Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Trụ cột bền vững: Chánh niệm & Lòng từ

03/05/202500:15(Xem: 454)
Trụ cột bền vững: Chánh niệm & Lòng từ

phat thanh dao

Trụ cột bền vững:
Chánh niệm & Lòng từ 
[1]

                                                                                    

Bhikkhuni Dr. Thich Tịnh Vân

 

Trong Phật giáo, Chánh niệm và Lòng từ là hai thực hành mạnh mẽ, chúng có mối liên hệ mật thiết và hợp lực cùng nhau tạo thành sự phát triển bản thân và cải thiện sức khỏe cảm xúc. Cả hai cột trụ phát triển bền vững này không những xuất phát từ truyền thống phát triển tự thân chữa lành mà còn được áp dụng rộng rãi trong nền giáo dục tâm lý hiện đại đang hằng ngày diễn ra trong đời sống thường nhật của chúng ta. Đây cũng chính là chủ đề tâm linh đạo đức mà bài tham luận đề cập đến.

Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, chúng ta cần sống có nền tảng ‘đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới’.[2] Muốn vậy, chúng ta nên bắt đầu thay đổi tâm mình bằng cách ghi nhận/ đánh giá một cách trung thực về những hoạt động quen thuộc hằng ngày đang diễn ra từ những việc cấu uế/ bất tịnh nhỏ nhặt nơi ba nghiệp thân khẩu ý mà lối sống đời phàm chúng ta thường lặp lại/ vấp phải thành lối sống cao thượng, có hiểu biết, khéo tư duy lành mạnh. Ví dụ không làm khổ mình, khổ người qua những lời nói vốn dĩ cũ mèm thường xuyên tái xuất từ giọng điệu thô lỗ, mất tỉnh giác do thiếu ái ngữ … thành lời nói có ý thức, tĩnh lặng, nhân đức hơn. Chỉ khi nhận thức đúng mới khiến chúng ta có tàm có quý/ biết ăn năn cải đổi, còn không cứ khư khư chấp giữ bản chất phàm gây tội mắc lỗi và một khi đã phạm vào các sai lầm thì dù nhỏ nhặt đến đâu con đường tu tập lâu dài phía sau khó mong vinh hiển.

Với ý thức trọn vẹn điều này con người trở nên ‘sống dịu dàng, có trách nhiệm, biết tri túc, thường hoan hỷ / Santussako ca subharo ca, Appakicco ca sallahukavutti’.[3] Người sống thật thà luôn xác định hướng đi rõ ràng và tuân thủ những chuẩn mực mà mình đặt ra, vì người đó tin chắc vào giá trị đích thực bản thân. Từ tận đáy lòng chân thành và trung thực con người tự rèn luyện, lan tỏa tình thương và sự tôn trọng đến với những người chung quanh. Với mục tiêu và ý nghĩa cuộc sống đời thường, chúng ta có chung cảm nhận ước mơ trân trọng điềm lành, một ước mong thiết thực nên đức Phật thị hiện: ‘Chư thiên và loài người, Suy nghĩ về điềm lành, Mong ước về điềm lành, Mong đức Phật dạy cho/ Bahū devā manussā ca, maṅgalāni acintayuṃ, Ākaṅkhamānā sotthānaṃ, brūhi maṅgalamuttamaṃ’.[4]

Giúp ước mong trở thành hiện thực, trước hết con người phải nỗ lực tìm kiếm giải pháp ổn định bản thân sau đó mới mong tương lai nhân loại có được cuộc sống an lạc lâu bền, bởi vì tiêu chí, giá trị đích thực con người khi xuất hiện ở đời không gì lớn lao ngoài: ‘đem lại hạnh phúc và an lạc cho số đông,  lợi ích, vì hạnh phúcan lạc cho chư Thiên và loài người’.[5] Với bổn hoài như vậy ‘Chánh niệm & Lòng từ’ là hai nguyên tắc cốt lõi của Phật giáo.

I/ Chánh niệm (Sati): là tỉnh thức trong việc làm/ hành động của mình, cải thiện khả năng tập trung vào nhiệm vụ, giải quyết các thách thức bằng sự sáng tạo, hợp tác và tầm nhìn xa để suy giảm sự xao lãng thất niệm. Trong khi Lòng từ thúc đẩy con người hành động và phát huy lòng tốt, cũng là tôn trọng quyền sống của mọi sinh linh giúp vơi khổ đau cho mình và người. Thông thường, người ta nghĩ rằng hạnh phúc mà con người hướng đến/ thọ dụng các dục ‘không ngoài dục, dục tưởng, dục tầm’,[6] ví dụ: con người với thói quen ‘Mắt ưa xem huyễn cảnh hằng ngày - Tai thích tiếng mật đường dua nịnh’[7]… Trong khi người có học giáo lý, nghe giảng nhiều sẽ kinh qua những chuyển đổi mà chúng ta thấy rất lợi ích khi tiến bước trên con đường học đạo như khi phải đối mặt với những trở ngại của buồn lo, thành bại trong cuộc sống, người ta biết chế ngự chúng nhờ công phu tu tập, nghĩa là có chủ động và tự giác để tu luyện bản thân, biết thay đổi cách sống, làm mới bản thân trong quá trình tu tập của mình ví như sự quyết tâm, kiên nhẫn và nỗ lực không ngừng. Đơn giản việc chúng ta hằng tâm niệm về Tam pháp ấn/ ti-lakkhaṇa, một lời dạy hết sức xác thực và phù hợp với thực tế hiện tại trong các lời dạy của đức Phật, rằng: ‘mọi vật không thường hằng (anicca), không thực thể (anattā), luôn khổ đau (dukkhatā), khi chúng hình thành và hoại diệt’.[8] Giả như khư khư ôm giữ, bám víu dính mắc vào những ý nghĩ xấu, tiêu cực hay mơ tưởng bao la vũ trụ … sớm muộn nào cũng sẽ dẫn đến hành động sai lầm tưởng mình luôn đúng rồi cố chấp, không chịu thay đổi.

Thực hành chánh niệm cũng vậy, giúp con người ngay tại phút giây hiện tại hoàn toàn làm chủ suy nghĩ, cảm xúc, cảm giác cơ thể và môi trường với sự chấp nhận quan sát không phán xét, phản ứng, biện hộ cho những cảm xúc riêng mình, vì thế con người đã trực tiếp giảm xu hướng chỉ trích hay đổ lỗi cho người. Chẳng hạn những nỗi đau tâm lý có thể là mặc cảm tội lỗi hay một ký ức kinh hoàng nào đó … thay vì chấp nhận cảm xúc tiêu cực của chính mình, ngược lại chúng ta mạnh mẽ tự ra lệnh với bản thân không cho phép gán ‘yếu đuối’ mà cương quyết hoán đổi chúng bằng cách nuôi dưỡng lòng từ qua việc chấp nhận, bằng lòng khi chúng diễn biến/ phát khởi. Nghĩa là không cố gắng đẩy lùi nỗi đau mà ngược lại đón nhận, có mặt với nó trong tâm khảm, nơi chứa đựng những tình cảm thầm kín nhất của bạn. Không để nỗi đau tiếp tục chạy theo ảo tưởng mà chỉ đơn thuần theo dõi quán sát nỗi đau tinh thần hiện tại đến khi thấy nó lụi dần và tan biến trong hư vô như kiểu ung nhọt nơi thể xác tự bị phá vỡ.

Tương tự vậy nỗi đau khi tan biến bạn có thể cảm thấy thân nhẹ nhàng tâm hồn thoải mái, một sự bình an đến lạ ghé thăm, mãi khi tâm trạng thích nghi thuần thục, nhuần nhuyễn thì dầu những cái đau thuộc về thể xác hay tinh thần mà xưa kia một thời nổi loạn, giờ đây không tiếp tục xảy ra theo tình huống lặp lại hay tái xuất. Thậm chí cái đau bây giờ có thể to phồng hơn trước nhưng thực tế nó chỉ là phần xẹp vỡ so với những nỗi đau mà bạn đã kinh qua và tất nhiên đủ sức đối mặt nhờ biết cảnh tỉnh/ phòng hộ/ hộ trì.

Vậy thì có thực tập chánh niệm tỉnh giác, con người lâu ngày nhận diện được đích đến ‘Hôm nay nhiệt tâm làm - Ai biết chết ngày mai’.[9]  Thế nên sự tự nhận thức kiểm soát căng thẳng, cải thiện khả năng tập trung và phát triển trí tuệ cảm xúc, giúp thoát khỏi những phản ứng máy móc và phiền nhiễu ngày đêm đang ngự trị trong tâm trí thay vào biết tự vệ:

‘Quán sát thân thể này – Bản chất là như vậy

Sanh ra rồi già chết – Không thể nào khác hơn

Cho nên sống chánh niệm – Gột rửa hết tham ưu

Không nương tựa chấp trước – Bất cứ gì trên đời’[10]

Duy chỉ chánh niệm tỉnh thức mới làm chủ được tâm ý, đánh mất chánh niệm rồi, con người không gột rửa hết tham ưu vì thái độ yêu chiều bản ngã quá đáng chỉ làm hạn chế về tầm nhìn của ba nghiệp thanh tịnh nơi tự thân mà thôi. Ví dụ: Khi bạn quán sát nỗi buồn sanh khởi một cách có chánh niệm, bạn cảm nhận được nỗi buồn giờ đây không còn và sự tiếp nối là cảm giác hạnh phúc khi cơn đau tan biến. Lúc này bạn có được sự tự tin về khả năng đối diện sự thật, sự trải nghiệm vượt khó nhờ không ngừng nâng cao bản lĩnh, thể lực, khơi dậy tiềm năng trí tuệ và sự sáng tạo. Vậy biết làm chủ tâm mình để đáp ứng yêu cầu hoạt động trong mọi lãnh vực, thì chính Chánh niệm giúp bạn hành trì đều đặn liên tục từng phút giây để phương pháp luyện tâm / chuyển hóa tâm / chú tâm … phát triển những thói quen lành mạnh, lâu dần tự thân có được nề nếp/ khuôn khổ của cuộc sống tươi sáng, tích cực hơn đồng nghĩa đẩy lùi, giảm thiểu những gì mà bạn xưa kia bị lấp vùi bởi những thất vọng, tiêu cực bi quan. Dẫn chứng rõ thêm cho thấy con người thường có thói quen xem mình là trung tâm của các mối quan hệ nên tâm cấu uế (cittassa upakkilesa)[11] chất chồng những lo âu, phiền muộn vu vơ, những phiền nhiễu không căn cứ/ không mục đích này luôn chiếm ngự và quấy rối. Trong khi thực tế chỉ ra cấu tạo con người là vô ngã (anattā), sự tạo thành đó lại luôn biến đổi (vô thường/ anicca), bất kỳ cái gì biến đổi cái ấy phải chịu khổ đau ‘Yaṃ aniccaṃ taṃ dukkhaṃ’,[12] thì cớ sao lời vàng nổi tiếng được truyền dạy lâu đời lại mau bước vào quên lãng:

‘Yaṁ kiñci samudayadhammaṁ,

Cái gì sẵn có bản chất của sanh

Sabbaṃ taṃ nirodhadhammaṃ-ti.

Cái đó sẵn có bản chất của diệt’.[13]

Thêm nữa, với cách nuôi dưỡng chánh niệm con người hầu như không có biểu hiện phản ứng bốc đồng hay tác động phản kháng tiêu cực nào … nhờ trạng thái ‘an tịnh trầm lặng’ luôn là thành trì, an trú vững chắc. Ví như khi chợt nhận ra tâm mình hoảng loạn, giao động … thay vì phán xét tự thân không đạt được mục tiêu, con người lúc này mau chóng nhận ra và thay đổi cách tiếp cận để trở lại việc làm đơn giản với tên gọi ‘tự điều sống theo pháp’. Ví dụ khi nghĩ đến nỗi đau mà người khác đang phải hứng chịu chẳng hạn như đau về thể xác hay tinh thần do bệnh tật, thiếu thốn, chia ly với người thân yêu và những vấn đề nan giải khác ập đến thình lình … con người thay vì cố sức tìm hiểu nguyên do phía ngoài tác động nặng nề hãy mau chóng trở về bên trong quyết định bằng cách chọn cho mình những thứ nhẹ nhàng dễ kiếm sẵn có trong mỗi chúng ta để lắng lòng - Chính là ‘hơi thở’. Phương pháp điều tâm hướng đến hơi thở giúp con người tịnh tâm bằng cách đơn thuần xác nhận và ghi nhớ cảm giác của hơi thở vào hoặc ra mà thôi. Có một sự thật cho thấy hơi thở lúc nào cũng hiện diện, trung thành bên mình, chúng ta rõ ràng không phải phí công sức hay bị bất kỳ rào cản nào để cố công tìm kiếm. Hơi thở cũng không phụ thuộc vào cảm xúc, suy nghĩ hay sự chọn lựa nào. Tương tự, Chánh niệm rèn luyện cho bạn sự ý thức trực tiếp, như khi thấy chỉ cần biết là thấy, nghe chỉ là nghe, xúc chạm chỉ là xúc chạm, biết chỉ là biết … Có thể nói rằng tập trung vào hơi thở là một phương cách hữu hiệu giúp cải thiện sức khỏe để vun trồng trạng thái tâm an, như khi bạn hít vào qua mũi từ từ, dồn khí xuống dưới làm cho bụng phình lên. Sau đó, từ từ thở ra, ép bụng xuống và đẩy hết khí ra ngoài hoặc thở đan điền là hít thở sâu bình thường, không gắng sức, cốt tập cho hơi thở vào ra một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, nhuần nhuyễn. Vấn đề đặt ra là bạn chỉ cần chú tâm vào cảm giác. Chẳng hạn khi hơi thở vào hoàn tất để trước khi thở ra, nên có điểm dừng. Bạn quan sát ghi nhận nó và tiếp tục ghi nhận sự bắt đầu của hơi thở ra, tương tự khi hơi thở ra hoàn tất, cũng có điểm dừng rất nhanh trước khi bắt đầu có hơi thở vào. Chú ý ghi nhận khoảng cách ngừng này xảy ra nhanh đến nỗi có thể bạn không để ý đến chúng. Nhưng với sự tỉnh giác có mặt, bạn nhận ra được hơi thở vào ra khởi đầu có thể dài, nên ghi nhận được cảm giác dài của chúng, tức thì thân bạn lúc này chuyển đổi an tịnh. Nếu hơi thở bạn bỗng nhiên thành ngắn, hãy ghi nhận hơi thở và cảm giác ngắn. Sau khi ghi nhận từ lúc bắt đầu đến khi chấm dứt quá trình của hơi thở, giờ đây hơi thở có thể đã thành thuần tịnh hơn. Vì vậy thân tâm ghi nhận cảm giác bình an nhờ biết thực tập Ānāpānasati ‘Quán niệm hơi thở’[14] như trong Kinh dạy. Lại nữa, trong khi thực hành nếu nhận ra tâm mình không an trú nơi hơi thở, hãy điềm tĩnh quay lại từ đầu và buộc nó một cách có chánh niệm. Sự lặp lại này có tập trung ý niệm vào hơi thở đúng phương pháp, bạn sẽ cảm nhận được sự viên mãn nhờ khả năng hổ trợ lẫn nhau khiến thân thể được khỏe mạnh, kéo theo khí huyết lưu thông, âm dương hòa hợp.

Vậy chánh niệm là phương pháp duy nhất cũng là bản chất thật để vun trồng sự tỉnh thức trong từng phút giây hiện tại mà thân tâm con người xúc chạm. Khi cơ hội tiếp cận nhuần nhuyễn tích cực, công việc hành trì trở nên thấm nhuần, xác thực … sự thực hành Chánh niệm trở thành khéo quán sát, cũng là lúc chúng ta nghiệm ra được có sự thay đổi lớn trong cuộc sống bản thân như Chánh niệm nơi thân (Kāyānupassanā ānāpānapabba), Chánh niệm nơi cảm thọ (Vedanānupassanā), Chánh niệm nơi tâm (Cittānupassanā) và Chánh niệm nơi pháp (Dhammānupassanā nīvaraṇapabba). Đạt đến phút giây này, có thể nói bạn đã biết ứng dụng ‘thiền minh sát’ với tên chung là thiền ‘Tứ niệm xứ/ Satipaṭṭhāna’.[15]

Lại nữa, trong mỗi công đoạn tu tập, chọn lựa đối tượng nào để Chánh niệm trên bốn nền tảng vừa nêu sẽ không bao giờ đóng vai trò chủ chốt, chỉ có hành động ghi nhận ‘sống với Chánh niệm và Xả ly’[16] đừng để mình dính mắc bởi người / vật vì dính mắc/ sở hữu (những thứ khó buông) dẫn đến hiểu biết sai lầm/ Vô minh (khổ đau) là hậu quả xáo trộn, gây chướng ngại lớn trong cuộc sống an nhiên của mình. Ví dụ: Khi cảm thọ khởi, bạn quan sát/ nhận biết rõ ràng chính xác chỗ nào, những rung động ra sao: mạnh / yếu// nhẹ nhàng / thô // ngắn / dài … nhưng không bao giờ cố gắng kích hoạt / tưởng tượng thêm những cảm thọ khác…

Vậy thì lời đức Phật dạy không chỉ đơn thuần tạo sức mạnh to lớn trong việc cải thiện đời sống tâm linh mang lại cảm xúc tích cực xoa dịu nỗi buồn, lo lắng, giúp con người cảm thấy vui vẻ, yêu đời mà còn là nguồn cảm hứng tạo nội lực động viên, khích lệ hàng Phật tử chúng ta thay đổi cách suy nghĩ và hành động đúng lúc kịp thời nhằm vượt qua chông gai thử thách để vươn tới những giá trị tích cực và thành công. Chánh niệm không những thắp sáng niềm tin giúp Phật tử chúng ta nhìn nhận giá trị cuộc sống một cách lạc quan, tin vào tương lai tươi sáng mà còn bồi dưỡng tâm hồn hiểu rõ hơn về giá trị đạo đức, nhân văn, từ đó hoàn thiện nhân cách mang tính triết lý ‘này các Tỷ kheo, đây là con đường độc nhất (ekāyano maggo), đưa đến thanh tịnh cho chúng sinh, vượt khỏi sầu bi, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chính lý, chứng ngộ Niết-bàn / Ekāyano ayaṃ, bhikkhave, maggo sattānaṃ visuddhiyā, sokaparidevānaṃ samatikkamāya, dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya, ñāyassa adhigamāya, nibbānassa sacchikiriyāya’.[17]

Chính con đường độc nhất (Bát Chánh) là con đường dẫn đến sự đoạn diệt tất cả mọi khổ đau bởi vì ngoài việc quay lại chân tâm đạt những giai đoạn thiền định an tịnh cao còn cần Chánh niệm con đường thanh lọc tâm bằng cách buông bỏ ba độc và mọi sở hữu thế gian. Ví như khi có Chánh niệm, chúng ta dễ dàng quán sát sự sợ hãi và hoài nghi một cách thấu triệt. Cũng vậy, trong chân tâm, con người tuy biết mọi thứ, nhưng đó không phải là cái biết do học hỏi từ thế giới bên ngoài mà là cái biết của tự thân phải nổ lực. Kết quả, tăng khả năng nhận thức/ thấu hiểu nội tâm cũng giống như biết cách nuôi dưỡng cảm giác bình an, là điều kiện cốt lõi/ nền tảng cho thực hành từ bi, cũng là lộ trình tu tập đạt cứu cánh an lạc ‘Cái gì là lõi cây, cái ấy sẽ tồn tại lâu dài / Yo sāro so thassati’.[18]  

II/ Lòng từ (Mettā): Để có hạnh phúc thật sự,  Lòng từ bắt nguồn từ trái tim của sự đồng cảm, yêu thương tất cả hữu tình (sattesu sammā paṭipatti) và muốn biểu hiện qua cách thể hiện thiện chí, thiết thực của lời nói, cử chỉ hay sự trợ lực: ‘Như mẹ hiền che chở, bảo vệ suốt đời con, cũng vậy trong chúng sanh, phát triển tâm vô lượng / Mātā yathā niyaṃ puttaṃ, Āyusā ekaputtamanurakkhe, Evampi sabbabhūtesu, Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ’.[19]

Với ý thức ‘Thọ mạng con người ngắn ngủi, chúng ta rồi sẽ phải bước đến cái chết, vì thế tâm tư cần bừng tỉnh bằng những việc thiện lành của tam nghiệp, sống thật với phẩm chất thanh tịnh/ sống đời phạm hạnh, thì khi tái sanh ắt không bị chướng ngại, đó là lời dạy của đức Thế Tôn / Vuttanhetaṃ bhagavā: ‘Appamidaṃ, bhikkhave, manussānaṃ āyu, Gamanīyo samparāyo, mantāya boddhabbaṃ, kattabbaṃ kusalaṃ, caritabbaṃ brahmacariyaṃ, Natthi jātassa amaraṇaṃ’.[20]

Do muốn lưu giữ/ duy trì thọ mạng của mình, con người cần được thức ăn nuôi dưỡng, với lý do này ‘Thức ăn đóng vai trò quan trọng’ hàm ý cô đọng triết lý cốt lõi của lời đức Phật dạy ‘không biến việc ăn uống thành một thói quen’ để phải đánh mất chánh niệm. Chẳng hạn khi những hành giả tham gia thực hành khóa thiền, họ dứt khoát từ bỏ bữa ăn vì cầu ‘thừa tự pháp’, điều này chứng minh rằng một khi ta nghĩ mình đói, điều đó không phải mình đói thực sự mà chỉ là ý nghĩ sai lầm của việc quen thọ hưởng tài vật. Trong kinh điển bậc Đạo sư thường nhắc nhở đệ tử Ngài hãy là những người thừa tự Pháp, có trách nhiệm học tập, thực hành và truyền bá giáo pháp mang lại lợi ích lâu dài và bền vững. Nếu chỉ thừa tự tài vật, lợi ích tạm thời, lâu dần đánh mất thói quen kham nhẫn sẽ nhận khổ đau về sau vì đối mặt với biến đổi vô thường … qua lời nhắn nhủ ân cần đầy tình thương của đức Từ Phụ ‘Bậc Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử Ngài hãy tùy học viễn ly’.[21]

Thực tế điều này khuyên dạy chúng ta hãy nhớ rằng con người sống được nhờ sự kết hợp hài hòa của rất nhiều yếu tố trong đó có thể xác lẫn tinh thần. Chính vì để cuộc sống trở thành hành trình mang đậm ý nghĩa hơn, con người cần có trách nhiệm xây dựng cho bản thân một lối sống vững chãi thông qua bốn loại thức ăn:[22]

1. Đoàn thực/ kabaliṅkāhāra / thức ăn thông thường hàng ngày, thô và tế

2. Xúc thực/  phassa / sự giao tiếp giữa căn và trần có chánh niệm, tỉnh giác

3. Tư niệm thực / mano – sañcetanā / luôn nhớ nghĩ về Phật, Pháp, Tăng

4. Thức thực / viññāṇa / nhận thức rốt ráo về giá trị của tấm thân này, tô bồi đạo đức cho sáng.

Thông điệp này, rõ ràng là cơ hội để đức Phật truyền tải trực tiếp giá trị tâm linh sâu sắc nhờ sự trải nghiệm học hỏi hành trì giáo lý mà đạt được sự kết nối. Nó được thể hiện qua cách nuôi dưỡng, lòng biết ơn đến tấm thân này bằng lời dạy thiết thực ‘được sanh làm người là quý’.

Khó thay được làm người - Khó thay được sống còn

Khó thay nghe diệu pháp - Khó thay Phật ra đời’[23]

Chính vì thức tỉnh tâm linh là một sự thay đổi sâu sắc trong ý thức / nhận thức giúp chúng ta hiểu rõ hơn về mục đích sống / ý nghĩa cuộc đời. Nó mang lại cho con người cảm giác bình an, hạnh phúc nội tại và cũng là bước khởi đầu cho sự vun trồng tâm hướng thiện như bố thí, kham nhẫn, niềm tin cùng các đức tính cao thượng khác … vậy thì chỉ có tấm lòng trung thành, xuất phát từ thiện tâm mới thay đổi cuộc đời làm cho đời này tốt đẹp, tươi mát và ý nghĩa hơn. Lắng nghe, thấu hiểu, quan tâm đến người là thể hiện sự tôn trọng đối với người và người bằng cách mở lòng sống theo những giá trị đạo đức cao đẹp, chăm sóc/ tưới tẩm tâm để duy trì/ nâng cao tính kỷ luật nơi suy nghĩ, lời nói và hành động … những việc được coi là rất đời thường. Ví dụ: Bố thí cũng được xem là biết chia sẻ một cách đúng thời khi nhớ lại niềm vui của người đón nhận. Từ việc làm đó tự thân cảm thấy rất hoan hỷ và vui lây khi được trao tặng đến người … Đó là trạng thái hân hoan vui mừng mà tất cả chúng ta ai cũng đều chung có và cần có.

Thấu hiểu đức Phật của chúng ta vì một đại sự nhân duyên ra đời ‘Đại từ đại bi mẫn chúng sanh, Đại hỉ đại xả tế hàm thức’. Tấm lòng đại từđại bi thương chúng sanh của Ngài mà Ngài Đại hỷ, đại xả, cứu chúng sanh. Học được đức tánh ‘đại từ’ nơi Ngài, chúng ta thực tập khởi niệm lành khiến chúng sanh được an vui và chính chúng ta cũng cùng vui với cái vui của chúng sanh. Học ‘đại bi’, nghĩa là thấy chúng sanh ưu bi khổ não thì chúng ta không những xót thương thông cảm lại còn tìm cách làm thế nào để chúng sanh thọ nhận được những quả ngọt mà vơi đi sự thống khổ. Với ý nghĩa cao đẹp này ‘Từ bi là căn bản của đạo Phật’ vì từ bi chính là cùng chúng sanh hợp nhất nguyên do cũng cùng chúng sanh thọ lãnh kết quả của sự vui khổ.

Có thể nói Lòng từ là một trong Bốn Vô Lượng Tâm (Brahma-vihāra) được xem là cao thượng (Brahma), lòng từ là con đường đạo đức trong sáng, chuẩn mực trân quý, sức mạnh niềm tin, lối sống tối giản và giá trị đích thực, toát lên ý nghĩa ‘Không làm điều ác nhỏ mà người trí khiển trách. Mong tâm nguyện an vui, mong tất cả chúng sanh, đều tràn đầy hạnh phúc / Na ca khuddaṃ samācare kiñci, Yena viññū pare upavadeyyuṃ, Sukhino vā khemino hontu, Sabbe sattā bhavantu sukhitattā’.[24]

Thấm hiểu để nói lên rằng Lòng từ là nơi trú ngụ (vihāra) an toàn nhất cho bất kỳ loài hữu tình nào muốn lưu trú góp phần tự lợi, lợi tha. Một số người có thể dễ dàng phát khởi lòng từ đến tất cả chúng sanh bởi vì giúp người khác là điều quan trọng chẳng hạn hiện tại chung quanh có thể chúng ta đang có rất nhiều trách nhiệm đối với các mối quan hệ thân thiết như gia đình / người thân ... nhưng trong lời dạy của Đức Phật cũng từng có lần thuyết về cuộc sống sẽ trở nên đậm ý nghĩa, giá trị vì cuộc sống đó mang lại an lạc và hạnh phúc lâu dài/ bền vững trước nhất nhờ tự thân/ cá nhân phải tinh cần/ nỗ lực: ‘Nỗ lực, không phóng dật - Tự điều, khéo chế ngự - Bậc trí xây hòn đảoNước lụt khó ngập tràn’.[25]  Thật vậy, chỉ có người biết tự điều phục/ tiết chế/ phòng hộ sống theo Chánh pháp, vì ‘Pháp là tối thượng giữa các loài hữu tình trong đời này và mãi đời sau’,[26] mới có thể tự mình xây dựng lên hòn đảo để nước lụt (phiền toái) không thể ngập tràn vào (bản tâm thanh tịnh). Sau khi tự mình nỗ lực, cố gắng vượt qua những gian truân, thử thách để đạt an lạc, hạnh phúc, thì chính người an lạc đó mới có khả năng giúp đỡ chia sẻ đến người khác bằng những trách nhiệm, kiến thức, kinh nghiệm của mình trên con đường thực hành.

Chính vì lẽ này, lời dạy đầu tiên của đức Phật luôn nhắm vào ‘tâm’ con người: ‘thành tựu các việc lành (kusalassa upasampadā)’ - Một sự thật rất người, rõ ràng và dễ tiếp cận. Vậy nên, con người/ loài hữu tình cần chú trọng đến ‘nhân/ hành động’ mình gây, tạo, gieo, trồng: ‘Cetanāhaṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi’.[27] Nói một cách chơn thật, dễ hiểu: nghiệp là hành động có cố ý/ tác ý qua việc làm (kāya-kamma), lời nói (vacī-kamma) và ý nghĩ (mano-kamma). Vì: ‘các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp (kammassako), là thừa tự của nghiệp (kammadāyāda). Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; có liệt, có ưu’.[28] Thật hợp lý khi cho rằng tất cả chúng sanh đều từ nghiệp mà sanh ra, nghiệp ấy do tâm tạo, như vậy sự chuyển nghiệp cũng phải phát xuất từ tâm mà chuyển đổi. Vậy công bằng nói rằng vấn đề con người chịu khổ đau hay thoát khỏi lẩn quẩn khổ đau chính là động lực con người tự xây/ tự quyết/ tự nhận. Điều này rất phân minh, đòi hỏi sự phản tỉnh/ quan sát tư duy ý nghĩ, đức tánh làm chủ của mình để phòng tránh lỗi lầm về sau. Có vậy tự thân mới mong phát triển theo hướng đi lên/ có tiến bộ.

Nhưng thông thường, để làm được điều này con người cần bắt đầu việc trải tâm từ với bản thân mình trước rồi sau mới tăng trưởng lòng từ đến với cha mẹ, thân quyến, bạn bè, những người quen biết lẫn cả không quen như những bạn bè không thân thích / ghét bỏ thậm chí kẻ thù … và cuối cùng là đến tất cả mọi chúng sanh. Cách thực hành đơn giản này giúp bạn dễ dàng chuyên chú khi trải lòng mình và cũng là để giúp bạn chế ngự được những sân hận có thể bùng phát bất cứ lúc nào kể cả ngay khi bạn đang chăm sóc/ duy trì và phát triển lòng từ.

Đức Phật đã từng dạy nếu ít có lòng chấp thủ hay tham dục, chúng ta có thể sống an nhiên giữa đám đông vì chúng ta có thể đã buông bỏ các ý niệm về sở hữu hay chiếm hữu: ‘Này các thầy Tỳ kheo, đây là thánh đế về Khổ diệt: chính là ly tham đoạn diệt hoàn toàn, xả bỏ, giải thoát, không chấp trước ái dục / Idaṁ kho pana bhikkhave dukkhanirodhaṁ ariyasaccaṁ: yo tassā yeva taṇhāya asesavirāganirodho - cāgo, paṭinissaggo, mutti, anālayo’.[29]

Có sự thật rằng khi chúng ta giảm thiểu được sự bám víu cố chấp, điều này đồng nghĩa chúng ta đã tiến gần đến sự giải thoát nội tại / bản chất của sự thanh tịnh mà trong kinh điển, những lời đức Phật dạy thường xuyên nhắc nhở:

‘Tự mình, làm điều ác - Tự mình làm nhiễm ô,

Tự mình không làm ác - Tự mình làm thanh tịnh.

Tịnh, không tịnh tự mình - Không ai thanh tịnh ai’.[30]

Với những lý do đã trình bày, con người nên gấp quay về nương tựa pháp (đối với các vị mới lãnh thọ pháp) sẽ được tán thán ‘Này chư Hiền, 1/ Vị Đạo Sư sống viễn ly, các đệ tử tùy học viễn ly 2/ Những pháp nào vị Đạo Sư dạy nên từ bỏ, những pháp ấy đệ tử cần từ bỏ 3/ Các đệ tử không sống trong sự đầy đủ, không lười biếng (đệ tử cần bỏ rơi gánh nặng về đọa lạc) và dẫn đầu về viễn ly’.[31]

Với cách hành trì này, tâm từ khuyến khích/ tác động đến tinh thần tạo điều kiện niềm tin thuận lợi để khích lệ sự hăng hái nhiệt tình mà cố gắng thực hành Phật pháp hơn. Con người hoan hỷ với sự tha thứ, chấp nhận hiện tại và nuôi dưỡng khả năng phục hồi cảm xúc nhằm tiến bước trên con đường học đạo. Ví như ngày nay, mọi người đều có thể nói ra những điều mình suy nghĩ, thái độ ứng xử và cho rằng những việc làm như vậy có thể là cách phản hồi thích hợp, nhưng thực tế đôi khi điều tốt đẹp nhất vẫn đơn giản là tập trung và chú ý lắng nghe rồi hiểu những gì người khác đang tỏ bày một cách trung thực và tôn trọng. Vậy thì đức kham nhẫn/ chịu đựng không có nghĩa là để người khác được quyền tự do lạm dụng chúng ta mà nó còn có nghĩa là bình tĩnh bộc lộ/ biểu hiện mình một cách hữu hiệu hợp thời, đúng lúc … nếu thiếu tỉnh táo, sự nóng vội có thể làm mình sẽ phải hối hận về những gì bạn đã hành động theo cách đối xử / thể hiện thái độ qua những lời nói, hành động cụ thể làm thương tổn đến người: ‘Chư Phật thường giảng dạy - Nhẫn, khổ hạnh tối thượng - Niết bàn, quả tối thượng - Xuất gia không phá người - Sa môn không hại người’.[32]

Đức từ kham nhẫn cũng có nghĩa là cố gắng hiểu người khác với tất cả khả năng của mình vì người khác cũng bị hiểu lầm, nghĩ sai và tổn thương như chính bạn đã từng bị đối xử. Đặt người vào tình thế/ vị trí mình để có thể tốt hơn trong những hoàn cảnh bất lợi, hãy tập nói hay làm những điều có chánh niệm từ bi. Giữ bình tĩnh dù bị khiêu khích, xúi giục … nghĩa là bạn đã có thể biến đổi bực bội, cáu gắt thành đồng cảm/ khả năng hiểu hoặc cảm nhận những gì người khác đang trải qua.

Thêm vào đó cũng không đổ lỗi cho người về sự bất hạnh của mình với hy vọng người sẽ mang hạnh phúc đến cho mình. Duy tự phản tỉnh tìm ra nguồn gốc/ nguyên nhân dẫn đến khổ đau mà vượt khó/ khắc phục nó. Nhờ đức nhẫn nại, trong mọi hoàn cảnh con người có được sự an định, bình thản sáng suốt không bị chi phối bởi cảm xúc khiến tạo tác thêm hành động sai lầm…

Vì lẽ này mà những dòng tư tưởng được lắng đọng / nội lực thành mạnh mẽ, kiên cường và trưởng thành giúp chúng ta an trú trong sự tỉnh thức. ‘Tâm từ’ cũng chính là niềm tin tĩnh lặng được thắp sáng từ sự tập trung vào người đang nói, không phân tán cũng không làm gián đoạn tâm trí. Kết quả tích cực sẽ lan tỏa từ trường năng lượng bình an của bao lần vượt khổ/ thử thách nhằm hoàn thiện chính mình: ‘Do thể hiện pháp lành, Hiểu thấu được an lạc - Karaṇīyamatthakusalena, Yantaṃ santaṃ padaṃ abhisamecca’.[33]

Có thể nói Lòng từ là một đức tính cao quý, cần thiết cho mỗi người. Tuy nhiên, việc rèn luyện nó không phải là điều dễ dàng, đòi hỏi sự kiên trì, kham nhẫn và nỗ lực không ngừng. Nếu bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt để rèn luyện tâm trí, sau này bạn sẽ đón nhận sự bình tĩnh và kiên nhẫn khác biệt hơn trong cuộc sống của mình. Ví dụ, mọi người thường chú ý tìm kiếm những điều to tát lớn lao bên ngoài như xây nhà kiên cố nhưng dường như ít ai thấu hiểu những công việc đó được tạo/ bắt nguồn từ những điều có sẵn tầm thường nhỏ bé trong mỗi chúng ta. Chính mái ấm tình yêu thương, sự che chở, đùm bọc là nơi quyết định xây thành ngôi nhà mà ai ai cũng cần tạo dựng. Với đức từ kham nhẫn tâm hồn ta được thanh thản, bình tĩnh, không nổi giận hay oán hận khi phải đối mặt với những điều bất công trái ý. Con người lại thêm sức mạnh nội tâm, ý chí kiên cường và lòng dũng cảm để vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Đức từ kham nhẫn cũng là nền tảng xây dựng các mối quan hệ tốt đẹp, hài hòa, góp phần vào sự tiến bộ bản thân qua việc học hỏi, trau dồi và phát triển tự thân với cộng đồng nhờ khéo 1/ quan sát và nhận diện cảm xúc tiêu cực như tức giận, buồn bã... để có thể kiểm soát chúng một cách hiệu quả 2/ biết suy nghĩ tích cực và tìm kiếm những mặt tốt trong mọi tình huống, loại dần những điều tiêu cực 3/ thực hành tha thứ không chỉ giúp người đã làm tổn thương bạn mà còn giúp bạn giải tỏa những cảm xúc tiêu cực. Được vậy sự lãnh hội về:

‘Thấy khổ và khổ tập, Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành, Đưa đến khổ não tận’.[34]

Vậy thì đỉnh điểm của lòng từ kham nhẫn chính là sẵn sàng hy sinh thân mạng, chấp nhận cái an bần để duy trì hạt giống phẩm hạnh, không thối chí trước những khó khăn chướng ngại.

Thật vậy, Lòng Từ (Mettā) luôn có vị trí đứng đầu đối với Bi (Karuṇā), Hỷ (Muditā) và Xả (Upekkhā). Tâm xả một thái độ cởi mở, vô tư, thả lỏng, không dính mắc, không chấp thủ, không thiên vị được xem là cốt tủy khi tâm từ mở ra. Chỉ với tâm bình đẳng, thanh thản này những tư duy ‘của tôi (mama), là tôi (asmi), tự ngã của tôi (attā)’ vụt biến đổi hoàn toàn. Cũng vì vậy, nhờ chánh niệm và lòng từ, bạn có thể thoát khỏi những phiền não tự thân trong hiện tại và lớn lao hơn là tránh được não phiền của ngày vị lai.

Một khi các căn được thanh tịnh do khéo hộ trì, thì giáo lý Vô ngã như không chấp trước các sở đắc khi được ca tụng tôn kính lợi dưỡng hoặc các tri kiến ngày xưa mong đạt giờ đây bỗng thành điểm dừng … nhờ trọn vẹn ly tham đối với mọi hiện hữu ở đời:

‘Cái này không phải của tôi (n’etaṃ mama),

Cái này không phải là tôi (n’eso’haṃ asmi),

Cái này không phải là tự ngã của tôi (na me so attā)’.[35]

Bởi thế, bản chất khát vọng chân lý kiên định nơi tánh không là biểu hiện sức mạnh tối thắng vượt trội, ‘Không vui mừng do không bị ái luyến tác động. Không bất mãn khi không bị tác động của phẫn nộ. Không bị tham ái và tà kiến dựa vào nhờ không kết hợp nương tựa bất kỳ tham ái và tà kiến. Không bị trói buộc bởi dục vọng và ái luyến nên thoát khỏi ái dục. Đã tách rời các ràng buộc và phiền não nên tâm trở thành không ranh giới. Như vậy tâm an trú’.[36]

           Tâm an trú chính là hạnh phúc đích thực vì làm chủ hành động trong các oai nghi: ‘Đứng đi ngồi hoặc nằm, cho đến khi tỉnh thức, hãy an trú niệm này, phạm hạnh chính là đây/ Tiṭṭhañcaraṃ nisinno vā, Sayāno vā yāvatassa vigatamiddho, Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya, Brahmametaṃ vihāraṃ idhamāhu’.[37]

           Thực hành rốt ráo như vậy, thì ‘Trong tất cả thế gian, tâm từ tâm vô lượng, cần phát khởi tinh chuyên, trên dưới và quanh mình, không oan trái không hận/ Mettañca sabbalokasmiṃ, Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ, Uddhaṃ adho ca tiriyañca, Asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ’.[38]

III/ Mối liên hệ giữa Chánh niệm và Lòng từ

Mặc dù chánh niệm và lòng từ có thể thực hành độc lập nhưng chúng cũng có thể tạo ra sức mạnh tổng hợp chữa lành tâm trí và củng cố các mối quan hệ, lại là nền tảng vững chắc thúc đẩy một thế giới nhân ái và bền vững hơn. Tình huống cho thấy Chánh niệm giúp con người hòa nhập với người khác một cách hòa đồng, thân thiện thay vì phản ứng, do dự. Còn Lòng từ nuôi dưỡng nhận thức chánh niệm, kết thành chu kỳ tích cực khuyến khích, quan tâm đến người nhờ hạnh lắng nghe thấu hiểu, không ngắt lời hoặc phê phán …

Cả chánh niệm và lòng từ giúp con người gắn liền lại với nhau một cách có ý thức trách nhiệm hơn nơi hành động của mình với môi trường và cộng đồng xung quanh, giúp con người không những đương đầu với nỗi đau cá nhân mà còn giảm đi nỗi khổ của người khác: ‘Đừng lừa dối lẫn nhau, đừng coi thường điều gì, do ý niệm sân si, đừng làm khổ lẫn nhau/ Na paro paraṃ nikubbetha, Nātimaññetha katthaci naṃ kiñci, Byārosanā paṭighasaññā, Nāññamaññassa dukkhamiccheyya’.[39]

Như vậy chánh niệm và lòng từ thúc đẩy sự tự chữa lành tạo hạnh phúc cá nhân và tập thể, nuôi dưỡng sức khỏe thể chất lẫn tinh thần và cảm xúc để giải quyết các vấn đề cấp bách của thời đại. Cuối cùng hãy tin vào khả năng tìm được hạnh phúc lâu dài của bạn nhờ đặt trọn niềm tin vào giáo lý, bản thân, hạnh lành … gọi chung là ‘niềm tin bất động’. Vậy thì tín tâm giúp chúng ta không những phát triển tự thân thông qua việc quán sát kinh nghiệm cá nhân mà còn sở hữu lòng tin tự chủ để nâng cao những khả năng cá nhân sẵn có, do biết nhìn nhận và tiếp cận mọi tình huống một cách tích cực. Cuối cùng với sự nỗ lực cụ thể mang lại kết quả triển vọng tốt đẹp, đáng tin tưởng nhờ cảm nhận niềm vui trong sáng suy nghĩ tích cực mà thành tựu cuộc sống vững chãi / thành công hơn. Như vậy hai trụ cột bền vững này tạo điều kiện / cơ hội để mọi người cùng học về lòng nhân ái, công bằng và chân thật.

Tóm lại, sức mạnh của Chánh niệm và Lòng từ nâng cao trí tuệ cảm xúc và khả năng tự nhận thức làm giảm căng thẳng lo lắng, mở ra con đường dẫn đến thế giới hòa bình, đồng cảm, hài hòa và bền vững: ‘Kính lễ và hạ mình, Biết đủ và biết ơn, Hợp thời, nghe Diệu Pháp/ Gāravo ca nivāto ca, santuṭṭhi ca kataññutā, Kālena dhammassavanaṃ [dhammasavaṇaṃ (katthaci), dhammasavanaṃ’.[40]

 



[1] May 6 – 8 th 2025, at the Vietnam Buddhist University (Le Minh Xuan Campus, Binh Chanh District, HCMC

[2] MN. 6, Akankheyya sutta (Kinh Ước Nguyện)

[3] Metta Sutta

[4] Mangala Sutta

[5] AN. Ekapuggala Vagga

[6] MN. 22 Kinh Xà Dụ

[7] Bài Sám quy y Tam Bảo

[8] SN. III. Yamaka sutta

[9] MN. 131 Bhaddekaratta sutta

[10] DN. 22 Đại Niệm xứ/ Mahāsatipaṭṭhāna sutta

[11] MN. 7, Vatthūpama sutta

[12] MN. 13 Mahādukkhakkhanda

[13] Dhammacakka-ppavattana-suttaṃ

[14] MN. 118, Ānāpānasati sutta

[15] MN.10 Satipaṭṭhāna sutta

[16] MN.111 Kinh Bất đoạn

[17] MN. 10 Kinh Niệm xứ

[18] MN. 122 Kinh Đại Không / Mahāsunnata sutta

[19] Metta Sutta

[20] Sutta piṭaka, 804

[21] MN. 3 Kinh thừa tự Pháp / Dhammadāyāda sutta

[22] MN. 7, Vatthūpama sutta

[23] Dhp. 182

[24] Metta Sutta

[25] Dhp. 25

[26] DN. 27 Kinh Khởi Thế Nhân Bổn / Agganana Sutta

[27] AN. 539

[28] MN. 135 Tiểu nghiệp phân biệt / Cūlakammavibhaṅga

[29] Dhammacakkappavattana Sutta

[30] Dhp. 165

[31] MN. 3 Kinh thừa tự pháp / Dhammadàyàda sutta

[32] Dhp. 184

[33] Metta Sutta

[34] Dhp. 191

[35] MN. 109 Đại Kinh Mãn Nguyệt/ Mahāpuṇṇama Sutta

[36] MN.111 Kinh Bất đoạn

[37] Metta Sutta

[38] Ibid

[39] Ibid

[40] Maṅgalasuttaṃ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/03/2025(Xem: 360)
Lama Zopa Rinpoche giải thích phương pháp thiền về tính không trong cuộc sống hàng ngày. Trích đoạn này là từ bài giảng tại Viện Root Institute, Bodhgaya, Ấn Độ, vào ngày 30 tháng 1 năm 2012. Biên tập bởi Tu sĩ Ailsa Cameron.
19/03/2025(Xem: 314)
Cốt tủy của liệu pháp nhận thức là bạn không cần phải tin vào suy nghĩ của bạn. Liệu pháp nhận thức hoạt động bằng cách giúp mọi người nhận ra những suy nghĩ phản tác dụng, phi logic, để tháo gỡ những bóp méo nhận thức và để làm việc với các sự kiện trong cuộc sống hoặc với các suy nghĩ của chính họ để phát triển các chiến lược dẫn đến một góc nhìn cân bằng và thực tiễn hơn.
13/10/2024(Xem: 761)
Sau đây là một thiền pháp tổng hợp và đơn giản hóa từ Kinh Pháp Cú và nhiều kinh khác, thích nghi cả cho Phật tử và không phải Phật tử. Nơi đây, người tập có thể quán sát và cảm thọ qua các pháp quán: quán như huyễn, quán vô thường, và quán vô ngã. Trong Kinh Pháp Cú, có ba bài kệ, trong ba trường hợp, cho thấy, sau khi mỗi lần Đức Phật nói kệ xong, có 500 vị sư đắc quả A La Hán. Nghĩa là, các vị sư trong kinh đã chứng ngộ, chứng quả và an trú tâm giải thoát ngay trong hiện tại. Trong đó, bài kệ 170 dạy quán các pháp như bọt nước, như cảnh huyễn ảo. Bài kệ 277 dạy quán tất cả hiện tượng hữu vi đều vô thường. Và bài kệ 279 dạy quán tất cả các pháp đều vô ngã. Đó là 3 pháp thiền tập trực tiếp nhất.
06/10/2024(Xem: 1624)
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Kính bạch chư tôn đức, Thưa quý Phật Tử và những người bạn mới, Xin mời mọi người đăng kí học lớp Tìm Hiểu Nguồn Gốc Thiền Phật Giáo. Thời gian bắt đầu: ngày 19 tháng 10 năm 2024. Dự kiến học trong 3-4 tháng Thời gian học: 10:00 tối thứ 7 giờ Việt Nam (7:00 sáng thứ 7 giờ Cali) bắt đầu học trong 2 tiếng, 2 tuần học một buổi. Địa điểm: học online (Zoom) Học phí: miễn phí (nhưng người học tự mua giáo trình sách giấy hay sách điện tử hay sách nói, chỉ một cuốn. Mua sách ở link cuối bài đăng này). Giáo trình chính: sách Nguồn Gốc Thiền Phật Giáo, tác giả Alexander Wynne tiến sĩ Phật học Đại học Oxford. Tác phẩm này chính là luận án tiến sĩ của ông.
26/09/2024(Xem: 883)
THIỀN THỰC NGHIỆM CĂN BẢN (New Class) Thích Thiện Trí -Giảng Viên Trường University of the West- Khóa học 8 tuần Khóa học: 6/10 đến ngày 15/12/2024 Chiều CHỦ NHẬT từ 2:30pm- 4:30pm Địa chỉ: Đạo Tràng Kiều Đàm Di 9057 La Crescenta Ave Fountain Valley, CA 92708 Liên lạc Email: thienthucnghiemchanhniem@gmail.com Tel: 714-363-8029 hoặc 626-866-1653 Lưu ý: a) Thiền Sinh đăng ký phải từ 18 tuổi trở lên b) Lớp học bằng tiếng Việt c) Lớp học chỉ nhận từ 10 đến 15 thiền sinh d) Thiền Sinh sẽ nhận tín chỉ (certificate) trực tiếp tại Trường University of the West
26/09/2024(Xem: 928)
Bài này sẽ viết về một chủ đề: cách tu nào đơn giản nhất cho những người có tâm hồn rất mực đơn sơ. Thí dụ, người chưa biết chữ, hoặc những người mới học buổi sáng và quên liền vào buổi chiều, hoặc những người đã từng học thiên kinh vạn quyển nhưng bây giờ bắt đầu lãng trí, thậm chí không còn nhớ tới nửa bài Tâm Kinh. Câu hỏi là, pháp giải thoát có thể truyền dạy như thế nào cho những người không hiểu, hoặc không nhớ tận tường những khái niệm như định, như huệ, như bát nhã, và vân vân.
23/08/2024(Xem: 1403)
Nói sơ tâm, là nói về tâm của người mới học, tâm đơn sơ, tâm như hài nhi trẻ nhỏ, tâm rất mực hồn nhiên, chưa có chút gì là chữ nghĩa dày đặc, không chút gì là kiến thức uyên bác. Ngắn gọn, tận cùng của người sống với “sơ tâm” là sống với “tâm không biết,” bởi vì, hễ “có biết” là có quá khứ, có mài giũa, có lộ trình nhân quả, không còn là tâm nguyên sơ, tâm bản nhiên. Cốt tủy Thiền Tông là sống với sơ tâm.
17/08/2024(Xem: 1054)
Một đệ tử hỏi một thiền sư: - Bạch thày, tại sao càng muốn tìm chân tâm thì chân tâm lại càng cách xa, tìm không thể được? - Để thày chỉ cho con một ví dụ: Giả sử bên cạnh nhà con có một cô hàng xóm xinh đẹp, bây giờ con muốn biết da mặt cô ta màu gì thì con phải nhìn thẳng vào mặt cô ta, nhưng khổ nỗi khi con nhìn như vậy thì mặt cô ta đỏ lên, con càng nhìn kỹ bao nhiêu thì mặt cô ta lại càng đỏ lên bấy nhiêu, thế là con chẳng có thể biết được da mặt cô ta có màu gì.
12/08/2024(Xem: 1589)
Ngày 10/08/2024 vừa qua, các lớp Thiền Thực Nghiệm theo hệ Giáo Dục Cộng Đồng trường University of the West tại Thành Phố Rosemead bang California đã diễn ra Lễ Bế Mạc với nhiều cảm xúc và tươi đẹp cho cả quý Thiền Sinh các lớp và nhiều khách mời. Những khách mời đặc biệt đã đến tham dự trong buổi lễ như: Dr. Minh Hoa Tạ (President of UWest), Rinpoche Tenzin Choephel (Instructor of UWest), Bhante Dhammapetti (Vice President of Mindfulness Meditation Center at Covina-Buddhist Vihara Los Angeles-California), Tiến Sỹ Laura Nguyễn (Tiến Sỹ Tôn Giáo Học tại UWest), Tiến Sỹ Margarett Meloni, Tiến Sỹ Bạch Phẻ (Tâm Thường Định), Thầy Thiện Trí (giảng viên giáo dục cộng đồng trường UWest) và nhiều những thành viên khách mời tham dự khác cũng như gia đình của các thiền sinh tốt nghiệp.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com