trước tiên thuyết về Tiểu thừa dẫn dắt chúng sanh học các pháp lành để thoát khổ sanh lão bệnh tử... được vui Niết bàn. Vì những pháp tu Tiểu thừa khi xưa chỉ chú trọng vào sự tu tập cốt đạt an lạc hạnh phúc của từng cá nhân, nghĩa là người tu cốt xa lìa trần sa hoặc, sớm chứng chân lý (thật tế) rồi nhập Niết bàn, không đếm xỉa đến những sanh linh khốn khổ khác đang oằn oại trong bể sanh tử.

Để dẫn dắt Nhị thừa lên một trình độ cao hơn, tu cốt để phục vụ chúng sanh. Nên Phật chủ trương Nhất thừa, gôm tất cả các thừa từ Nhân thừa, Thiên thừa, Tiểu thừa, Trung thừa và Bồ Tát thừa vào Nhất thừa là Phật thừa(1). Nghĩa là chủ trương độ thoát chúng sanh ra khỏi bể khổ. Tu là cho người khác, không phải cho sự an lạc của chính cá nhân mình. Nên Bồ Tát tu lâu ở trong sanh tử để có dịp phục vụ chúng sanh. Đó là đạo chơn hạnh của Bồ Tát. Còn tu mà sợ sanh già bệnh chết, tu gấp để sớm vào Niết bàn, đó là phi đạo, là trốn chạy! Hành đạo như vậy chẳng phải là hành đạo Bồ Tát, không phải Đại thừa.

Rồi Đức Thích Ca kể cho pháp hội nghe câu chuyện xa xưa trong vô lượng kiếp có Đức Phật tên là Đa Văn, đầy đủ 10 danh hiệu, kiếp tên là Tăng Thượng, cõi nước tên Nhật Quang, thuyết pháp môn thanh tịnh cho các đại Bồ Tát. Phật Đa Văn nói:

- “Bồ Tát thành tựu tất cả phước tuệ, vì sức đại bi không bỏ hữu tình, xa lìa Thanh văn và bậc Độc giác, được đắc Vô sanh nhẫn nhưng chẳng bỏ ba cõi, không lìa chúng sanh, dùng phương tiện thiện xảo tu hành tất cả Ba la mật. Dùng sức trí tuệ, tâm không phân biệt, sanh trưởng căn lành, thành tựu tận trí được vô lượng công đức. Dù biết các pháp không có một pháp nào tự nó có thể sanh, chỉ phương tiện hiện sanh. Dù biết hữu tình không có một hữu tình nào là thật có mà vẫn phương tiện giáo hóa, biết tất cả pháp đều lìa tự tánh. Quán các cõi Phật đều như hư không nhưng thường dùng phương tiện khéo léo nghiêm tịnh cõi Phật. Biết tất cả pháp thân Phật không có hình tướng nhưng phương tiện thị hiện tướng hảo trang nghiêm. Tùy theo tâm các hữu tình ưa thích điều gì liền phương tiện mà trao cho họ. Thân tâm Bồ Tát tuy thường vắng lặng nhưng vẫn thuyết pháp giáo hóa hữu tình, cũng dùng phương tiện thiện xảo xa lìa sự ồn náo, tu các thiền định, biết tự tánh Không nhưng thông suốt được tất cả trí tuệ sâu xa, dùng phương tiện thuyết pháp cho người khác, không chứng quả Thanh văn, Độc giác mà siêng năng cầu chứng quả Giải thoát của Như Lai, chẳng bỏ tất cả đạo hạnh của Bồ Tát. Phật Đa Văn kết luận: Đó gọi là đạo của Đại Bồ Tát!”

 

Bồ Tát Tấn Lực(mà Phật Thích Ca kể trong câu chuyện này là một trong số Bồ Tát trong pháp hội của Phật Đa Văn)đã từng nghe Đa Văn Thế Tôn nói về cảnh giới chưa từng có mà Bồ Tát thực hành Bồ Tát đạo, nên Bồ Tát Tấn Lực bạch Phật Đa Văn:

 “Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có, như con hiểu ý Phật nói là: Bồ Tát đầy đủ phương tiện thiện xảo, quán tất cả pháp đều là đạo cả. Ví như hư không dung chứa tất cả sắc. Như vậy, Bồ Tát đầy đủ phương tiện lớn, sự hành đạo thâu nhiếp tất cả pháp. Lại như hư không, tất cả cỏ cây hoa quả đều nhờ đó mà sanh trưởng. Như vậy, các vật đối với cõi hư không không thể làm nhiễm hoặc tịnh, chẳng làm giận làm vui. Đại Bồ Tát này đầy đủ phương tiện lớn là Bát Nhã, nên quán tất cả pháp đều là đạo, nghĩa là pháp của phàm phu hoặc pháp Thanh văn, hoặc pháp Độc giác, hoặc pháp Bồ Tát, hoặc pháp Như Lai. Vì sao? Vì các Bồ Tát này đã thông suốt rồi. Ví như lửa mạnh, nếu gặp cỏ cây tất không lùi lại. Các cây cỏ này đều thuận theo, càng làm cho ngọn lửa cháy mạnh thêm. Cũng vậy các pháp hoàn toàn thuận theo đạo của Bồ Tát nên gọi là Bồ Tát đạo. Thí như kim cương, thể chất nó rắn chắc, dao không thể chặt gãy, lửa không thể đốt cháy, nước không thể làm tan rã, độc không thể hại. Cũng vậy, với phương tiện trí tuệ của Bồ Tát, Thanh văn, Độc giác, các ngoại đạo, và tất cả phiền não không thể nào làm tổn hoại được. Như ngọc lọc được nước, nếu ở trong nước đục tức làm cho trong. Ngọc Bát Nhã của Bồ Tát có thể làm cho tất cả phiền não của hữu tình đều được thanh tịnh. Ví như Diệu bảo thần châu giống như thuốc tốt không thể ở chung với chất độc, có khả năng làm tiêu hết các chất độc. Cũng vậy, Bồ Tát hành phương tiện thiện xảo của Bát nhã Ba la mật chẳng chung cùng với tất cả phiền não, mà có thể đoạn diệt tất cả phiền não. Nhân duyên các pháp như vậy đều là đạo của đại Bồ Tát”.

Ý chính của phẩm “Hiển Đức” này nằm trong hai đoạn Kinh trên do Phật Đa Văn và Bồ Tát Tinh Tấn Lực thuyết về Bồ Tát đạo. Hành đạo này sẽ được nhiều công đức trí tuệ để độ mình độ người. Do đó, mới nói có thể thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, mang an lạc lợi ích cho tất cả hữu tình đến tận cùng đời vị lai.

Điểm đáng chú ý của phẩm này là cuộc đối thoại giữa Phật và Mạn Thù Thất Lợi. Đó là những định nghĩa xác thực về tất cả pháp và đồng thời đó cũng là những chỉ dẫn cần thiết cho người học đạo. Học đạo tự hành là phải nghiền ngẫm thọ trì các Thánh chỉ này thôi!

Thích nghĩa cho phần lược giải này:

(1). Sẵn đây xin thuyết sơ qua về Ngũ thừa để các đạo hữu nào mới học Phật biết thêm tổ chức của Phật giáo: Khi xưa khi Phật còn tại thế, Phật chia Phật đạo làm năm thành phần khác nhau tùy theo pháp tu và hạnh nguyên. Năm thành phần, đó là:

1- Thành phần tu hành phổ thông nhất chính là Nhân thừa, (Mānuṣayāna, S): Chỉ những người sống trên mặt đất (cõi Dục), học và hành ngũ giới trọn vẹn thì có thể luân hồi trở lại làm người.

2- Thiên thừa(Devayàna, S): Chỉ chúng sanh ở cõi trời do tu thập thiện hay bố thí, trì giới, thiền định đôi chút mà được thăng lên cõi ấy.

3- Tiểu thừa(Hīnayāna, S): Ở đây không nói đến các bộ phái và chủ trương của nó. Ở đây chỉ thuyết sơ về pháp tu và nguyện ước của thành phần này mà thôi. Tiểu thừa phân tích rõ trạng thái của đời sống con người, bản chất sự vật, cơ cấu của ngã và pháp, chỉ ra các Khổ (khổ là một sự thật, làm sao thoát khổ, làm sao thoát sanh tử luân hồi, làm sao đạt Niết bàn an vui?). Vì vậy, Tiểu thừa tu các pháp tu như Tứ đế, Bát chánh đạo, nghiệp và quả cốt phá ngã, diệt tội thực hiện ước nguyện đầu tiên cũng như cuối cùng là được giác ngộ, giải phóng cá nhân mà vào Niết bàn.

4- Trung thừa(Mādhyamayāna, S): Thừa này ít thấy nói đến trong các Kinh sách, nên không được phổ thông lắm. Một số học giả cho rằng Trung thừa do Ngài Long Thọ sáng lập, nằm ở giữa Tiểu thừa và Đại thừa, vì nó có thể giúp hai thừa này giải quyết các cực đoan trong tư duy hay hiện thực. Nhưng Kinh ĐBN xếp Duyên Giác, Độc giác hay Bích Chi Phật vào Trung thừa. Đó là những vị tự mình phá vỡ được chu kỳ sinh diệt của 12 nhân duyên: Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sanh, Lão tử mà được giác ngộ.

5- Đại thừa(Mahāyāna, S): Muốn trở thành Bồ Tát thừa, Phật thừa thì trước hết phải học tất cả các pháp môn Phật học của tất cả các thừa khác, sau đó phải tu lục độ là bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ và lập nguyện trên cầu Vô thượng Bồ đề, dưới hóa độ chúng sanh.

Tổ chức Phật giáo không phải là một hệ cấp hình kim tự tháp: Trên đầu là Phật, kế là Bồ Tát, xuống là Độc giác, Thanh văn, dưới là chư Thiên và tầng cuối cùng là Người, mặc dù trong Kinh thường nói đến thập giới (Phật, Bồ Tát, Độc giác, Thanh văn, Thiên, Nhân, A tu la, Súc sanh, Ngạ quỷ và Địa ngục). Sự phân chia giai vị trong Phật đạo là tùy theo tu chứng và hạnh nguyện: Tiểu thừa tu để thoát khổ cho riêng mình, cho cá nhân mình hưởng; trong khi Đại thừa tu là vì chúng sanh khác, vì an lạc hạnh phúc của toàn thể chúng sanh. Vì vậy, trong các Kinh Phật nhất là các Kinh thuộc Đại thừa thường trách bậc Nhị thừa, và chủ trương gộp tất cả các thừa vào Nhất thừa gọi chung là Phật thừa, là vì vậy.

Đại cương của các thừa trong Phật đạo là như vậy. Tuy nhiên, như trên đã nói đạo Phật không như những tôn giáo khác, cốt thiết lập hệ cấp “hình kim tự tháp”để bảo vệ uy quyền của những nhà lãnh đạo tôn giáo trong quốc gia hay giữa các quốc gia với nhau trong cộng đồng thế giới. Chủ trương của đạo Phật là bình đẳng, không có phân chia hơn kém./.

 

---o0o---

 

 

 

12. PHẨM “HIỆN HÓA”.

 

Giữa quyển 572, Hội thứ VI, ĐBN:
(Tương đương với phẩm 11, “Hiện Hóa”, Kinh TTVBN)

 

Tóm lược:

 

(Hóa thân của Phật có thể biến hóa nữa không?)

 

Bấy giờ, Bồ Tát Thiện Tư thưa với Thiên vương Tối Thắng:

- Hóa thân của Phật có thể biến hóa nữa không?

Tối Thắng đáp:

- Nay đối với việc đó lấy Thế Tôn làm minh chứng. Hóa thân của Phật lại có thể hóa làm hằng hà sa số vô lượng hóa thân Phật nữa, với vô lượng hình tượng thần thông để thuyết pháp làm lợi lạc hữu tình. Vì sao? Vì nguyện lực thuở xưa của chư Phật thanh tịnh nên mới được như vậy.

Bồ Tát Thiện Tư lại hỏi:

- Thiên vương thường thuyết pháp thâm sâu một cách khéo léo. Nếu gọi nguyện lực thuở xưa của Phật thanh tịnh thì cúi xin Thiên vương thỉnh thần lực Phật làm cho Bát Nhã tồn tại lâu dài trên thế gian, không bao giờ diệt mất.

Tối Thắng trả lời:

- Thiện Tư nên biết! Tất cả Như Lai thường cùng nhau hộ trì Bát Nhã. Vì sao? Vì văn tự để tuyên thuyết Bát Nhã, văn tự này chẳng khởi đầu, chẳng kết thúc, thường không ẩn mất. Ý nghĩa được hiển bày kia cũng chẳng khởi đầu, chẳng kết thúc, thường không ẩn mất. Do đó, Bát Nhã của chư Phật cũng không ẩn mất. Vì sao? Vì pháp chẳng sanh. Nếu pháp không sanh thì cũng không diệt, tức là giáo lý bí mật của chư Phật. Diệu lý như vậy thì Như Lai ra đời, hoặc không ra đời, tánh tướng vẫn vắng lặng gọi là chơn như, cũng gọi là pháp giới, còn gọi là thật tế, thuận theo nhân duyên mà chẳng chống trái, đó là chánh pháp. Tánh nó thường trú vĩnh viễn không ẩn mất.

(Giáo lý đạo Phật vốn dĩ trăm ngàn năm vẫn như vậy, dù có Phật hay không có Phật ra đời, vẫn tràn đầy trong trời đất. Tánh nó thường trú vĩnh viễn không ẩn mất như chơn như, như pháp giới, như pháp tánh... )

 

(Nếu không trái nghịch với tất cả pháp, thì gọi là hộ trì chánh pháp)

 

Bồ Tát Thiện Tư thưa:

- Đại vương! Những người nào có thể hộ trì chánh pháp?

Thắng Thiên vương đáp:

- Thiện nam tử! Nếu không trái nghịch với tất cả pháp, thì gọi là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì không có tranh luận và không trái đạo lý, nên gọi là hộ trì chánh pháp.

Lại hỏi:

- Thế nào không trái đạo lý?

Đáp:

- Nếu thuận theo văn tự là không trái đạo lý và không có chỗ để tranh luận thì gọi đó là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì phàm phu thế gian đều chấp trước các kiến, còn người thuận đạo lý thường nói không. Cho nên thế gian sinh ra tranh luận; như vậy phàm phu tham đắm vào pháp , còn người thuận theo đạo lý thì coi thường việc này. Thế gian nói có thường, lạc, ngã, tịnh; người thuận đạo lý nói: Vô thường, khổ, bất tịnh, vô ngã, cho nên thế gian sinh ra tranh luận.

Thiện nam tử! Tất cả phàm phu đều thuận theo thế gian, còn người thuận theo đạo lý thì ngược lại với thế gian, cho nên thế gian thường sanh tranh luận. Tất cả phàm phu đều chấp uẩn, xứ, giới, còn người thuận đạo lý thì nói tất cả pháp đều không có chấp trước, cho nên thế gian phát khởi tranh luận.

Thiện nam tử! Tất cả phàm phu thuận theo đời thì không thực hành đạo lý, còn người thuận theo đạo lý thì trái với đời.

Bồ Tát Thiện Tư lại hỏi Tối Thắng:

- Vậy hôm nay Thiên vương nên nắm lấy gì?

Tối Thắng đáp:

- Thiện Tư nên biết! Tôi chẳng nắm lấy ngã cũng chẳng nắm lấy pháp.

Thiện Tư lại hỏi:

- Vì sao chẳng nắm?

Tối Thắng đáp:

- Tự tánh ngã là xa lìa. Tự tánh của pháp và hữu tình cũng là xa lìa. Các sự xa lìa này cũng bất khả đắc.

Tự tánh quá khứ là xa lìa. Tự tánh vị lai, hiện tại cũng là xa lìa. Các sự xa lìa này đều bất khả đắc.

Tự tánh chư Phật chẳng phải xa lìa, tự tánh chư Phật chẳng phải không xa lìa. Tự tánh quốc độ chư Phật chẳng phải xa lìa. Tự tánh của quốc độ chư Phật chẳng phải không xa lìa.

Tự tánh các pháp chẳng phải xa lìa, tự tánh các pháp chẳng phải không xa lìa. Thiện Tư nên biết! Hành được như vậy gọi là thuận chánh lý. Không có pháp để nắm, không nắm mới có thể hộ trì chánh pháp.

Bồ Tát Thiện Tư khen Thiên vương Tối Thắng:

- Hay thay! Đại sĩ chính là người có thể thuyết Bát Nhã thâm sâu này, không chấp, không đắm, không văn, không tự, diệt hý luận, lìa phân biệt và pháp bị phân biệt.

 

(Sao gọi là không phân biệt?)

 

Bấy giờ, trong chúng có một Thiên tử tên là Hiền Đức, từ tòa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quì chấm đất, chắp tay cung kính thưa với Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thiên vương Tối Thắng đã nói không có sự phân biệt, đó là pháp nào?

Phật bảo Hiền Đức:

- Thiên vương nên biết! Không có phân biệt ấy chính là pháp tịch tĩnh. Vì sao? Vì được hay mất đều bất khả đắc, chẳng sanh chẳng diệt, lìa ngã và ngã sở. Như vậy, gọi là pháp không phân biệt. Nếu đại Bồ Tát  quán như thế ấy, năng hộ được Chánh pháp, chẳng thấy pháp năng hộ và sở hộ.

Khi nói pháp này mười ngàn Bí sô tâm được giải thoát, hai ngàn Thiên tử xa lìa trần cấu, phát sinh pháp nhãn thanh tịnh.

Bồ Tát Thiện Tư hỏi Thiên vương Tối Thắng:

- Những biện tài nào có thể thuyết pháp thâm sâu như thế?

Tối Thắng đáp:

- Bậc không còn tất cả tập khí phiền não, đã đạt được biện tài thì có thể nói pháp thâm sâu này. Đạo ngoài ngôn ngữ, không thể gọi tên, tuyên thuyết Đệ nhất nghĩa trí, biện tài như vậy mới có thể nói được pháp thậm thâm này.

Bồ Tát Thiện Tư hỏi Thiên tử Hiền Đức:

- Vì sao trong pháp không sanh đem biện tài mà nói?

Thiên tử Hiền Đức đáp:

- Đại Bồ Tát nếu là kẻ chẳng trụ pháp không sanh không diệt, thời có biện tài nói pháp sâu thẳm(1). Vì sao? Xa lìa hý luận, chẳng thấy sở duyên, chẳng thấy năng duyên, tâm không chỗ trụ, vậy có thể nói. Chẳng trụ ngã pháp, chẳng trụ đây kia, chỉ trụ Đệ nhất nghĩa đế thanh tịnh, cho nên có thể nói.

Bồ Tát Thiện Tư liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật là kỳ lạ.Thiên tử Hiền Đức thật là hiếm có, chính Ngài mới có thể thông suốt pháp thậm thâm, biện tài vô tận.

Phật bảo Thiện Tư:

- Thiên Tử Hiền Đức từ chỗ Phật Bất Động của thế giới Diệu Hỷ, mà đến thế giới Kham Nhẫn này nghe Bát nhã Ba la mật thâm sâu. Các ông nên biết! Thiên tử Hiền Đức đã ở vô lượng trăm ngàn ức kiếp tu tập môn Đà la ni hiếm có, nhiều kiếp thuyết pháp cũng chẳng cùng tận.

 

(Thế nào là Đà la ni Chư pháp bất nhập?)

 

Bồ Tát Thiện Tư lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Sao gọi là môn Đà la ni hiếm có?

Phật dạy:

- Thiện Tư! Đấy gọi là Đà la ni Chư pháp bất nhập. Môn Đà la ni vượt qua các văn tự, nói không thể nhập, tâm không thể vào, các pháp nội ngoại đều bất khả đắc.

Thiện Tư nên biết! không có pháp nào có thể vào được pháp này nên gọi là Đà la ni Chư pháp bất nhập. Vì sao? Pháp đây bình đẳng không cao không thấp, không có vào ra, không một văn tự từ ngoài mà vào, không một văn tự từ trong mà ra, không một văn tự trụ trong pháp đây, cũng không văn tự chung thấy nhau được, cũng chẳng phân biệt pháp và phi pháp, các văn tự này nói cũng không giảm, chẳng nói cũng không tăng, từ xưa đến nay trọn không khởi tác và hoại diệt được.

Thiện Tư nên biết! Giống như các văn tự, tâm cũng như vậy. Giống như tâm, tất cả pháp cũng như thế. Vì sao? Vì pháp lìa ngôn ngữ, cũng lìa nghĩ lường, từ xưa đến nay không sanh không diệt, nên không vào ra. Đó gọi là Đà la ni Chư pháp bất nhập. Nếu kẻ thông suốt được pháp môn đây, biện tài vô tận. Vì sao? Vì thông đạt Pháp không đứt đoạn, không cùng tận. Người có thể vào hư không tức có thể vào cửa Đà la ni này.

Thiện Tư nên biết! Nếu đại Bồ Tát  thông suốt được môn Đà la ni này, tâm được thanh tịnh, thân ngữ cũng thế, sự tu hành thuận theo lý Bát Nhã vững chắc thì các quân ma không thể quấy nhiễu. Tất cả ngoại đạo chẳng dám đối diện, các nghiệp phiền não làm gì hoại được, thần lực vững vàng, tâm lìa sự khiếp nhược, hễ có thuyết giảng thì biện tài vô tận, có thể tuyên thuyết các môn Thánh đế thậm thâm vi diệu. Trí tuệ đa văn tựa như biển cả. An trú tam muội ví như núi Diệu Cao, như sư tử chúa giữa chúng không sợ. Pháp thế gian chẳng nhiễm, giống như hoa sen trong sạch. Lợi ích chúng sanh ví như đất liền; tẩy trừ cấu uế ví như nước lớn. Thành thục thế gian sánh với các lửa dữ. Tăng trưởng pháp lành đồng như gió mạnh. Mát mẻ vui lòng như ánh sáng hiền hòa của mặt trăng. Thường phá đi những sự tối tăm như ánh sáng mặt trời. Phá dẹp phiền não oán hại như dũng sĩ oai hùng. Tâm tánh điều phục như voi chúa lớn. Thường vang sấm pháp dụ như rồng lớn. Mưa pháp rưới khắp ví như đám mây lớn. Như đại lương y chữa bệnh phiền não, giống như đại quốc vương khéo ngự trị thế gian. Như Tứ Thiên vương ủng hộ hữu tình và hộ trì chánh pháp. Như trời Đế Thích giàu sang hơn hết, đối với trong trời, người. Tâm được tự tại, ví như Đại phạm vương, Tự tại vương, dẫn dắt thế giới Ta bà. Thân không ngăn ngại, như chim Ca lâu la. Chỉ dạy hữu tình, như người cha của thế gian; có thể ban báu pháp, giống như Tỳ sa môn vương có thể ban các báu. Được trang nghiêm bằng công đức, trí tuệ; hữu tình nhìn thấy, không ai không lợi ích. Được chư Phật Thế Tôn khen ngợi, các trời, rồng v.v... cùng nhau ủng hộ.

Thiện Tư nên biết! Các đại Bồ Tát nếu đắc môn Đà la ni này liền được tự tại, làm lợi ích hữu tình, phương tiện thuyết pháp chẳng cùng tận, tâm không mỏi mệt, chẳng màng lợi dưỡng tiếng khen:

Pháp thí bình đẳng không có bỏn sẻn, ganh tị.

Thọ trì tịnh giới, 3 nghiệp không lỗi.

An nhẫn thanh tịnh lìa các sự giận dỗi, bực bội.

Tinh tấn thanh tịnh làm việc thành tựu.

Tĩnh lự thanh tịnh khéo léo điều phục tâm.

Trí Bát Nhã thanh tịnh vĩnh viễn không nghi ngờ.

Đủ bốn Vô lượng như Đại Phạm vương thường tu hành các đẳng trì, đẳng chí một cách khéo léo, vào ra tự tại, hơn hẳn các thế gian, tu nhân Đại Giác đủ các phước tuệ, nhận lãnh ngôi quán đỉnh được tự tại lớn.

Khi Phật thuyết môn Tổng trì này, trong chúng có sáu vạn bốn ngàn Bồ Tát được Bất thối chuyển, ba vạn Bồ Tát được Vô sanh nhẫn. Hai vạn trời người xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh. Vô lượng, vô biên trời, người v.v... đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.

 

Thích nghĩa:

(1). “Đại Bồ Tát nếu là kẻ chẳng trụ pháp không sanh không diệt, thời có biện tài nói pháp sâu thẳm”. Câu này dịch khó hiểu.

Có trụ là có dính mắc, nên tâm không còn tự do trong tư tưởng hay hành động nữa nhất là trụ trong sanh diệt, đoạn thường, khứ lai… Đó là lưỡng nguyên tánh. Pháp Phật là bất nhị pháp môn. Nên câu Kinh trên có thể hiểu “nếu là kẻ trụ pháp sanh diệt thời không có biện tài nói pháp thẳm sâu”.

 

Lược giải:

 

Giáo pháp ở đây nhấn mạnh về các pháp nếu không sanh thì cũng không diệt, dù Như Lai có xuất hiện hay không xuất hiện ở thế gian này tánh tướng của các pháp vẫn thường trụ. Đó là giáo lý bí mật của tất cả chư Như Lai. Thâm ngộ các pháp chẳng sanh chẳng diệt mà Đại Bát Nhã thường gọi là Không hay Bản tánh không thì sẽ thấy đâu đâu cũng là đạo, đâu đâu cũng là chơn như, pháp giới, thật tế...

Năm Hội trước đây Phật thường nói các pháp là giả thi thiết, các pháp là như huyễn như mộng, các pháp là trì độn vô tri, là không, là như như, là bình đẳng, và bình đẳng nên nói là thanh tịnh. Đó là một chuỗi dài tri nhận của Phật đối với bản tánh các pháp mà Phật bày tỏ trong toàn bộ Đại Bát Nhã. Vì vậy, Phật thú nhận: Vì “các pháp như vậy, nên trong lòng vắng lặng không muốn nói pháp”.

Thắng Thiên Vương thâm nhập được giáo lý đó, nên nói với Bồ Tát Thiện Tư:

... Vì pháp chẳng sanh. Nếu pháp không sanh thì cũng không diệt, tức là giáo lý bí mật của chư Phật. Diệu lý như vậy thì Như Lai ra đời, hoặc không ra đời, tánh tướng vẫn vắng lặng gọi là chơn như, cũng gọi là pháp giới, còn gọi là thật tế, thuận theo nhân duyên mà chẳng chống trái, đó là chánh pháp. Tánh nó thường trú vĩnh viễn không ẩn mất”.

 

Pháp thoại giữa Thắng Thiên Vương và Bồ Tát Thiện Tư cho chúng ta thấy đâu đâu cũng là đạo lý. Thắng Thiên Vương bảo:

- “Thiện nam tử! Nếu không trái nghịch với tất cả pháp, thì gọi là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì không có tranh luận và không trái đạo lý, nên gọi là hộ trì chánh pháp.

Lại hỏi:

- Thế nào là không trái với đạo lý?

Đáp:

- Nếu thuận theo văn tự là không trái đạo lý và không có chỗ để tranh luận thì gọi đó là hộ trì chánh pháp. Vì sao? Vì phàm phu thế gian đều chấp trước các kiến, còn người thuận đạo lý thường nói không. Cho nên thế gian sinh ra tranh luận; như vậy phàm phu tham đắm vào pháp , còn người thuận theo đạo lý thì coi thường việc này. Thế gian nói có thường, lạc, ngã, tịnh; người thuận đạo lý nói vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, cho nên thế gian sinh ra tranh luận.

Thiện nam tử! Tất cả phàm phu đều thuận theo thế gian, còn người thuận theo đạo lý thì ngược lại với thế gian, cho nên thế gian thường sanh tranh luận. Tất cả phàm phu đều chấp uẩn, xứ, giới, còn người thuận đạo lý thì nói tất cả pháp đều không có chấp trước, cho nên thế gian phát khởi tranh luận.

Thiện nam tử! Tất cả phàm phu thuận theo đời thì không thực hành đạo lý, còn người thuận theo đạo lý thì trái với đời”.

Người đời thuận theo thế gian nói các pháp có-không, sanh-diệt, đoạn-thường, khứ-lai... Đó là pháp lưỡng nguyên, pháp đối nghịch hai đầu, nên phân biệt chấp đắm mà sanh ra tranh cãi, rồi cuối cùng là buông bỏ hay nắm bắt... Thánh giả trái lại, ngược dòng thế gian vì “không chấp, không đắm, không văn tự, diệt hý luận, lìa phân biệt...” tức không nắm giữ buông bỏ hay nắm bắt nên mới được tự tại.

Đến chỗ này, Phật bảo:

- “Không phân biệt ấy chính là pháp tịch tĩnh. Vì sao? Vì được hay mất đều bất khả đắc, chẳng sanh chẳng diệt, lìa ngã và ngã sở. Như vậy, gọi là pháp không phân biệt. Nếu đại Bồ Tát quán như thế ấy, năng hộ được Chánh pháp, chẳng thấy pháp năng hộ và sở hộ”.

Tất cả pháp phơi bày trước mắt bình dị tịch tĩnh, nhưng mấy ai thấy dù có chỉ cho thấy, nói cho nghe, chứng cho biết nhưng ngoan cố tranh cãi, giận hờn. Vì sao? Vì ngã và ngã kiến tạo thành thân kiến, biên kiến, kiến thủ quá sâu đậm nên theo dòng thế gian mà phải chịu luân chuyển.

 

Trong phẩm này có dạy “phương pháp để thuyết pháp”, thoáng đọc qua tưởng chừng như “nghịch đảo”. Nhưng thuật thuyết pháp ở đây thật sâu kín:

- “Đại Bồ Tát nếu là kẻ chẳng trụ pháp không sanh không diệt, thời có biện tài nói pháp sâu thẳm. Vì sao? Xa lìa hý luận, chẳng thấy sở duyên, chẳng thấy năng duyên, tâm không chỗ trụ, vậy có thể nói. Chẳng trụ ngã pháp, chẳng trụ đây kia, chỉ trụ Đệ nhất nghĩa đế thanh tịnh, cho nên có thể nói”.

Không thấy năng duyên, không thấy sở duyên thì tâm không còn chỗ bám. Trụ đệ nhất nghĩa đế thì không thấy mình người, không thấy ngã pháp tức không còn phân biệt. Nếu không phân biệt thì không chấp. Do công năng vô chấp mà được tự tại vô ngại. Vì vô ngại nên có biện tài vô tận. Thuyết pháp như vậy là thanh tịnh không gì bằng.

 

Trước khi chấm dứt phẩm này, xin các đạo hữu thẩm định câu nói sau đây: “Tất cả phàm phu đều thuận theo dòng thế gian, còn người thuận theo đạo lý thì ngược lại với thế gian”. Có phải như vậy không./.

 

---o0o---

 

 

 

 

 

 

 

13. PHẨM “ĐÀ LA NI”(1).

 

Giữa quyển 572, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương phẩm 12, “Đà La Ni”, Kinh TTVBN)

 

Tóm lược:

  

Bấy giờ, đại Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chấp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn, thật kỳ lạ! Như Lai đã nói: Bồ Tát được Đà la ni Chư pháp bất nhập này, thành tựu công đức vô lượng vô biên(2).

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Công đức như thế, giả sử Như Lai nói trăm ngàn năm cũng chưa hết.

Khi ấy, trong chúng có vị Bồ Tát tên là Tịch Tĩnh Tuệ liền thưa với đại Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Nếu đại Bồ Tát chứng được môn Đà la ni này sẽ được đức Phật Thế Tôn khen ngợi. Bồ Tát ấy được lợi lớn hoàn toàn, tự hành, hóa độ đều chẳng luống uổng.

Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi bảo Bồ Tát Tịch Tĩnh Tuệ:

- Thiện nam tử! Trong thắng nghĩa đế không pháp nào đáng khen vì không sắc không tướng. Không sắc không tướng thì có gì đáng khen? Vì không có gì đáng khen nên không có cái để vui mừng.

Bồ Tát Tịch Tĩnh Tuệ lại thưa:

- Tôi nghe trong Khế Kinh, Như Lai nói: Tự tánh các pháp không có ngã, ngã sở, không thể làm cho vui cũng không thể làm cho giận. Pháp bình đẳng này các Bồ Tát cần nên học. Thí như đại địa dựa vào Thủy luân, nếu đào ao giếng thì được nước để dùng. Những kẻ không đào không do đâu mà có nước. Như vậy, cảnh giới Thánh trí bình đẳng cùng khắp tất cả pháp. Nếu ai siêng năng tu Bát Nhã liền được chứng đắc, còn người chẳng tu làm sao chứng được. Thế nên Bồ Tát mong cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thì không nên biếng nhác. Nếu siêng năng tinh tấn như đã nói thì cảnh bình đẳng của pháp sẽ hiện ra trước mắt. Như người mù bẩm sanh không thể thấy màu sắc, hữu tình cũng vậy, bị phiền não che mờ thì không thể thấy pháp bình đẳng. Như người có mắt nếu không có ánh sáng bên ngoài thì không thể thấy hoàn toàn màu sắc, hình tượng đã có.

Cũng vậy, người tu hành tuy có trí tuệ nhưng không có bạn tốt thì không thể thấy pháp. Còn như người có thiên nhãn không nhờ ánh sáng ngoài, tự họ vẫn thấy được sắc. Cũng vậy, Bồ Tát nào dự vào dòng pháp thì tự nhiên thắng tiến. Ví như ở thế gian, thai nhi dần dần tăng trưởng nhưng chẳng tự thấy. Cũng vậy, những Bồ Tát siêng năng tinh tấn thì các hạnh tăng trưởng dần, dù chẳng tự thấy mà được thành tựu tất cả Phật pháp. Như trong núi Tuyết có cây thuốc ra quả mà thân cây, cành nhánh chẳng khô chẳng gãy.   

Cũng vậy, Bồ Tát siêng tu tinh tấn được bao nhiêu thắng hạnh đều không lui mất. Như vua Chuyển luân xuất hiện ở đời đầy đủ bảy báu. Cũng vậy, Bồ Tát phát tâm Bồ đề đầy đủ bảy pháp Bảo, là bố thí, tịnh giới, an nhẫn, cho đến Bát nhã Ba la mật, phương tiện thiện xảo. Như vua Chuyển luân dạo khắp bốn châu, tâm trải bình đẳng đến các loài hữu tình.

Cũng vậy, Bồ Tát đem bốn Nhiếp sự làm lợi ích cho hữu tình với tâm luôn bình đẳng. Như vua Chuyển luân dù ở chỗ nào cũng không có sự tranh cãi, kiện tụng. Bồ Tát như thật thuyết pháp cũng không có sự tranh luận. Ví như tam thiên đại thiên thế giới lúc mới tạo thành liền có núi Diệu Cao và biển lớn.

Cũng vậy, Bồ Tát khi mới phát tâm Vô thượng Bồ đề liền có Bát Nhã và tâm đại bi. Thí như lúc mặt trời mọc, những chỗ núi cao được ánh sáng chiếu trước. Bồ Tát cũng thế, nếu được đuốc Bát Nhã thì các Bồ Tát có hạnh thanh cao, các căn thuần thục sẽ được ánh sáng chiếu trước. Ví như đại địa có thể gánh vác tất cả cỏ, cây, hoa quả, thuốc thang thảy đều bình đẳng. Bồ Tát cũng vậy, chứng được môn Đà la ni này đối với các hữu tình tâm đều bình đẳng. (Q.572, ĐBN)

Bấy giờ, đức Phật khen ngợi Bồ Tát Tịch Tĩnh Tuệ:

- Hay thay! Hay thay! Như lời ngươi nói: Các đại Bồ Tát  nếu đắc môn Đà la ni như vậy thì có nói ra lời gì dù một câu một chữ cũng đều là lời Phật. Những lời đã nói ra này đều xa lìa sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Vì sao? Vì pháp được nói ra đây chẳng phải thế tục, nên vô cùng vô tận, có thể làm cho tất cả thân tâm nhẹ nhàng thoải mái. Giả sử được nói trước trăm ngàn đức Phật cũng chẳng khiếp nhược. Vì sao? Vì đại Bồ Tát này được Phật gia trì, tâm không có sự chấp đắm, nghĩa là không đắm ngã, không đắm hữu tình, không đắm các pháp. Do đó, chứng được pháp Như thanh tịnh, pháp giới thanh tịnh, thật tế thanh tịnh, được pháp vô tận, văn tự vô tận, biện tài vô tận. Ngay khi ấy phát sanh sự hoan hỷ thù thắng vì được diệu tuệ, vì được diệu trí, vì không còn lưới nghi.

Lúc Phật nói môn Tổng trì này, có tám ngàn Bồ Tát đắc các pháp như vậy, thâm nhập môn Đà la ni. Lại có một vạn hai ngàn Bồ Tát đắc Bất thối chuyển. Năm ngàn Bồ Tát đắc Vô sanh nhẫn. Một vạn sáu ngàn chúng Thiên tử xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh, vô lượng, vô biên các loài hữu tình đều phát tâm Vô Thượng Bồ đề.

Bấy giờ, Phật bảo Bồ Tát Tịch Tĩnh Tuệ:

- Đà la ni này có thể chinh phục các ma, đánh dẹp ngoại đạo, phá hoại người ganh ghét pháp, thắp đèn Bát Nhã, dập tắt lửa phiền não, ủng hộ người thuyết pháp đưa họ đến Niết bàn; điều phục nội tâm, khéo léo giáo hóa chúng ngoại; dung nghi nghiêm chỉnh, người thấy vui mừng. Vì người chánh hạnh, bình đẳng thuyết pháp. Như thật quán sát căn tánh hữu tình, truyền pháp đúng lúc không trước, không sau.

Khi Phật nói các công đức như thế, trong tam thiên đại thiên thế giới, tất cả biển cả, núi chúa Diệu Cao, đất liền, các núi khác v.v... đều chấn động. Bấy giờ, trời rưới hoa Vi Diệu Âm, hoa đại Vi Diệu Âm, hoa Diệu Linh Thụy, hoa đại Diệu Linh Thụy, hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng, hoa Ca mạt la. Trong không trung, chư Thiên trổi các kỹ nhạc.

Đức Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Tịch Tĩnh Tuệ:

- Thiện nam tử! Vô lượng, vô biên, vô số kiếp không thể nghĩ bàn trong quá khứ có đức Phật ra đời tên là Bảo Nguyệt, đầy đủ mười hiệu, nước tên Vô Hủy, kiếp tên Hỷ Tán. Đệ tử Thanh văn ba mươi hai ức. Đệ tử Bồ Tát nhiều vô lượng, vô biên. Nhưng đức Như Lai ấy trước đó không có khổ hạnh và hàng phục ma mà chứng Bồ đề.

Khi ấy, trong chúng kia có một Bồ Tát tên Bảo Công Đức đủ biện tài kỳ diệu, có thể vì hữu tình nói nhiều loại pháp. Bấy giờ, các chúng thỉnh cầu đức Như Lai ấy đừng vào Niết bàn, trụ lâu ở đời. Bảo Công Đức bảo đại chúng:

- Chư Phật Thế Tôn không sanh không diệt, cần gì khuyến thỉnh chớ vào Niết bàn. Nếu hư không ấy vào Niết bàn thì Như Lai mới có thể vào đại Niết bàn. Nếu có Như như, pháp giới, thật tế, cảnh giới bất tư nghì vào Niết bàn thì Như Lai mới có thể vào đại Niết bàn. Vì sao? Vì pháp của Như Lai không thành, không hoại, không nhiễm, không tịnh, chẳng phải thế gian, chẳng phải xuất thế gian, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi; chẳng phải thường, chẳng phải đoạn; giả sử 1 miệng mà có 10 lưỡi, mỗi mỗi lưỡi này lại sanh ra 100 lưỡi, mỗi lưỡi này lại sanh ra 1.000 lưỡi cũng không thể nói Như Lai thành hay hoại, cho đến không thể nói có thường hay đoạn. Vì sao đại chúng lại thỉnh cầu Như Lai trụ lâu ở đời chớ vào Niết bàn?

Khi Bồ Tát Bảo Công Đức nói pháp ấy, có tám vạn sáu ngàn các Bồ Tát được Bất thối chuyển. Bảy ngàn chúng đại Bồ Tát  đều đắc môn Đà la ni và được vô biên công đức: Môn Đà la ni duyệt ý, Đà la ni vô ngại, Đà la ni hoan hỷ, Đà la ni đại bi, Đà la ni nguyệt ái, Đà la ni nguyệt quang, Đà la ni nhật ái, Đà la ni nhật quang, Đà la ni núi chúa Diệu Cao, Đà la ni biển cả sâu rộng, Đà la ni công đức Bảo vương. Ba vạn sáu ngàn đại chúng trời, người xa lìa trần cấu, sanh pháp nhãn thanh tịnh.

Thế Tôn lại bảo Bồ Tát Tịch Tĩnh Tuệ:

- Bảo Công Đức ngày xưa nay chính là ngươi. Do nhân duyên này ngươi mới có thể nói được các loại công đức của môn Đà la ni.

Khi ấy, đại Bồ Tát  Mạn Thù Thất Lợi nói bài tụng:

 

Tổng trì như thuốc hay,

Thường chữa các bệnh mê.

Như cam lộ trời kia,

Người được, thường bất tử.

 

Đại Bồ Tát  Công Đức Hoa Vương lại nói bài tụng:

 

Tổng trì không văn tự,

Văn tự hiển tổng trì.

Nhờ Bát Nhã đại bi,

Rời lời, văn, chữ, thuyết.

 

Bấy giờ, Thiên vương San Đổ Sử Đa liền từ tòa đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Công đức của chư Phật không thể nghĩ bàn. Những điều Phật nói không thể nghĩ bàn. Các đại Bồ Tát đã hành thắng hạnh, đã thuyết diệu pháp không thể nghĩ bàn. Chúng con và các trời nhờ đời trước đã trồng căn lành sâu dày, được gặp Như Lai nghe thuyết diệu pháp thâm sâu như vậy, nên đem vô lượng hương hoa tốt đẹp của trời rải dâng lên cúng dường Như Lai.

Phật bảo Thiên vương:

- Thiên vương nên biết! Những người muốn cúng dường Phật phải tu 3 pháp:

 

Một là phát Bồ đề tâm.

Hai là hộ trì chánh pháp.

Ba là như pháp tu hành.

 

Thiên vương nên biết! Nếu người nào có thể tu học ba pháp này mới được gọi là chơn thật cúng dường Phật. Giả sử Như Lai trụ đời một kiếp, nói về công đức đã đạt được nhờ sự cúng dường này cũng không thể hết. Vì thế Thiên vương! Nếu ai muốn cúng dường đức Phật Thế Tôn mà đủ ba pháp ấy gọi là chơn thật cúng dường.

Thiên vương nên biết! Nếu ai ủng hộ đức Phật dù chỉ là một bài tụng bốn câu, thì tức là ủng hộ chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đã chứng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Vì sao? Vì quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề mà chư Phật Thế Tôn đã chứng là từ pháp sanh. Cúng dường pháp gọi là chơn cúng dường, là sự cúng dường đệ nhất, hơn hết trong các sự cúng dường, sự cúng dường của cải chẳng thể sánh bằng.

Thiên vương nên biết! Ta nhớ về quá khứ vô lượng, vô số kiếp không thể nghĩ bàn, khi tinh tấn siêng năng tu học Bồ Tát đạo, nghe chư Thiên trong hư không nói bài kệ:


Trời, người xa lìa kho báu lớn,

Giặc vua, nước lửa đã mất đi,

Trăm ngàn vạn kiếp khó nghe Pháp,

Được nghe không giữ, mà lại cho.

Tâm đạo là gốc, hóa chúng sanh;

Tu hành như thật, tâm tịch tĩnh.

Tư lợi, lợi tha tâm bình đẳng,

Đây mới gọi chơn cúng dường Phật.

Thiên vương nên biết! Ở quá khứ khi mới nghe bài tụng này ta liền nói cho người khác. Khi ấy, có tám ngàn các loài hữu tình đồng phát tâm Vô thượng Bồ đề. Thế nên Thiên vương dùng pháp cúng dường là tối thắng đệ nhất. Vì sao? Vì Vô thượng Bồ đề của chư Phật từ pháp mà sanh vậy.

 

Thích nghĩa:

(1). Đà la ni (陀羅尼) Phạm: Dhàranì. Cũng gọi Đà lân ni. Dịch là Tổng trì, Năng trì... Tức là sức trí tuệ có thể tóm thu, gìn giữ vô lượng Phật pháp không để quên mất. Nói cách khác, Đà la ni là một thuật ghi nhớ. Luận Đại trí độ quyển 5 và Phật địa kinh luận quyển 5 cho rằng, Đà la ni là một phương pháp ghi nhớ, tức là trong một pháp nắm giữ tất cả pháp, trong một lời nắm giữ tất cả lời, trong một nghĩa nắm giữ tất cả nghĩa; do đó, từ sự ghi nhớ một pháp một lời một nghĩa ấy mà có thể liên tưởng đến hết thảy pháp, tóm thu nắm giữ vô lượng Phật pháp không để mất mát. Đà la ni còn có năng lực giữ gìn các pháp lành, ngăn ngừa các pháp ác. Vì Bồ Tát lấy việc lợi tha làm gốc, cần giáo hóa người khác nên phải chứng được Đà la ni, chứng được Đà la ni mới không quên mất vô lượng Phật pháp, nhờ thế, khi ở giữa chỗ đông người mà không sợ hãi, vẫn có thể nói pháp một cách tự do tự tại. Về Đà la ni do Bồ Tát chứng đắc, các kinh luận bàn đến rất nhiều. Đời sau, vì hình thức Đà la ni giống như chú tụng nên lẫn lộn chú với Đà la ni, rồi gọi chung chú là Đà la ni. Tuy nhiên, thông thường vẫn căn cứ theo câu chữ dài hay ngắn để phân biệt: Câu dài là Đà la ni, câu ngắn là chân ngôn (chú), một hoặc hai chữ là chủng tử. Theo luận Đại trí độ quyển 5, quyển 28, thì Đà la ni có bốn loại: 1. Văn trì đà la ni: Người được Đà la ni đã nghe các pháp thì không quên nữa. 2. Phân biệt trí đà la ni: Có năng lực phân biệt tất cả việc tà, chính, tốt, xấu. 3. Nhập âm thanh đà la ni: Nghe tất cả âm thanh ngôn ngữ đều vui vẻ, không tức giận. 4. Tự nhập môn đà la ni: Nghe 42 chữ cái như a, la, ba, giá, na v.v... có thể thấu suốt thực tướng các pháp, bởi vì 42 chữ cái Tất đàm tóm thu tất cả ngôn ngữ. Ba loại Đà la ni trước (1, 2, 3) gọi là Tam đà la ni. Luận Du già sư địa quyển 45 nêu ra bốn loại Đà la ni: 1. Pháp đà la ni: Có khả năng ghi nhớ các câu kinh không quên. 2. Nghĩa đà la ni: Có thể hiểu nghĩa kinh không quên. 3. Chú đà la ni: Nương vào sức thiền định mà phát khởi chú thuật để tiêu trừ tai ách cho chúng sanh. 4. Nhẫn đà la ni: Thông suốt thực tướng các pháp vốn lìa nói năng, an trụ nơi pháp tính không quên mất. Về phương pháp tu chứng bốn Đà la ni trên đây đã được nói rõ trong Đại thừa nghĩa chương quyển 11. Phỏng theo Phật Quang Tự điển.

(2). Đoạn Kinh ở phẩm “Hiện Hóa”, nói: “Vì pháp lìa ngôn ngữ, cũng lìa nghĩ lường, từ xưa đến nay không sanh không diệt, nên không vào ra. Đó gọi là Đà la ni Chư pháp bất nhập”.

 

Lược giải:

 

Trong phẩm này Phật có giới thiệu một loại Đà la ni tên là “Đà la ni Chư pháp bất nhập”, thành tựu công đức vô lượng vô biên mà theo Như Lai: “Giả sử nói trăm ngàn năm cũng chưa hết”. Tu chưa tới, chỉ biết như vậy thì hay như vậy, đừng bàn ra tán vào hay khen chê mà mang vạ! Chúng tôi không biết nhiều về Đà la ni, nên không lược giải phẩm này, các đạo hữu hãy tự học tự chứng.

 

Về sự diệu dụng và thần bí của pháp môn này, chúng ta có thể lấy câu Phật bảo Bồ Tát Tịch Tĩnh Tuệ làm châm ngôn:

- “Đà la ni này có thể chinh phục các ma, đánh dẹp ngoại đạo, phá hoại người ganh ghét pháp, thắp đèn Bát Nhã, dập tắt lửa phiền não, ủng hộ người thuyết pháp đưa họ vào Niết bàn; điều phục nội tâm, khéo léo giáo hóa chúng ngoại; dung nghi nghiêm chỉnh, người thấy vui mừng. Vì người chánh hạnh, bình đẳng thuyết pháp. Như thật quán sát căn tánh hữu tình, truyền pháp đúng lúc không trước, không sau”./.

 

---o0o---

 

 

 

 

 

14. PHẨM “KHUYÊN RĂN”

 

Cuối Q.572 đến đầu Q.573, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương phẩm 13 “Khuyên Răn”, Kinh TTVBN)

  

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay cung kính thưa Phật:

- Như Lai đã nói Bát Nhã thâm sâu. Vậy trong đời vị lai khi chánh pháp sắp diệt, và trong giai đoạn chuyển tiếp có hữu tình nào có thể tin nhận được không? Nếu các thiện nam, thiện nữ nghe thuyết Kinh này tin nhận không hủy báng, thì những người như vậy được công đức gì?

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Trong đời vị lai khi chánh pháp sắp diệt, trong giai đoạn chuyển tiếp, có những thiện nam, thiện nữ đã từng ở chỗ của vô lượng, vô biên đức Phật tu hành tịnh giới, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật, là Phật tử chơn chánh, có thể tin Kinh này, cho đến công đức đạt được không thể tính kể. Các pháp thắng thiện đều từ Bát Nhã sanh. Nếu có người tin nhận không hủy báng, thì nay Ta sẽ nói ví dụ cho ngươi.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Châu Thiệm bộ này chu vi bảy ngàn do tuần, phía Bắc rộng, Nam hẹp, hình giống như chiếc thùng xe. Giả sử người ở châu Thiệm bộ này toàn là Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng cây v.v… nhiều không có chỗ trống; trong suốt tuổi thọ dài ngắn của Thánh chúng kia, có những thiện nam, thiện nữ đem các thứ thượng diệu ở thế gian như: Đồ ăn, nước uống, y phục, giường nằm, thuốc thang v.v... dâng lên cúng dường với tâm thanh tịnh; sau khi Thánh chúng kia nhập Niết bàn, họ thâu xá lợi, xây dựng bảo tháp, trang trí cúng dường; hoặc đem bảy báu đầy cả châu Thiệm bộ chứa đến Phạm cung, đem hết bảy báu ấy dâng cúng đến từng Thánh chúng. Suốt cả ngày đêm cúng dường liên tục không gián đoạn, cho đến hết tuổi thọ của mình.

Mạn Thù Thất Lợi! Ý ngươi thế nào? Do nhân duyên này mà các thiện nam, thiện nữ đây được phước nhiều chăng?

Mạn Thù Thất Lợi liền thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều!

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Nếu thiện nam, thiện nữ đối với Kinh này thường tin nhận không hủy báng, thì sẽ được phước nhiều hơn phước bố thí trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô cực lần.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Châu Đông Thắng Thần, chu vi tám ngàn do tuần, hình như bán nguyệt. Giả sử người ở châu Đông Thắng Thần toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng cây v.v... nhiều không có chỗ trống; trong suốt tuổi thọ dài ngắn của Thánh chúng kia, có những thiện nam, thiện nữ đem các thứ thượng diệu ở thế gian: Đồ ăn, uống, y phục, thuốc thang v.v... dâng lên cúng dường với tâm thanh tịnh; sau khi Thánh chúng kia nhập Niết bàn, họ thâu lấy xá lợi, xây dựng bảo tháp cúng dường trang nghiêm; hoặc đem bảy báu chứa đầy châu Đông Thắng Thần đến Phạm cung, đem hết bảy báu ấy dâng cúng từng Thánh chúng. Suốt cả ngày đêm cúng dường liên tục không gián đoạn, cho đến hết tuổi thọ của mình.

Mạn Thù Thất Lợi! Ý ngươi thế nào? Do nhân duyên này mà các thiện nam, thiện nữ đây được phước nhiều chăng?

Mạn Thù Thất Lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Nếu các thiện nam, thiện nữ đối với Kinh này thường tin nhận không hủy báng, thì sẽ được phước hơn phước bố thí trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô cực lần.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Châu Tây Ngưu Hóa, chu vi chín ngàn do tuần, hình như trăng tròn. Giả sử người ở châu Tây Ngưu Hóa toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng cây v.v... nhiều không có chỗ trống; trong suốt tuổi thọ dài ngắn của Thánh chúng kia, có những thiện nam, thiện nữ đem các thứ thượng diệu của thế gian: Đồ ăn, nước uống, y phục, đồ nằm, thuốc thang v.v... dâng lên cúng dường với tâm thanh tịnh; sau khi Thánh chúng kia nhập Niết bàn, họ thâu lấy xá lợi, xây tháp cúng dường trang nghiêm; hoặc đem bảy báu chứa đầy châu Tây Ngưu Hóa cho đến Phạm cung, đem hết bảy báu ấy cúng dường cho từng Thánh chúng. Suốt cả ngày đêm cúng dường liên tục không gián đoạn, cho đến hết tuổi thọ của mình.

Mạn Thù Thất Lợi! Ý ngươi thế nào? Do nhân duyên này mà các thiện nam, thiện nữ đây được phước nhiều chăng?

Mạn Thù Thất Lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Nếu đối với Kinh này, các thiện nam, thiện nữ thường tin nhận, không hủy báng thì sẽ được phước hơn phước bố thí trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô cực lần. (Q.572, ĐBN)

 

Mạn Thù Thất Lợi! Châu Bắc Câu lô, chu vi mười ngàn do tuần, hình nó vuông thẳng. Giả sử châu Bắc Câu lô toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán và Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng cây v.v... nhiều không có chỗ trống; trong suốt tuổi thọ dài ngắn của Thánh chúng kia, có những thiện nam, thiện nữ đem các thứ thượng diệu ở thế gian: Đồ ăn, nước uống, y phục, giường nằm, thuốc thang v.v... dâng lên cúng dường với tâm thanh tịnh; sau khi Thánh chúng kia nhập Niết bàn, họ thâu xá lợi, xây tháp cúng dường trang nghiêm; hoặc đem bảy báu chứa đầy châu Bắc Câu lô cho đến Phạm cung, đem hết bảy báu ấy cúng dường cho từng Thánh chúng. Suốt cả ngày đêm cúng dường liên tục không gián đoạn, cho đến hết tuổi thọ của mình.

Mạn Thù Thất Lợi! Ý ngươi thế nào? Do nhân duyên này mà các thiện nam, thiện nữ đây được phước nhiều chăng?

Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều.

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Đối với Kinh này, nếu các thiện nam, thiện nữ thường tin nhận, không hủy báng thì sẽ được phước hơn phước bố thí trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô cực lần.


Quyển 573

 

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Giả sử nghiền nát ba ngàn đại thiên thế giới Kham Nhẫn này thành cực vi, mỗi cực vi là một Thánh giả, có những thiện nam, thiện nữ với tâm thanh tịnh đem các thứ thượng diệu ở thế gian: Đồ ăn, nước uống, y phục, giường nằm, thuốc thang v.v... bố thí cúng dường cho suốt cả cuộc đời dài ngắn của Thánh chúng kia; sau khi Thánh chúng nhập Niết bàn, những thiện nam, thiện nữ ấy thâu hết xá lợi, xây dựng bảo tháp, trang trí cúng dường, hoặc đem bảy báu đầy như số cực vi trong ba ngàn đại thiên thế giới đã nói ở trước, chứa đến trời Sắc cứu cánh, rồi đem hết bảy báu đó dâng cúng từng vị Thánh giả kia, suốt cả ngày đêm cúng dường liên tục không gián đoạn, cho đến hết tuổi thọ của mình.

Mạn Thù Thất Lợi! Ý ngươi thế nào? Do nhân duyên này mà các thiện nam, thiện nữ đó được phước nhiều chăng?

Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Bạch Thiện Thệ! Rất nhiều. Phước bố thí nói trước còn khó nghĩ bàn, huống gì số phước ở đây đạt được.

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam, thiện nữ nào thọ trì Kinh này, rồi giảng nói truyền bá sẽ được phước hơn phước bố thí trước gấp trăm ngàn lần, cho đến vô số lần.

Mạn Thù Thất Lợi! Đối với công đức này, nếu không hồi hướng cầu quả Bồ đề của Phật thì phải trải qua nhiều kiếp như vi trần làm vua trời Tha hóa tự tại. Lại trải qua rất nhiều số kiếp như vi trần làm vua trời Lạc biến hóa. Lại trải qua rất nhiều kiếp như vi trần làm vua trời Đổ sử đa. Lại trải qua rất nhiều kiếp như vi trần làm vua trời Dạ ma. Lại trải qua rất nhiều kiếp như vi trần làm vua trời Đế Thích, huống là vua Chuyển luân. Nếu không hồi hướng Bồ đề thì chẳng được gì cả, bằng ngược lại nếu đem sự hồi hướng ấy cầu Nhất thiết trí, thì có thể thành tựu phương tiện của Bát Nhã, sẽ chứng Vô Thượng Bồ đề.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Giả sử người khắp châu Thiệm bộ này toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng cây v.v… không còn chỗ trống; có người hung ác nổi lên giận dữ giết hại toàn bộ Thánh giả ấy. Mạn Thù Thất Lợi! Ý ngươi thế nào? Do việc này, người kia mắc tội nhiều không?

Mạn Thù Thất Lợi bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Giết một vị Thánh còn đọa vào đại địa ngục Vô gián, chịu khổ một kiếp, huống chi giết hại chừng ấy Thánh giả. Người ấy mắc tội không thể kể hết.

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Người nào hủy báng Kinh điển này, tội ấy còn nặng hơn trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Giả sử người khắp châu Đông Thắng Thần toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng cây v.v… không còn chỗ trống; có người hung bạo nổi lên giận dữ giết hại toàn bộ Thánh giả ấy. Mạn Thù Thất Lợi! Ý ngươi thế nào? Do việc này, người kia mắc tội nhiều không?

Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Giết một vị Thánh còn đọa vào đại địa ngục Vô gián, chịu khổ suốt một kiếp, huống chi giết hại chừng ấy Thánh giả. Người kia mắc tội không thể kể hết.

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Người nào hủy báng Kinh điển này, tội ấy nặng hơn trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Giả sử người khắp châu Tây Ngưu Hóa toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng cây v.v… không còn chỗ trống; có người hung bạo nổi lên giận dữ giết hại toàn bộ Thánh giả ấy. Mạn Thù Thất Lợi! Ý ông thế nào? Do việc này, người kia mắc tội nhiều không?

Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Giết một vị Thánh còn đọa vào đại địa ngục Vô gián, chịu khổ suốt một kiếp, huống chi giết hại chừng ấy Thánh giả. Người kia mắc tội không thể kể hết.

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Người nào hủy báng Kinh điển này, tội ấy còn nặng hơn trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Giả sử người khắp châu Bắc Câu lô toàn là bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác, đông như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng cây v.v… không còn chỗ trống; có người hung ác nổi lên giận dữ giết hại toàn bộ Thánh giả ấy. Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi! Ý ngươi thế nào? Do việc này, người kia mắc tội nhiều không?

Mạn Thù Thất Lợi liền bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Giết một vị Thánh còn đọa vào đại đại ngục Vô gián, chịu khổ suốt một kiếp, huống chi giết hại chừng ấy Thánh giả. Người kia mắc tội không thể kể hết.

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Người nào hủy báng Kinh điển này, tội ấy còn nặng hơn trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Giả sử nghiền nát bốn đại châu này thành cực vi, mỗi cực vi là một đức Phật; có một chúng sanh tà kiến độc ác, khởi tâm hung ác muốn giết hết số đức Phật ấy, cướp đoạt tất cả của cải pháp tài, phá diệt vua pháp và thuốc pháp của thế gian. Mạn Thù Thất Lợi! Ý ngươi thế nào? Chúng sanh hung ác kia mắc tội có nhiều không?

Mạn Thù Thất Lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều. Chúng sanh kia mắc tội vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn, không thể kể hết. Đối với việc đó con còn chẳng muốn nghe huống hồ có thể nói về tội lỗi đó nhiều hay ít. Nếu hại một đức Phật còn đọa vào đại địa ngục Vô gián, chịu khổ nhiều kiếp, huống chi giết nhiều chư Phật Thế Tôn như vậy. Chúng sanh này chắc chắn phải chịu khổ trong đại địa ngục Vô gián không hẹn ngày ra.

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Nếu có người hủy báng, cản trở Kinh này, không cho truyền bá rộng rãi, không cho cúng dường, tội này nặng hơn tội trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Giả sử tất cả hữu tình trong ba ngàn đại thiên thế giới đều trải qua trăm ngàn vô số đại kiếp, tu đủ tất cả hạnh của các Bồ Tát, đều chứng được Vô thượng Bồ đề, thì chúng sanh ác kia vì nghiệp ác nặng nề nên vẫn chưa thoát khỏi khổ trong đại địa ngục.

Mạn Thù Thất Lợi! Đối với địa ngục Vô gián ở khắp 10 phương cõi, không có địa ngục nào mà chúng sanh ác kia không trải qua nhiều kiếp chịu khổ, huống hồ các địa ngục, bàng sanh, cõi quỷ. Vì sao? Vì kẻ ngu si hủy hoại mẹ pháp thân của chư Phật trong 10 phương ba đời. Nếu kẻ kia chịu khổ nặng nề trải qua nhiều kiếp như vi trần như nói ở trước, sau ra khỏi ba cảnh giới ác, sanh vào trong loài người mắc bệnh ngặt nghèo, không có thuốc thang nào chữa khỏi. Lại phải trải qua nhiều kiếp như vi trần, vừa ra đời thì không có lưỡi hoặc không có tay v.v...

Mạn Thù Thất Lợi! Ta dùng thần lực trụ đời một kiếp hay hơn một kiếp nói về tội báo của chúng sanh hủy báng, cản trở Kinh này cũng không thể hết. Mạn Thù Thất Lợi! Những người có trí muốn được an lạc ngay trong đời hiện tại và vị lai, chớ nên hủy báng và ngăn cản Kinh này.

 

Lược giải:

 

Phẩm này Phật thuyết làm 2 phần:

 

1. Phần đầu: Phật so sánh tất cả những người trong bốn châu: Châu Thiệm Bộ, Đông Thắng Thần, Tây Ngưu Hóa, Bắc Cô Lô cả đến Tam thiên đại thiên thế giới, cúng dường cho tất cả Thánh chúng nhiều như thóc, lúa, gai, trúc, cỏ, sậy, lau, mía, rừng... trong suốt tuổi thọ cũng không bằng các thiện nam, thiện nữ đối với Kinh điển Bát nhã Ba la mật tin nhận, lại tự mình thọ trì hay trao truyền cho người khác thọ trì thì sẽ được phước hơn phước bố thí của những người bố thí cúng dường trước gấp trăm lần, ngàn lần, trăm ngàn lần cho đến vô cực lần.

 

2. Phần sau: Phật so sánh có chúng sanh nhiều tà kiến khởi tâm hung ác muốn giết hết tất cả Thánh chúng hay số đức Phật ở bốn đại châu, cướp đoạt tất cả của cải pháp tài, phá diệt vua pháp và thuốc pháp của thế gian, tội ấy còn nặng hơn tội vô gián, phải chịu khổ nặng nề trải qua nhiều kiếp như vi trần dù có ra khỏi ba cảnh giới ác, sau được sanh vào cõi người cũng mắc bệnh ngặt nghèo, không có thuốc thang nào chữa khỏi hoặc phải trải qua nhiều kiếp như vi trần, vừa ra đời các căn không trọn vẹn như không có lưỡi hoặc không mắt, không có tay v.v...

 

“Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Nếu có người hủy báng, cản trở Kinh này, không cho truyền bá rộng rãi, không cho cúng dường, tội này nặng hơn tội trước gấp trăm lần, ngàn lần, cho đến vô số lần.

 “Mạn Thù Thất Lợi! Ta dùng thần lực trụ đời một kiếp hay hơn một kiếp nói về tội báo của chúng sanh hủy báng, cản trở Kinh này cũng không thể hết. Những người có trí muốn được an lạc ngay trong đời hiện tại hay vị lai thì chớ nên hủy báng và ngăn cản Kinh này”.

 

Phẩm này không diễn tả đầy đủ phước đức trí tuệ của những người đọc tụng, thọ trì cũng như truyền bá Bát nhã Ba la mật, đồng thời cũng không tả hết quả báo của những ai đã từng hủy báng Bát nhã Ba la mật so với các phẩm “Địa Ngục” của các Hội khác.

Tội này còn hơn tội vô gián sẽ bị lưu đày vào các địa ngục lớn khắp tam thiên đại thiên thế giới. Bọn ác tuệ này phải chịu trừng phạt nặng nề trải qua nhiều kiếp như vi trần, sau đó dù ra khỏi ba cảnh giới ác(địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh)được sanh vào loài người cũng mắc bệnh ngặt nghèo như vừa ra đời phải chịu cảnh mù lòa, thiếu tay, thiếu chân, mất lưỡi v.v... Lại phải trải qua nhiều kiếp như vi trần, bị đời khinh khi, lăng nhục v.v…

Thuyết như thế cũng tạm đủ. Biết như vậy tự răn đừng để rơi vào cảnh đọa đầy trong muôn kiếp, là tốt./.

 

---o0o---

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

15. PHẨM “NHỊ HẠNH”

 

Giữa quyển 573, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương phẩm 14 “Nói Về Hai Hạnh”, Kinh TTVBN)

 

Gợi ý:

Tu Phật phải có đầy đủ ba hạnh: Thiện hạnh, Phạm hạnh và Thánh hạnh. Tu các nghiệp lành như tu thập thiện thì được thiện hạnh. Tu đoạn trừ dâm dục là Phạm hạnh - tức pháp hành của Phạm Thiên. Tu Thiện hạnh và Phạm hạnh viên mãn thì trở thành người đức độ, thác sanh về cõi trời người hưởng nhiều phúc lạc. Nhưng vẫn còn là chúng sanh hạnh, còn chúng sanh tướng. Nếu hết phước đức hay phát sanh một niệm bất giác vẫn bị đọa như các chúng sanh khác. Còn tu nhị hạnh: 1. Thành tựu Bát Nhã, 2. Giáo hóa hữu tình thì gọi là Thánh hạnh. Nhập được Thánh hạnh tức giải thoát hay vào Niết bàn.

Muốn được vào hàng Thánh chúng thì phải tu Thánh hạnh!

 

Tóm lược:  

 

Bấy giờ, Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã thì phải hoàn thành toàn diện Bát nhã Ba la mật. Vì sao? Vì các đại Bồ Tát  có hai loại hạnh: 1. Thành tựu Bát Nhã,  2. Giáo hóa hữu tình.

 

1.(Thế nào là thành tựu Bát Nhã, giáo hóa hữu tình?)

 

Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thế nào là đại Bồ Tát  thành tựu Bát Nhã, giáo hóa hữu tình?

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Đại Bồ Tát  từ khi mới hành Bát Nhã cho đến rốt ráo đều lìa tâm dụng công, thuyết pháp không cùng tận, không gián đoạn, làm cho hữu tình thoát khỏi cảnh giới ác của ba cõi, để họ an trú cảnh giới lành, hoặc giúp họ chứng được Thánh quả Tam thừa.

Mạn Thù Thất Lợi! Đây gọi là các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã, giáo hóa hữu tình. Mạn Thù Thất Lợi! Nếu đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã thành tựu vô biên, vô vi Bát Nhã. Đây gọi là các đại Bồ Tát  tự hành Bát Nhã. Vì sao? Vì hành như vậy có thể viên mãn tất cả công đức.

 

2.(Bồ Tát hành pháp nào để cùng tương ưng với Nhất thiết trí?)

 

Mạn Thù Thất Lợi liền thưa Phật:

- “Bạch Thế Tôn! Các Đại Bồ Tát hành Bát Nhã, tu hành pháp nào để tương ứng với Nhất thiết trí?”

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Nhất thiết trí là pháp chân thật, xa lìa suy lường, vi diệu, không tướng, đạo lý sâu xa, không thể thấy được, khó có thể thông đạt, thường trú tịch tĩnh, trong mát cùng khắp, không có phân biệt, không vướng, không ngăn, tùy thuận lý đạo, không thể nắm bắt, cực kỳ tịch tĩnh; trong tất cả pháp là vô thượng nhất, không gì ngang bằng.

Mạn Thù Thất Lợi! Đó là đại Bồ Tát hành Bát Nhã sẽ cùng Nhất thiết trí tương ưng.

Mạn Thù Thất Lợi lại bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bồ Tát ở cảnh giới nào hành Bát Nhã?

 Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Các đại Bồ Tát quyết định hành sâu Bát Nhã với cảnh giới thâm sâu, cảnh giới rộng lớn, cảnh giới công đức.

Mạn Thù Thất Lợi! Cảnh giới thâm sâu là bản thể vô vi, không thể xa rời, không vướng hai bên, vượt qua các chướng, tự tính thanh tịnh, không thể suy lường, không thể tính biết, không cùng chung với Thanh Văn và Độc giác.

Mạn Thù Thất Lợi! Cảnh giới rộng lớn: Bồ Tát hành Bát Nhã, tất cả công đức của chư Phật Như Lai, hai pháp Bát Nhã và Đại bi là thể, lìa tướng phân biệt, tâm vô công dụng, lợi ích chúng sanh, đều hợp ý họ, không lúc nào tạm bỏ.

Mạn Thù Thất Lợi! Cảnh giới công đức là các đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã tương ứng với tất cả công đức: 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, tùy theo căn cơ các hữu tình ưa muốn tánh hành và các hình tướng khác nhau thế nào thì năng lực oai thần của Phật đều thị hiện như vậy. Nghĩa là thị hiện lên trời Đổ sử đa, hoặc thị hiện từ cõi trời hạ sanh xuống châu Thiệm bộ, hoặc thị hiện ở trong thai, hoặc thị hiện lúc sơ sinh, hoặc thị hiện đồng tử, hoặc thị hiện cảnh đi dạo, hoặc thị hiện xuất gia, hoặc thị hiện tu khổ hạnh, hoặc thị hiện đến ngồi dưới cội Bồ đề, hoặc thị hiện sự chứng quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề, hoặc thị hiện chuyển xe pháp, hoặc thị hiện nhập Niết bàn. Thị hiện các tướng khác nhau như vậy đều vì sự giải thoát sanh tử của hữu tình. Mạn Thù Thất Lợi! Đó gọi là các đại Bồ Tát  đã tu hành cảnh giới của Bát Nhã thâm sâu.

Mạn Thù Thất Lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật hy hữu. Bát Nhã thâm sâu này của Bồ Tát là cảnh giới không thể nghĩ bàn của đức Phật.

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ngươi nói. Bát Nhã thâm sâu là pháp bất cộng, không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì tất cả phàm phu, Thanh văn, Độc giác không thể thông suốt, chẳng phải cảnh giới của họ; ngoài đức Phật Thế Tôn không ai có thể đạt được. Vì sao? Vì nghĩa Như như các pháp rất thậm thâm, tự tại, chẳng giao động, thâu nhiếp cả cõi vô lậu, làm cho các loài hữu tình được trọn vẹn an lạc. Cho nên gọi là cảnh giới của chư Phật, vượt qua đường ngôn ngữ, thâu nhiếp thắng nghĩa đế, xa lìa sự tìm tòi, phân biệt, nghĩ bàn, pháp thế gian chẳng thể nào so sánh ví dụ nổi, là thượng phẩm trong tất cả các pháp, không ở trong sanh tử cũng chẳng trụ Niết bàn.

Mạn Thù Thất Lợi! Khi hành Bát Nhã thâm sâu, các đại Bồ Tát  có 5 việc không thể nghĩ bàn:

1- Là tự tánh, 2- Phương xứ, 3- Các trụ, 4- Nhất dị, 5- Lợi lạc.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Thế nào là tự tánh không thể nghĩ bàn?

Tức là sắc như cầu không thể được, lìa sắc như cầu cũng không thể được. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Mười hai xứ như, mười tám giới như cầu không thể được, lìa 12 xứ như, 18 giới như cầu không thể được. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới cũng như vậy. Pháp hữu như cầu không thể được, pháp vô như cầu không thể được. Nên nói tự tánh không thể nghĩ bàn.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Thế nào là phương xứ không thể nghĩ bàn?

Như như này nếu trụ cõi Dục thì không thể nghĩ bàn, nếu lìa cõi Dục cũng không thể nghĩ bàn. Đối với cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy. Hoặc trụ phương Đông không thể nghĩ bàn, hoặc lìa phương Đông không thể nghĩ bàn. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn góc và phương trên, phương dưới cũng như vậy. Nên nói phương xứ không thể nghĩ bàn.    

 

Mạn Thù Thất Lợi! Thế nào là các trụ không thể nghĩ bàn?

Hoặc trụ an lạc không thể nghĩ bàn, hoặc trụ vắng lặng không thể nghĩ bàn, hoặc trụ có tâm không thể nghĩ bàn, hoặc trụ vô tâm không thể nghĩ bàn. Nên nói các trụ không thể nghĩ bàn.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Thế nào gọi là nhất dị không thể nghĩ bàn? Ba đời Như Lai đồng ở một chỗ, tự tánh thanh tịnh, thâu nhiếp cõi vô lậu, hoặc là một, hoặc sai khác đều không thể nghĩ bàn. Nên nói nhất dị không thể nghĩ bàn.

 

Mạn Thù Thất Lợi! Thế nào là lợi lạc không thể nghĩ bàn?

Thần lực trí tuệ đồng một pháp giới. Bát nhã Ba la mật và phương tiện hai tướng bình đẳng, có thể làm cho hữu tình được vô lượng lợi lạc, không thể nói được, vượt qua cảnh giới ngôn ngữ nhưng thuận theo căn tánh khác nhau của chúng sanh, tạo ra nhiều cách nói và nhiều kiểu thị hiện: 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, tùy theo tâm hữu tình mà thị hiện.

Mạn Thù Thất Lợi thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Những gì gọi là 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp?

Phật bảo Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- Thiện nam tử! Tướng tốt của Như Lai vô lượng, vô biên, nếu Ta nói rộng ra không thể hết được, nhưng theo sở thích của thế gian chỉ nói gồm 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.

 

Thế nào gọi là 32 tướng Đại sĩ?

 

1. Dưới bàn chân Như Lai đầy đặn, vững chãi khéo đẹp giống như đáy hộp. Đất dù cao hay thấp nhưng khi chân Ngài đạp lên thảy đều bằng phẳng và đều tiếp xúc chân Ngài.

2. Dưới bàn chân Như Lai có vằn nghìn căm xe và hình vành trục xe tròn trịa.

3. Tay chân Như Lai đều mềm mại như bông vải, hơn tất cả.

4. Ngón tay, chân Như Lai đều thon dài tròn đẹp hơn người, biểu lộ sự trường thọ.

5. Giữa kẽ mỗi ngón tay, chân của Như Lai có màng lưới da dính nhau, có đường vân như bức thêu màu vàng ròng, giống chim nhạn chúa.

6. Gót chân Như Lai rộng dài tròn đầy tương xứng với mu chân, khác hơn các hữu tình.

7. Mu chân Như Lai nổi cao đầy đặn, xinh đẹp mềm mại tương xứng với gót chân.

8. Hai bắp chân Như Lai thon tròn như bắp đùi nai chúa.

9. Hai cánh tay Như Lai dài thẳng tròn đầy như vòi voi chúa. Nếu đứng thẳng thì tay rờ tới đầu gối.

10. Âm tàng của Như Lai ẩn kín như ngựa, rồng, voi chúa.

11. Mỗi lỗ chân lông có một sợi lông mềm nhuận xanh biếc và xoay vòng bên phải.

12. Lông, tóc Như Lai mướt đều, uốn lên và xoay về bên phải, mềm nhuận xanh biếc, thân thể vàng rực, trang nghiêm rất khả ái.

13. Da thân Như Lai mỏng láng mịn trơn, đất bụi nước đều không bám vào được.

14. Da thân Như Lai đều màu vàng ròng, chói sáng như đài Diệu Kim, trang nghiêm bằng các thứ báu. Mọi người đều ưa nhìn.

15. Bảy chỗ: hai lòng bàn tay, hai lòng bàn chân, hai vai và đỉnh đầu của Như Lai đều đầy đặn, sáng láng mềm mại rất dễ ưa thích.

16. Cổ vai Như Lai tròn đầy đẹp lạ.

17. Vai nách Như Lai đều đầy đặn, chắc nịch.

18. Dung nghi Như Lai ngay ngắn hùng dũng.

19. Thân tướng Như Lai cao rộng đoan nghiêm.

20. Thể tướng Như Lai ngang rộng tương xứng, tròn đầy như cây Nặc cù đà.

21. Cằm, ngực và thân trên của Như Lai bằng phẳng, oai dung rộng lớn như sư tử chúa.

22. Ánh sáng từ thân Như Lai phát ra xung quanh một tầm.

23. Như Lai đủ bốn mươi chiếc răng đều nhau, khít, trắng hơn ngọc kha tuyết.

24. Bốn răng cửa của Như Lai trắng trong bén sắc.

25. Như Lai thường được thượng vị trong các mùi vị, vì mạch yết hầu thẳng nên có thể dẫn thượng vị vào nghìn gân mạch chi tiết trong thân.

26. Tướng lưỡi Như Lai rộng dài, mỏng sạch, phủ tới mặt cho đến mé tai.

27. Giọng nói Như Lai có âm vang to lớn thanh nhã, dù chúng nhiều hay ít đều được nghe. Phát âm vang rền giống như tiếng trống trời, lời nói dịu dàng trong trẻo như chim Tần ca.

28. Lông mi Như Lai như trâu chúa, xanh biếc ngang đều chẳng rối.

29. Mắt Như Lai xanh biếc, trong sáng phân minh.

30. Khuôn mặt Như Lai tròn đầy như trăng, tướng lông mày sáng xanh, cong như cung Thiên đế.

31. Giữa mày Như Lai có tướng lông trắng xoáy quanh theo chiều bên phải, mềm mại như bông vải trắng, đẹp như ngọc kha tuyết.

32. Trên đỉnh đầu Như Lai có cục thịt tròn nổi cao như búi tóc.

Đây gọi là ba mươi hai tướng của Như Lai.

 

Thế nào là 80 vẻ đẹp phụ thuộc?

 

1. Móng tay Như Lai hẹp dài, mỏng và láng bóng như hoa đồng đỏ.

2. Ngón tay, chân Như Lai tròn, thon dài, ngay thẳng, mềm mại, đốt xương không lộ.

3. Ngón tay, chân Như Lai đều ngang bằng không so le, ở các kẽ ngón đều đầy đặn.

4. Tay chân Như Lai tròn đầy như ý, mềm sạch sáng láng như hoa sen.

5. Gân mạch Như Lai kết lại bền chắc nhưng ẩn kín không lộ ra.

6. Mắt cá Như Lai ẩn kín.

7. Như Lai bước đi vững chãi, dáng vẻ ung dung như voi chúa.

8. Như Lai bước đi nghi ung nghiêm trang như sư tử chúa.

9. Như Lai bước đi bình an chừng mực, không dài không ngắn, giống như trâu chúa.

10. Như Lai bước đi oai nghi, tiến dừng như con thiên nga chúa.

11. Khi ngó lại, Như Lai đều quay về bên hữu chuyển cả toàn thân như voi chúa, như rồng.

12. Lóng đốt Như Lai tròn đều, một sự sắp xếp khéo léo tuyệt hảo.

13. Đốt xương Như Lai kết khít không hở như rồng cuộn.

14. Đầu gối Như Lai rắn chắc tròn đẹp.

15. Chỗ kín của Như Lai có văn rất đẹp, đầy đủ uy thế, hoàn toàn sạch sẽ.

16. Thân Như Lai nhuận trơn, mềm mại, bóng bẩy, sạch đẹp, bụi đất chẳng dính.

17. Nghi dung Như Lai oai nghiêm, không sợ sệt, cũng chẳng khiếp nhược.

18. Các phần của Như Lai đều rắn chắc, dày dặn, ăn khớp với nhau.

19. Thân thể Như Lai an định viên mãn, chẳng khuynh động, trọn vẹn không hư hoại.

20. Thân tướng Như Lai như Tiên vương, đoan nghiêm, sáng rực chẳng mờ.

21. Thân Như Lai có hào quang xung quanh, khi đi v.v… thân Như Lai luôn tỏa sáng.

22. Bụng Như Lai vuông thẳng không khuyết, mềm mại, chẳng lộ.

23. Rốn Như Lai sâu tròn, xoay quanh bên phải, thanh tịnh sáng rỡ.

24. Rốn Như Lai sâu, chẳng lồi, chẳng lõm, chung quanh đẹp đẽ.

25. Da của Như Lai hoàn toàn không có bệnh ghẻ lở, cũng không có nét xấu như nốt ruồi, tàn nhang, bướu v.v...

26. Lòng bàn tay Như Lai đầy đặn mềm mại, dưới lòng bàn chân bằng thẳng.

27. Vân tay Như Lai sâu dài rõ thẳng, nhuận trơn không đứt đoạn.

28. Môi Như Lai đỏ như quả Tần-bà, hai vành môi cân xứng.

29. Khuôn mặt Như Lai chẳng dài chẳng ngắn, chẳng lớn, chẳng nhỏ, đầy đặn trang nghiêm.

30. Lưỡi Như Lai mềm mỏng, rộng, dài, màu như đồng đỏ.

31. Âm thanh Như Lai vang trầm như voi chúa rống, oai chấn tất cả.

32. Âm vận Như Lai mỹ diệu đầy đủ, như tiếng vang trong hang sâu.

33. Mũi Như Lai cao dài, ngay thẳng, lỗ mũi không lộ.

34. Răng Như Lai vuông, ngay thẳng, trắng đẹp.

35. Các răng Như Lai tròn trắng, sáng sạch, bén sắc.

36. Mắt Như Lai trong, xanh, và trắng phân minh.

37. Mắt Như Lai rộng dài như lá hoa sen xanh, rất đẹp khả ái.

38. Lông mi Như Lai trên dưới ngang thẳng, dày dặn, không trắng.

39. Đôi mày Như Lai dài, rậm, nhỏ, mềm mại, không trắng.

40. Đôi mày Như Lai mịn màng thứ tự, xanh biếc như lưu ly.

41. Đôi mày Như Lai cao, sáng như hình trăng non.

42. Tai Như Lai dày, rộng, lớn dài, hai trái tai tròn rủ xuống.

43. Hai tai Như Lai ngang bằng đẹp lạ, tránh xa lỗi lầm.

44. Dung nghi Như Lai có thể khiến mọi người thấy đều ái kính, không có sự tổn hại, không có sự ô nhiễm.

45. Trán Như Lai rộng, tròn đầy, bằng phẳng, hình tướng đẹp lạ.

46. Thân trên của thân Như Lai viên mãn như như sư tử chúa, oai nghiêm đầy đủ.

47. Tóc đầu Như Lai dài, dày dặn, xanh biếc không trắng.

48. Tóc Như Lai thơm, sạch, nhỏ, mềm, trơn, xoắn tròn.

49. Tóc Như Lai dài đều, không rối cũng chẳng kết đùm.

50. Tóc Như Lai bền chắc, chẳng đứt, hoàn toàn không rụng.

51. Tóc Như Lai trơn láng, sáng rực đẹp lạ, chẳng dính bụi bẩn.

52. Thân Như Lai vững vàng, rắn chắc như thân Na la diên.

53. Thân thể Như Lai cao lớn ngay thẳng.

54. Các lỗ trên thân Như Lai thanh tịnh tròn đẹp.

55. Thân Như Lai có năng lực thù thắng không ai sánh bằng.

56. Thân tướng Như Lai ngắm hoài không chán.

57. Khuôn mặt Như Lai tròn đầy dài rộng đúng cỡ, sáng trong rực rỡ như trăng rằm mùa Thu.

58. Nhan sắc Như Lai thư thái sáng rỡ, tươi nhuận, luôn mỉm cười trước khi nói, chỉ có thuận không trái.

59. Diện mạo Như Lai rực sáng vui tươi, không bao giờ nhăn nhó, cáu gắt v.v...

60. Thân Như Lai trong sạch không bẩn, không hôi dơ.

61. Các lỗ chân lông của Như Lai thường tỏa ra mùi thơm vi diệu.

62. Miệng Như Lai luôn tỏa ra mùi hương thơm ngát tối thượng.

63. Tướng đầu Như Lai tròn đẹp như quả Mạt đạt na, cũng giống như cái lọng trời.

64. Lông thân Như Lai xanh biếc, sáng sạch như lông cổ chim công, như trang sức lụa màu đồng đỏ.

65. Âm thanh thuyết pháp của Như Lai tùy theo chúng sanh lớn nhỏ nhưng chẳng tăng, chẳng giảm, đúng lý không chấp trước.

66. Tướng đỉnh đầu Như Lai không ai thấy được.

67. Ngón tay, ngón chân của Như Lai thon, phân minh, trang nghiêm đẹp đẽ như màu đồng đỏ.

68. Khi đi, chân Như Lai cách đất 4 tấc nhưng có hiện ấn văn trên đất.

69. Thân Như Lai rắn chắc, chẳng dựa vào người khác, thân không khinh động cũng không uốn éo.

70. Oai đức Như Lai vang xa chấn động tất cả, kẻ ác tâm nghe thì vui mừng, người sợ hãi thấy được yên.

71. Âm thanh của Như Lai tùy theo ý chúng sanh mà ban lời hòa nhã vui vẻ, chẳng cao, chẳng thấp.

72. Như Lai thường tùy theo ngôn ngữ và ý muốn của chúng sanh mà thuyết pháp.

73. Như Lai thuyết pháp cùng một âm thanh nhưng tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh đều hiểu được cả.

74. Như Lai thuyết pháp theo thứ tự, tất cả đều có nhân duyên, không lời nào không hoàn hảo.

75. Như Lai coi chúng sanh bình đẳng: Gặp thiện thì khen, gặp ác thì chê nhưng không có ưa ghét.

76. Phàm làm việc gì, Như Lai đều xem xét trước rồi làm sau, đúng theo qui tắc để người phân biệt một cách thanh tịnh hoàn toàn.

77. Tướng hảo của Như Lai, tất cả hữu tình ngắm không cùng tận.

78. Xương đỉnh đầu Như Lai cứng chắc tròn đầy.

79. Dung nhan Như Lai trẻ mãi không già, lớp mới luôn thay lớp cũ.

80. Tay chân và trước ngực Như Lai đều là tướng đức cát tường xoay tròn (chữ Vạn), đường vân như bức lụa thêu, màu ngọc châu đỏ.

Đây gọi là tám mươi vẻ đẹp của Như Lai.

 

Lược giải:

 

Đại Bồ Tát hành sâu Bát Nhã tức hoàn thành hai hạnh: 1- Thành tựu Bát nhã Ba la mật, và 2- Giáo hóa hữu tình:

 

- Thành tựu Bát Nhã là giác ngộ, đạt Vô thượng Bồ đề, và đắc Nhất thiết trí trí. Đó là thượng cầu giác ngộ, là tâm nguyện tiên khởi của Bồ Tát, gọi là hạnh nguyện thứ nhất.

 

- Đồng thời tu phước đức trí tuệ viên mãn mới có thể chuyển pháp luân, thành thục chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, gọi là hạnh nguyện thứ hai. Nếu không hoàn thành 2 hạnh này thì không thể bước lên vai vị Bồ Tát mà bị rơi rụng vào bậc Thanh văn hay Độc giác.

 

Nếu tròn đầy được 2 hạnh này thì Bồ Tát sẽ nhập vào cảnh giới thâm sâu, cảnh giới rộng lớn, cảnh giới công đức của chư Phật. Tất cả phàm phu, Thanh văn, Độc giác không thể nhập cảnh giới không thể nghĩ bàn, vì chẳng phải cảnh giới của họ. Ngoài đức Phật Thế Tôn không ai có thể đạt được. Vì sao? Vì nhờ Bát nhã Ba la mật nên Phật thâm nhập được pháp như, được tự tại, thâu nhiếp tất cả cõi vô lậu, làm cho các loài hữu tình được trọn vẹn an vui. Vì vậy, gọi là cảnh giới của chư Phật.

Nên, “Mạn Thù Thất Lợi liền thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thật hy hữu. Bát Nhã thâm sâu này của Bồ Tát là cảnh giới không thể nghĩ bàn của đức Phật.

Phật bảo liền giải thích cho Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi:

- “Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ngươi nói. Bát Nhã thâm sâu là pháp bất cộng, không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì tất cả phàm phu, Thanh văn, Độc giác không thể thông suốt, chẳng phải cảnh giới của họ; ngoài đức Phật Thế Tôn không ai có thể đạt được. Vì sao? Vì nghĩa Như như các pháp rất thậm thâm, tự tại, chẳng giao động, thâu nhiếp cả cõi vô lậu, làm cho các loài hữu tình được trọn vẹn an lạc. Cho nên gọi là cảnh giới của chư Phật, vượt qua đường ngôn ngữ, thâu nhiếp thắng nghĩa đế, xa lìa sự tìm tòi, phân biệt, nghĩ bàn, pháp thế gian chẳng thể nào so sánh ví dụ nổi, là thượng phẩm trong tất cả các pháp, không ở trong sanh tử cũng chẳng trụ Niết bàn.

 

Do học Bát nhã Ba la mật Bồ Tát đạt được 5 sự không thể nghĩ bàn, là: 1. Tự tánh, 2. Phương xứ, 3. Các trụ, 4. Nhất dị, 5. Lợi lạc:

 

- Biết uẩn, xứ, giới như, các đại chủng như, pháp hữu vi như, vô vi như tầm cầu không thể được, nên nói tự tánh không thể nghĩ bàn.

 

- Không lệ thuộc phương cõi (10 phương, ba cõi). Nên nói phương xứ không thể nghĩ bàn.

 

- Không trụ an lạc hay vắng lặng, không hữu tâm hay vô tâm, chẳng trụ nhị nguyên... tức vô sở đắc. Không ai có thể làm được như vậy, nên nói các trụ không thể nghĩ bàn.

 

- Ba đời Như Lai tánh tướng thể dụng thanh tịnh, không đây kia sai khác. Nên nói nhất dị không thể nghĩ bàn.

 

- Tùy thuận căn tánh khác nhau của chúng sanh, thị hiện 32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp, phương tiện hóa đạo, mang lại lợi lạc cho tất cả hữu tình, không ai bằng. Nên nói là lợi lạc không thể nghĩ bàn!

 

Tu hành tất cả pháp không ngoài nhị hạnh: Thành tựu Bát Nhã mục đích trên “cầu Vô thượng Bồ đề” và giáo hóa hữu tình gọi là “hóa độ chúng sanh”. Đó là chủ trương của Đại thừa cũng là của Phật đạo.

 

Ngoài ra, phẩm này chỉ liệt kê một số điều kiện mà Bồ Tát phải thực thi để trở thành bậc Vô thượng Giác ngộ. Kinh đã trình bày quá rõ trong phần chánh văn, nên không cần nói thêm nữa./.

 

---o0o---

 

 

 

 

 

 

 

 

 

16. PHẨM “TÁN THÁN”

 

Giữa quyển 573, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương với phẩm 15, “Khen Ngợi”, Kinh TTVBN)

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, đại Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Công đức của Như Lai thật là hiếm có, không gì sánh bằng, không thể nghĩ bàn. Chư Phật ba đời đều không có khác. Nếu được thấy Như Lai hoặc nghe công đức của Ngài thì loài hữu tình này cũng khó nghĩ bàn. Lại một lần nữa, hôm nay con được thấy Phật chuyển xe pháp lớn, thật là điều chưa từng có, nên hân hoan vui mừng.

Nói lời này rồi, các đại Bồ Tát liền bay lên hư không cao bằng 7 cây Đa la, chắp tay khen:


Tất cả loài hữu tình,
Chỉ Phật là tối tôn.
Không có ai sánh bằng,
Huống lại có người hơn.
Ngã và pháp đều Không,
Diệu lý Vô đẳng đẳng.(1)
Chỉ Phật Thế Tôn ta,
Sánh bằng Vô đẳng đẳng.
Phiền não và tập khí
Đều hết hẳn không còn,
Biết được tất cả pháp
Đều hoàn toàn rõ ràng,
Hoặc trí hoặc thuyết pháp
Không ai sánh bằng Phật.
Cõi Tam thiên đại thiên,
Chỉ Phật là tối tôn.
Mười lực, vô úy thảy,
Thật có chẳng hư dối.
Đế thích cùng Phạm vương,
Thảy đều không thể bằng.
Đại ân đức Thế Tôn,
Thấm khắp các hữu tình.
Việc này khó nghĩ bàn,
Nhất định không ai bằng
Thường đem tuệ vi diệu
Và phương tiện thiện xảo,
Giáo hóa các hữu tình,
Khiến đều được lợi vui.

Khi ấy, trong hội có một Thiên tử tên là Diệu Sắc, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng Phật, dùng kệ khen:


Có kẻ nói thế gian ngang Phật,
Lời ấy là hư dối chẳng thật.
Nếu nói Pháp vương rất tối tôn,
Lời này là chắc thật chẳng dối.
Những hàng trời người đang vấn nạn,
Không ai bẻ được Đại sư ta.
Thiện Thệ hàng ma dẹp ngoại đạo,
Dẫn dắt thế gian đến giải thoát.
Bốn biện thanh tịnh nói không cùng,
Thuốc diệu Cam lồ ban hữu tình.
Quán khắp các pháp trí vô ngại,
Tất cả sát na chẳng giảm mất.
Bình đẳng đại bi xem hữu tình,
Tâm luôn thanh tịnh, đời chẳng nhiễm.
Biết rõ hoàn toàn căn, dục, tánh,
Tùy sự thích nghe mà ứng nói.
Phiền não khác nhau chẳng phải một,
Chỉ bày vô lượng môn đối trị.
Duy Phật khéo nói nhân duyên kia,
Luôn vì lợi lạc chúng hữu tình.
Gặp Phật nghe pháp chẳng chứng Thánh,
Hữu tình như thế thật khó độ.
Đại danh Như Lai phải khát ngưỡng,
Kẻ nào được thấy lợi vô hạn.
Phật trí luôn làm tâm thanh tịnh,
Được nghe chánh pháp khỏi sanh tử.
Nghe danh hiệu Phật điềm lành lớn,
Thường niệm Thế Tôn luôn hỷ lạc.
Phát tâm hướng Phật sanh trí tuệ,
Như lời dạy tu thành chủng trí.
Giới phẩm thanh tịnh không bẩn đục.
Tĩnh lự đệ nhất, tâm bừng sáng.
Trí tuệ tối thắng khó khuynh động,
Biển pháp thanh tịnh như cam lồ.
Tất cả hữu tình ưa buông lung.
Chư Phật chuyên tịnh, lìa thế gian.
Thương yêu hữu tình như con một,
Ơn đức sâu dày không đền được.
Trước nói pháp phá giặc phiền não,
Sau dẹp thiên ma quân huyễn hóa.
Thế Tôn đã nói lỗi ba cõi,
Rộng bày vô lượng đức Niết bàn,
Trăm ngàn đại kiếp khó được nghe,
Nên nay con chí thành tán lễ.

Trong hội lại có một vị Thiên tử tên là Thiện Danh, liền từ chỗ ngồi, kéo y che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay hướng về Phật, nói:


Như Lai bình đẳng hành đại từ,

Nếu có thể dùng trí độ người.

Đề Bà Đạt đa(2) được độ trước,

Huống gì đối với hữu tình khác.

Nay con chẳng muốn để luống qua,

Tu trì đại hạnh đền ơn Phật.

Nếu chỉ tự chứng Diệt vô lậu,

Đối ơn Phật kia chưa đền được.

Nếu có tu hành như Phật dạy,

Mới được gọi là chơn Phật tử.

Phật chịu khổ lâu vì hữu tình.

Ơn lớn vô thượng khó trả được.

Đại từ khai rõ chơn diệu pháp,

Khiến chúng tự tu và độ người.

Nếu Phật chẳng hiện ở thế gian,

Tất cả hữu tình chịu khổ lớn,

Chỉ có ác thú không trời, người,

Nghe toàn các thứ âm thanh khổ.

Chịu khổ các cõi không ai khỏi,

Do vì phiền não buộc hữu tình.

Phật muốn cởi bỏ các gút độc,

Ngược lại buộc bằng dây đại bi.

Như Lai ruộng phước lớn của đời,

Nương pháp chánh tu lìa ác thú.

Nếu trái lời Phật chẳng tu hành,

Nhất định chẳng được sanh trời, người.

Nếu ai ác tâm với đức Phật,

Hoặc chẳng ưa nghe pháp thâm sâu,

Thì hữu tình này thật đáng thương,

Quyết định ở mãi chỗ tối tăm.

Như Phật Thế Tôn trí tự biết,

Loài kia Như Lai mới hiểu rõ.

Trí Phật chẳng phải dễ so lường,

Cúi đầu đảnh lễ mười phương Phật,

Vô úy, trí, lực, pháp bất cộng,

Chỉ Phật Thế Tôn có đầy đủ.

Tướng hảo trang nghiêm, hương vi diệu,

Người xem không chán, vượt các sắc.

Ba môn khai mở chẳng tạm dứt.

Hoa Phật thanh tịnh, nay con lễ.

Duy Phật hiểu đúng Vô thượng giác,

Vĩnh viễn ra khỏi các hiểm nạn.

Phật là đệ nhất bậc Vô thượng,

Cúi đầu quy mạng đấng Lưỡng túc(3).

Phật đem công đức nước chánh pháp,

Rửa trừ sạch hết các cấu uế.

Thế Tôn xưa nay sạch trong ngoài,

Con nay đảnh lễ thân chơn tịnh.

 

Lúc này, đại Phạm vương chủ cõi Kham Nhẫn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo y che vai trái, gối phải quì sát đất, chấp tay hướng Phật, dùng kệ khen:


Như Lai đầy đủ thắng phước tu

Lợi lạc hữu tình chẳng tạm ngưng,

Thường rưới Cam lồ cứu đói khát.

Con nay cúi đầu làm lợi người.

Thế gian Người khả kính hơn hết.

Tất cả loài kia đến cúng Phật

Đầy đủ các thiện, hết các ác.

Con nay kính lạy bậc Vô đẳng.

Vì muốn cứu vớt các hữu tình,

Chẳng còn hạnh nào không tu học.

Vượt khỏi sanh tử được an vui.

Con nay đảnh lễ đấng cứu thế,

Lễ lạy thân sắc vàng vi diệu,

Lễ lạy bậc thuyết pháp cam lồ,

Lễ lạy trí thanh tịnh không bẩn,

Lễ lạy tất cả rừng công đức.

 

Bấy giờ, Phật bảo đại Phạm thiên vương:

- Lành thay! Lành thay! Những điều ngươi khen Như Lai là thật chẳng phải hư dối. Vì sao? Vì trong vô lượng kiếp, chư Phật Thế Tôn đã tu tập nhiều loại phước đức trí tuệ, do đó quả vị hoàn toàn đầy đủ. Vì sao? Vì Như Lai đầy đủ bố thí, tịnh giới, an nhẫn, tinh tấn, tịnh lự, Bát nhã Ba la mật. Ba nghiệp thân, ngữ, ý đều thanh tịnh, nên thông suốt được chơn như thật tế, vì trụ thật tế nên nói ra điều gì chẳng hư dối.

Khi ấy, đại Phạm thiên vương kéo y che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, bạch Phật:

- Cúi xin Thế Tôn dùng năng lực thần thông làm cho Bát nhã Ba la mật này trụ lâu ở thế gian để làm lợi lạc cho tất cả.

Phật bảo đại Phạm thiên vương:

- Tất cả Như Lai trong 10 phương ba đời đều dùng đại thần thông, cùng chung hộ niệm Bát Nhã thâm sâu để trụ lâu ở thế gian, làm lợi lạc cho tất cả. Thiên ma, Phạm chí, ngoại đạo, Sa môn đều không thể phá diệt và gây trở ngại. Vì sao? Vì Ta nhớ quá khứ có Phật tên là Bảo Nguyệt Như Lai, đầy đủ 10 hiệu. Nước tên Vô Hủy, kiếp tên Hỷ Tán. Phật kia có hai đệ tử Bí sô làm đại pháp sư, khéo thuyết giáo pháp thâm sâu. Một: Tên là Trí Thịnh, hai: Tên là Đế Thọ, thường theo Phật kia chuyển xe chánh pháp. Trải qua một kiếp tuyên thuyết Bát Nhã này, có trăm ngàn ức chúng ma cõi Tam thiên đại thiên đều được giáo hóa phát Bồ đề tâm. Vì thế nên các Thiên ma không có sức phá diệt và cản trở.

Đại Bồ Tát Tịch Tĩnh Tuệ kéo y che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Bảo Nguyệt Như Lai trụ ở chỗ nào? Vẫn còn trụ ở đời hay đã nhập Niết bàn rồi?

Thế Tôn bảo Tịch Tĩnh Tuệ:

- Thiện nam tử! Cách phương Đông hơn mười ngàn ức thế giới chư Phật, đã từng có thế giới tên là Vô Hủy. Trong thế giới ấy, Như Lai thọ một vạn kiếp. Ở thế giới ấy, Phật thường thuyết Bát Nhã này. Các Thiên ma và ngoại đạo v.v... không thể làm chướng ngại Kinh điển này và đều phát tâm Vô Thượng Bồ đề. Bí sô Trí Thịnh nay chính là Mạn Thù Thất Lợi. Bí sô Đế Thọ nay là Thiên vương Tối Thắng. Hai vị Bồ Tát này đã dùng các phương tiện thiện xảo ủng hộ Bát Nhã làm cho trụ lâu ở đời. Mười phương cõi Phật nếu có thuyết Bát Nhã này thì hai vị Bồ Tát ấy liền đến nghe nhận. Như ngày nay, Ta thuyết pháp môn này, phóng đại quang minh, tìm theo ánh quang minh đến đây vân tập.

 

Thích nghĩa:

(1). Vô đẳng đẳng: (Asamasama, Skt). 1- Cái không gì sánh nổi, không gì ngang bằng .

(2). Đề Bà Đạt Đa: Cũng gọi Đề Bà Đạt Đâu, hoặc gọi là Điều Đạt. Hán dịch: Thiên Nhiệt, Thiên Thụ, Thiên Dữ. Vị Tỷ khưu xấu ác, phạm tội ngũ nghịch, phá hoại Tăng đoàn, đối địch với Phật. Đề Bà Đạt Đa là con vua Hộc Phạn chú của Phật (cũng có thuyết cho là con của Cam lộ Phạn vương, Bạch Phạn vương hoặc là con của trưởng giả Thiện Giác). Thuở nhỏ, ông học tập cùng Thái tử Tất Đạt Đa, Nan đà, tài năng ông xuất sắc nên thường tranh đua với Thái tử Tất Đạt Đa. Sau khi Thái tử Tất Đạt Đa thành Phật, ông theo Phật xuất gia, trong khoảng 12 năm đầu, ông dốc lòng tu đạo, siêng năng tinh tiến. Sau vì không được Thánh quả nên ông thoái tâm và muốn học thần thông để cầu lợi dưỡng, đức Phật không cho, Đề Bà liền đến chỗ Thập Lực Ca Diếp học thần thông, được Thái tử A Xà Thế của nước Ma Yết Đà cúng dường. Do đó, Đề Bà càng kiêu mạn hơn, muốn thay Phật lãnh đạo Tăng đoàn. Sau đó, Đề bà cầm đầu 500 đồ chúng thoát ly Tăng đoàn, tự xưng Đại sư, đặt ra năm pháp và cho đó là con đường tới Niết bàn mau chóng. Đây là việc phá hòa hợp Tăng. Về 5 pháp do Đề Bà lập ra, các bộ luận ghi chép không giống nhau. Cứ theo Hữu bộ tỳ nại da Phá Tăng sự quyển 10 chép, thì 5 pháp ấy là: Không ăn váng sữa, không ăn thịt cá, không ăn muối, khi may áo cà sa để nguyên tấm vải không cắt nhỏ ra, ở nơi xóm làng chứ không ở chỗ vắng vẻ. Còn theo luật Thập tụng quyển 4, quyển 36, thì 5 pháp là: - Trọn đời mặc áo vá. - Trọn đời đi xin ăn. - Trọn đời ngồi nơi đất trống. - Trọn đời không ăn thịt cá. - Trọn đời chỉ ăn một bữa. Ngoài ra, về việc giải thích các pháp nghĩa, Đề bà cũng nêu ra những dị thuyết. Từ đó, ở thành Vương Xá, nước Ma Yết Đà, Đề Bà có giáo đoàn độc lập, được Thái tử A Xà Thế ủng hộ nên thế lực mỗi ngày một lớn mạnh, Phật đã thường răn bảo các Tỷ khưu chớ tham lợi dưỡng của Đề Bà. Về sau, Đề bà xúi giục A xà thế giết cha, để cướp ngôi, A xà thế bèn bắt cha giam trong ngục tối rồi lên làm vua. Đồng thời, Đề bà cũng âm mưu ám hại Phật để lên làm Phật, nên ông ta lên núi Kì xà lăn tảng đá lớn xuống nhằm giết Phật, nhưng việc không thành và Phật chỉ bị thương ở chân. Lại thừa lúc Phật vào thành Vương xá, Đề bà cho thả voi điên ra để hại Phật, nhưng voi vừa gặp Phật liền qui phục nên âm mưu cũng bị thất bại. Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên khuyên nhủ đồ chúng Đề Bà trở về với Tăng đoàn của đức Phật, vua A Xà Thế cũng được đức Phật giáo hóa, bèn sám hối qui y. Đề Bà vẫn không bỏ tâm ác, đánh đập Tỷ khưu ni Liên Hoa Sắc đến chết; lại bôi thuốc độc vào 10 móng tay mình định nhân lúc lễ lạy Phật để hại Phật, nhưng chân Ngài khi ấy cứng chắc như đá, còn 10 đầu ngón tay của Đề bà thì bị xây xát, chất độc thấm vào máu khiến Đề Bà bỏ mạng. Trong các Kinh điển phần nhiều có nói vì những việc làm trái với đạo lý trên đây nên sau khi chết, Đề Bà bị rơi vào địa ngục. Cứ theo Kinh Tăng Nhất A hàm quyển 47 chép, thì đức Phật bảo Đề Bà Đạt Đa sẽ phải chịu khổ địa ngục trong một kiếp và được thọ ký thành Bích Chi Phật. Kinh Tát Đàm Phân Đà Lợi và phẩm Đề Bà Đạt Đa trong Kinh Pháp Hoa quyển 4 nói, ở đời quá khứ Đề Bà là thiện tri thức, từng thuyết giảng Kinh điển Đại thừa cho đức Thích tôn nghe, nhờ thế mà đức Thích tôn được thành Phật. Trong Kinh còn nói, sau vô lượng kiếp ở đời vị lai, Đề Bà Đạt Đa sẽ thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai.(Phỏng theo Từ điển Phật Quang)

(3). Lưỡng túc tôn: (兩足尊), Phạm: Dvipadottama, Pàli: Dvipada-seỉỉha. Tôn hiệu của đức Phật, vì Ngài có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, là bậc tôn quí nhất trong các loài chúng sanh ở cõi Trời người. Phật cũng là bậc nhất trong tất cả các loài chúng sanh không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng, chẳng có tưởng, chẳng phải không tưởng v.v...(Phỏng theo Phật Quang Từ điển).

 

Lược giải:

 

Các Bồ Tát như Bồ Tát Mạn Thù Thất Lợi hay còn gọi là Văn Thù Sư Lợi, các Thiên tử tên là Diệu Sắc, Thiện Danh, đại Phạm vương chủ cõi Kham Nhẫn đều xướng kệ ca tụng công đức Thế Tôn và sau cùng là các Bồ Tát khác “Khẩn cầu Thế Tôn dùng năng lực thần thông làm cho Bát nhã Ba la mật này trụ lâu ở thế gian để làm lợi lạc cho tất cả”. Nội dung phẩm này chỉ có thế, ai đọc cũng có thể hiểu. Nên không cần bàn thêm./.

 

---o0o---

 

 

 

 

17. PHẨM “PHÓ CHÚC”

 

Cuối quyển 573, Hội thứ VI, ĐBN.

(Tương đương phẩm 16, “Giao Phó”, Kinh TTVBN)

 

Tóm lược:

 

Bấy giờ, Phật bảo A Nan Đà:

- Ông nên thọ trì Bát Nhã thâm sâu, chớ để quên mất.

A Nan Đà liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Thọ trì Kinh điển này như thế nào?

Phật bảo A Nan Đà:

- Thọ trì Kinh này có 10 phương pháp: 1. Biên chép, 2. Cúng dường, 3. Dạy cho người khác, 4. Lắng nghe, 5. Tìm đọc, 6. Thọ trì, 7. Giảng rộng, 8. Phúng tụng(tụng hay đọc Kinh), 9. Suy nghĩ, 10. Tu tập.

Dựa vào 10 pháp đó mà thọ trì Kinh này. Thí như ở thế gian, tất cả cỏ cây, hoa, quả, thuốc v.v... đều nương vào đại địa. Cũng vậy tất cả pháp lành thù thắng đều dựa vào Bát nhã Ba la mật. Như vua Chuyển luân nếu trụ ở đời thì bảy báu luôn xuất hiện. Bát Nhã cũng lại như thế, nếu trụ ở đời thì Tam bảo không bị diệt.

Khi ấy, đại chúng cùng lúc nhìn vào khuôn mặt Thế Tôn, rồi nói rằng:

- Sau khi Như Lai diệt độ, ai có thể gánh vác trọng trách đại pháp của Thế Tôn? Nghĩa là vị ấy phải trải qua vô lượng, vô biên đại kiếp tu tập mới được quả vị Vô Thượng Chánh đẳng Bồ đề.

Trong chúng có một vạn hai ngàn Bồ Tát vì hộ pháp này liền đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, nói kệ:


Chúng con bỏ thân mạng,
Chẳng cầu báo vị lai,
Hộ trì lời Phật dạy,
Chánh pháp thâm sâu này.

 

Trong chúng có năm trăm Thiên tử do Hiền Vương dẫn đầu, cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, nói kệ:


Vì độ các hữu tình,
Thành tựu nguyện đại bi.
Hộ trì lời Phật dạy,
Chánh pháp thâm sâu này.

Lúc ấy, Trời Đế Thích, Phạm vương Trì Kế, Tỳ sa môn vương đều từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính, nói kệ:


Thuốc Bát Nhã nhiệm mầu,

Trị được tất cả bệnh.

Thế Tôn nay đã nói,

Chúng con xin thọ trì.

 

Thần cầm chày Kim cang cũng từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật, kéo áo che vai trái, gối phải quỳ sát đất, chắp tay cung kính nói kệ:


Pháp vốn không danh tự,
Phật dùng danh tự nói.
Đại bi chơn giáo pháp,
Chúng con xin thọ trì.

 

Bấy giờ, Phật bảo Phạm vương Trì Kế:

- Phạm thiên nên biết! Phật khen ba việc rất là vô thượng. Những gì là ba?

1. Phát Bồ đề tâm,

2. Hộ trì chánh pháp,

3. Như giáo pháp tu hành.

Ba pháp này thật là vô thượng. Người nào tu hành được mới là chơn cúng dường Phật. Nếu Ta trụ ở đời một kiếp, hoặc hơn một kiếp, nói công đức ấy cũng không thể hết. Hộ trì Như Lai bằng một bài kệ bốn câu, công đức ấy nói còn không hết, huống gì hộ trì Bát Nhã thâm sâu, là mẹ ba đời chư Phật. Vì sao? Vì chư Phật ba đời đều từ Bát nhã Ba la mật mà sanh ra, dùng pháp cúng dường là chơn cúng dường Phật. Nếu dùng tiền của thì chẳng phải chơn cúng dường. Nên cúng dường pháp là cúng dường tối thượng nhất. Nếu người nào hộ trì chánh pháp của Phật, phải biết người ấy an lạc ba đời. (Q.573, ĐBN)

Thế nên, Phạm thiên! Phải thường ủng hộ Bát Nhã thâm sâu. Nhờ hộ trì pháp, ngươi sẽ được gặp ngàn đức Phật trong Hiền kiếp và được thỉnh làm chủ. Phạm thiên nên biết! Ở cõi uế trược này, hộ trì chánh pháp trong giây lát, công đức đạt được còn hơn ở cõi Tịnh, hoặc một kiếp hay hơn một kiếp. Thế nên ngươi phải siêng năng hộ trì chánh pháp.

Thế Tôn lại bảo trời Đế Thích:

- Kiều thi ca! Bát Nhã sanh ra ở chỗ nào thì Như Lai sanh ra, chứng quả Bồ đề, chuyển pháp luân và nhập Niết bàn cũng ở đó. Vì sao? Kiều thi ca! Vì tất cả Bồ Tát, tất cả pháp lành, tất cả Như Lai đều từ đây mà sanh. Nếu có Pháp sư nào tuyên thuyết Bát Nhã thâm sâu này thì chỗ ấy chính là chỗ Phật đã đi. Ở chỗ pháp sư, các loài hữu tình phải sanh tâm tôn trọng và gần gũi như Phật, vui mừng, cung kính, cúng dường, ngợi khen. Nếu Ta trụ ở đời một kiếp hay hơn một kiếp, nói về công đức mà Pháp sư đây đã truyền bá Kinh này cũng không thể hết.

Kiều thi ca! Khi Pháp sư này đi đến chỗ nào, có thiện nam thiện nữ chích máu rưới xuống đất để khỏi tung bụi. Cúng dường như vậy vẫn chưa gọi là nhiều. Vì sao? Vì pháp luân vô thượng khó thọ trì vậy.

Trời Đế Thích thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn! Trong đời vị lai, chỗ nào thuyết Kinh này, con và quyến thuộc đều ủng hộ vị Pháp sư và bảo vệ địa phương ấy. Nếu thấy Kinh này để ở chỗ nào liền sanh tâm như bốn chỗ đã nói ở trước.

Bấy giờ, Thế Tôn khen trời Đế Thích:

- Lành thay! Lành thay! Ta đem Kinh này giao phó và dặn dò ngươi. Đời sau, ngươi phải ủng hộ lưu truyền.

Trời Đế Thích bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Chư thiên chúng con được sanh vào cảnh giới an lành đều nhờ Bát nhã Ba la mật; phát Bồ đề tâm cũng nhờ vào đây. Thế nên, chúng con chẳng tiếc thân mạng, ủng hộ giáo pháp thâm sâu của Thế Tôn.

Phật lại khen trời Đế Thích:

- Hay thay! Hay thay! Hãy làm như đã nói.

Khi đức Thế Tôn thuyết Kinh này rồi, Thiên vương Tối Thắng và các đại Bồ Tát trong 10 phương cõi, tất cả Thanh văn, trời, rồng, Dược xoa, Kiện đạt phược, A tu la, Yết lộ trà, Khẩn nại lạc, Mạt hô lạc già, người chẳng phải người v.v... nghe Phật thuyết đều rất vui mừng, tin nhận phụng hành.

 

Lược giải:

 

1. Cũng như các Hội trước, Phật phó chúc Ngài A Nan Kinh Đại Bát nhã Ba la mật này: Hãy đọc tụng thọ trì chẳng để quên mất. Rồi Phật dạy Ngài A Nan 10 pháp thọ trì là:

 

1- Biên chép, 2- Cúng dường, 3- Dạy cho người khác, 4- Lắng nghe, 5- Tìm đọc, 6- Thọ trì, 7- Giảng rộng, 8- Phúng tụng, 9- Suy nghĩ, và 10- Tu tập.

Chín phương pháp đầu chúng ta đã chấp hành một cách nghiêm chỉnh, chỉ còn phương pháp thứ mười là “tu tập”. Đó phương pháp cần yếu nhất cho sự chứng đắc và giác ngộ. Câu nói thời danh mà chúng ta cần lưu ý là “Học nhiều mà không tu thì chẳng khác nào cái đãy đựng sách”.

 

2. Ở đây có một chi tiết khác so với các lần phó chúc trước là Phật giao cho Trời Đế Thích vai trò hộ trì chánh pháp (thay vì Ngài A Nan) với lời khuyến dẫn như sau:

“Thế nên, Phạm thiên! Phải thường ủng hộ Bát Nhã. Nhờ hộ trì pháp, ngươi sẽ được gặp ngàn đức Phật trong Hiền kiếp và được thỉnh làm chủ. Phạm thiên nên biết! Ở cõi uế trược này, hộ trì chánh pháp trong giây lát, công đức đạt được còn hơn ở cõi Tịnh, hoặc một kiếp hay hơn một kiếp. Thế nên ngươi phải siêng năng hộ trì chánh pháp”.

Phẩm này chẳng khó, ai đọc cũng có thể hiểu, không cần nói thêm./.

 

---o0o---

 

Đến đây chấm dứt Hội thứ VI, ĐBN hay

Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã”

 

So chiếu Hội thứ VI, ĐBN do nhóm của Ngài Huyền Trang sao lại với Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã” do Ngài Nguyệt Bà Thủ Na dịch, hai Kinh giống nhau như hai giọt nước như chúng tôi trình bày trong phần tựa! Quan trọng là Kinh này đã đạt chỉ tiêu mong muốn. Các nhà dịch thuật đã đem hết tinh thần trình bày trong một bộ Kinh tuy ngắn nhưng đã nêu lên được tất cả giáo lý hạnh quả, kỹ thuật tu trì quán chiếu cốt tủy của hệ Bát Nhã nhất là nói về phước đức trí tuệ cùng hạnh nguyện của các bậc tu hành.

Văn phong của Hội thứ VI thật bình dị, gần gũi với chúng ta. Điều đáng chú ý của Hội này là chia giáo pháp “Chơn như” làm ba phẩm khác nhau là Pháp giới, Pháp tánh và Bình đẳng tánh. Sự phân chia này làm nổi bậc ý nghĩa đặt thù của các giáo lý vi diệu này. Vì sao? Vì Hội thứ VI, ĐBN và Kinh “Thắng Thiên Vương Bát Nhã” khi nói đến pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh cũng lại đề cập đến chơn như, nghĩa là không ra ngoài thập nhị chơn như để chúng sanh nào tu các pháp môn này có cơ hội nhập pháp giới!

Nhập pháp giới, ba từ này xuất hiện trong văn học Phật giáo Đại thừa và được xem như một Thánh chỉ cần phải hướng đến nếu muốn giác ngộ. Nhưng ba từ này to lớn quá, nó chẳng khác nào cõi mộng, chẳng ai dám ước mơ. Hội thứ VI, ĐBN với ba phẩm Pháp giới, Pháp Tánh và Bình đẳng tánh đều nói đến Chơn như của tất cả pháp, hay “12 tên gọi là thật tướng các pháp” là những chỉ dẫn thiết thực nhất được Phật vạch ra để cho bất cứ chúng sanh nào học Phật đều thấy “Cây cỏ cùng ta đồng gốc, sông núi với ta đồng nguồn” hay “Người hội muôn vật làm mình, ấy là Thánh nhân”. Nếu thực hiện được những gì mà Phật dạy trong Hội thứ VI này thì có thể tuyên bố: “Chạm mắt tức Bồ đề”, “Tất cả thanh sắc đều là mắt tuệ Phật”… Đó chính là nhập pháp giới!

cu si thien buu-2
Cư Sĩ Thiện Bửu



Ngoài ra, phần lớn các giáo lý khác giống như 5 Hội trước. Nên có một số học giả xếp loại “Hội thứ VI giống như năm Hội đầu Đại Bát Nhã”. Điều đó không đúng lắm. Không khí Hội thứ VI khác hẳn 5 Hội đầu. Vả lại, Hội thứ VI Phật trao chánh giáo pháp tạng cho riêng Thắng Thiên Vương mà thôi. Ngoài ra, trong pháp hội này Phật dạy cho Thắng Thiên Vương cũng như tất cả những người con Phật cách tu tịnh hạnh của Bồ Tát đạo hay Bồ Tát hạnh, các pháp tu rất cần thiết đối với người tu Đại thừa.

Tóm lại, đứng về phương diện tổng quát, nội dung của Hội thứ VI không khác với 5 Hội đầu, chỉ khác là Hội này viết ngắn gọn, xúc tích đặc biệt là triển khai chơn như để hiểu rõ các pháp như pháp giới, như pháp tánh, như bình đẳng tánh… là một như, như này vô tận không hai không khác như đã lược tóm ở trên.

 

Để kết luận, chúng tôi có thể nói quyển sách này trên căn bản cũng giống như Hội thứ VI, ĐBN do chúng tôi biên soạn trong Tổng Luận Đại Bát Nhã, Quảng Đức Tùng Thư ấn hành(có đăng trên Trang Nhà Quảng Đức). Sở dĩ, chúng tôi viết thành một quyển sách riêng biệt để những độc giả nào muốn thọ trì Đại Bát Nhã, hay Tổng Luận Đại Bát Nhã (hơn 6.500 trang) mà không có đủ thời giờ tu học, thì quyển sách này giúp ích rất nhiều, vì tất cả giáo lý, kỹ thuật tu trì quán chiếu đều có đủ trong Hội thứ VI. Vì Tổng luận Đại Bát Nhã quá dài nên chúng tôi không thể triển khai thêm nữa. Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là quyển sách nhỏ này nói lên vai trò quang trọng của các pháp như pháp giới, pháp tánh, bình đẳng tánh. Nhờ tu các pháp tu này mà nhập pháp giới tức được Giác ngộ. Đó là cốt tủy của Hội này./.

 

---o0o---

 

 

Nam Mô Bát Nhã Hội Thượng Bồ Tát Ma Ha Tát.

 

San Jose, CA, ngày 24-06-2025

Cư sĩ Thin Bu.

 

HẾT

pdf icon-2
Hội Thứ VI Đại Bát Nhã hay Kinh Thắng Thiên Vương Bát Nhã









Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com