Lời Thưa,
Giáo lý Tứ Thánh đế là giáo pháp quan trọng bậc nhất đối với những người tu học theo lời dạy của Đức Phật. Vì vậy, dù chúng ta thuộc truyền thống Phật giáo Nguyên thuỷ hay truyền thống Phật giáo Đại thừa cũng đều bắt đầu tu học từ nơi nền tảng của giáo pháp này. Tứ Thánh đế bao gồm Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Tuy đạo Thánh đế gồm37 pháp nhưng trong đó Bát Chánh đạo là giáo pháp tối thượng bậc nhất vì nó thâu tóm tất cả đạo đế còn lại. Cho nên, trong Tạp A-hàm, kinh Lục Nhập Xứ số 305, do Hòa thượng Tuệ Sỹ dịch, Đức Phật dạy: “Khi tu tập tám Thánh đạo đã đầy đủ rồi thì bốn Niệm xứ cũng tu tập đầy đủ và bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Bồ-đề phần cũng tu tập đầy đủ”. Cũng như trong kinh Đại Thiên Nại Lâm, Trung A-hàm, số 67, Đức Phật dạy: “Nay Như Lai trao pháp Bát Chánh đạo cho A-nan, thầy A-nan phải gìn giữ và trao truyền lại, để cho chánh pháp không bị diệt vong”.
Trong Tạp A-hàm, kinh Sa-môn Pháp Sa-môn Quả số 765, Đức Phật dạy pháp và quả của Sa-môn: “Những gì là pháp Sa-môn? Đó là tám chi Thánh đạo, từ Chánh kiến… cho đến Chánh định. Những gì là quả Sa-môn? Đó là quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đà-hàm, quả A-na-hàm và quả A-la-hán. Thế nào là quả Tu-đà-hoàn? Đoạn trừ ba kết. Thế nào là quả Tư-đà-hàm? Đoạn trừ ba kết; tham, nhuế, si còn mỏng.
Thế nào là quả A-na-hàm? Đoạn sạch hết năm hạ phần kết. Thế nào là quả A-la-hán? Đoạn trừ vĩnh viễn tham, nhuế, si; đoạn trừ vĩnh viễn tất cả các thứ phiền não”. Cũng vậy, trong Tạp A-hàm, kinh Quảng Thuyết Bát Thánh Đạo số 785, do Hòa thượng Tuệ Sỹ dịch và trong kinh Trung Bộ III, Đại Kinh bốn mươi, do Hòa thượng Minh Châu dịch, Đức Phật dạy: “Bát Chánh đạo gồm có hữu lậu và vô lậu”. Theo Từ Điển Phật Học giải thích nghĩa của hữu lậu là chảy mất, rò rỉ ra, phiền não, Khổ đế – Tập đế; vô lậu là không có sự rò rỉ, chảy ra, Diệt đế – Đạo đế (vô lậu). Từ đó, chúng ta biết rằng: tất cả chúng ta đều vốn có tâm hữu lậu (hay vọng tâm) và tâm vô lậu (hay chân tâm). Trong đó, tâm hữu lậu là Khổ đế – Tập đế. Còn tâm vô lậu là Diệt đế – Đạo đế vô lậu.
Vì thế, tất cả phương pháp tu tập của hai truyền thống Phật giáo Nguyên thủy và Phật giáo Đại thừa đều tu tập giáo pháp Bát Chánh đạo. Trong Bát Chánh đạo: Chánh kiến và Chánh tư duy thuộc nhóm tuệ; Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng thuộc về nhóm giới (thiện); còn Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định thuộc nhóm định (Tiểu Kinh Phương Quảng, Trung Bộ I, số 44). Nghĩa là, trong Bát Chánh đạo thì năm chi Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định thuộc về tâm và phân làm hai nhóm: nhóm định (Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định) và nhóm tuệ (Chánh kiến và Chánh tư duy); ba chi còn lại Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng thuộc về thân và khẩu được gom chung làm nhóm giới. Như vậy, chúng ta tu tập Bát Chánh đạo hữu lậu chính là tu tập giới – định – tuệ hữu lậu. Tu tập giới – định – tuệ hữu lậu nghĩa là tâm an trụ trong định hữu lậu (Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định) – tuệ hữu lậu (Chánh kiến, Chánh tư duy) nên sẽ dẫn sinh ra giới hữu lậu (Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng). Còn các bậc Thánh giả (Sơ quả, Nhị quả, Tam quả và Tứ quả) tu tập Bát Chánh đạo vô lậu chính là tu tập giới – định – tuệ vô lậu. Tu tập giới – định – tuệ vô lậu có nghĩa là các ngài sống trong định vô lậu (Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định) và tuệ vô lậu (Chánh kiến, Chánh tư duy) nên sẽ dẫn sinh ra giới vô lậu (Chánh ngữ, Chánh nghiệp và Chánh mạng).
Cho nên, người xuất gia và cư sĩ tại gia đều dựa vào sự tu tập Bát Chánh đạo để thành tựu quả báo tốt đẹp của Nhân, Thiên, Tứ Thánh quả cho đến quả vị Phật. Như trong Trường A-hàm, Đức Phật dạy cho ngài Tu-bạt-đà-na: “Trong giáo pháp nào có Thánh đạo tám chi thì ở đó có quả vị Sa-môn thứ nhất, thứ hai, thứ ba, thứ tư. Nay trong giáo pháp này có Thánh đạo tám chi nên có quả vị Sa-môn thứ nhất, quả vị Sa-môn thứ hai, thứ ba, thứ tư”. Còn trong Trung A-hàm, kinh Thánh Đạo, số 189, Đức Phật dạy: “Bậc Thánh Hữu học thành tựu tám chi phần Bát Chánh đạo; còn bậc Thánh Vô học thành tựu mười chi, thêm hai chi nữa là Chánh giải thoát và Chánh trí”. Vì vậy, trong lộ trình tu chứng của các Thánh quả, bậc Thánh Sơ quả đã đoạn trừ thân kiến, giới cấm thủ và nghi nên gọi là Thất lai. Bậc Thánh Nhị quả làm giảm, mỏng tham, sân và si câu sinh đối với sự tập khởi của năm thủ uẩn nên gọi là Nhất lai. Bậc Thánh Tam quả đoạn trừ năm hạ phần kết sử câu sinh đối với năm thủ uẩn (thân kiến, giới cấm thủ, nghi và tham, sân trong Dục giới) nên gọi là Bất lai. Bậc Thánh A-la-hán đoạn trừ chấp ngã (phiền não chướng) nên thành tựu Niết-bàn Hữu dư y và Niết-bàn Vô dư y. Đức Thế Tôn đã đoạn trừ chấp ngã (Phiền não chướng) và chấp pháp (Sở tri chướng) nên thành tựu Vô trụ xứ Niết-bàn.
Chính ý nghĩa quan trọng này, mỗi chúng ta cần phải không ngừng nỗ lực tu tập Bát Chánh đạo Hữu lậu và Bát Chánh đạo Vô lậu để thành tựu quả báo tốt đẹp của Nhân, Thiên, tứ Thánh quả cho đến quả vị Phật.
Mùa Phật Đản PL 2566 – 15.05.2022
Với tất cả tấm lòng trân trọng,
Thích Thắng Giải