Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 57: Kinh Thủ Lăng Nghiêm

01/11/201718:45(Xem: 5047)
Bài 57: Kinh Thủ Lăng Nghiêm

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM

GIẢI NGHĨA

TOÀN KHÔNG

(Tiếp theo)

 

2). DO TỪ TÂM THÀNH

     TỰU 32 ỨNG THÂN:

 

     Thế Tôn! Do con cúng dường Quán Âm Như Lai, Phật dạy con y tánh Văn như huyễn, huân tu Kim Cang Tam Muội. Vì với Chư Phật đồng một Từ Lực, nên khiến con được thành tựu 32 ứng thân (1) vào các quốc độ.
1. Thế Tôn! Nếu Chư Bồ Tát vào Tam Ma Địa tu pháp vô lậu (không dính mắc ô nhiễm), thắng giải (ý thức tốt) đầy đủ, thì con hiện thân Phật, thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.
2. Nếu có hàng hữu học (có tu học) được tịch tịnh diệu minh (sáng suốt thanh tịnh), thắng giải đầy đủ, thì con hiện thân Độc Giác (cũng gọi là Bích Chi Phật), thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.
3. Nếu có hàng hữu học đoạn mười hai nhân duyên (gồm: Vô minh, Hành, Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thụ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Già chết) được thắng tánh (bản nguyên) hiện tiền, thắng giải đầy đủ, thì con hiện thân Duyên Giác (cũng gọi là Bích Chi Phật), thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.
4. Nếu có hàng hữu học tu Đạo nhập diệt, được pháp Không của Tứ Thánh Đế (Là Bốn Diệu Đế gồm: Khổ Đế, Tập Khổ Đế, Diệt Khổ Đế, Đạo Khổ Đế), thắng giải đầy đủ, thì con hiện thân Thanh Văn (Tu theo Nam truyền), thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.
5. Nếu có chúng sanh, muốn tâm minh ngộ, chẳng phạm dục trần, muốn thân trong sạch, thì con hiện thân Phạn Vương (Trời cõi Sơ Thiền Sắc giới), thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.
6. Nếu có chúng sanh, muốn làm thiên chủ, lãnh đạo chư thiên, thì con hiện thân Đế Thích (Vua Trời Đạo Lợi cõi Dục giới), thuyết pháp cho họ khiến được thành tựu.
7. Nếu có chúng sanh, muốn thân được tự tại, đi khắp mười phương, thì con hiện thân Tự Tại Thiên, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
8. Nếu có chúng sanh, muốn thân được tự tại, bay khắp hư không, thì con hiện thân Đại Tự Tại Thiên, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
9. Nếu có chúng sanh, muốn thống lãnh quỷ thần, cứu giúp quốc độ, thì con hiện thân Thiên Đại Tướng Quân, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
10. Nếu có chúng sanh, thích thống lãnh thế giới, bảo vệ chúng sanh, thì con hiện thân Tứ Thiên Vương (Bốn vị Vua Trời quản trị thế gian, ở lưng chừng bốn phiá núi Tu Di), thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
11. Nếu có chúng sanh, muốn sanh nơi thiên cung, sai khiến quỷ thần, thì con hiện thân Thái Tử của Tứ Thiên Vương, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
12. Nếu có chúng sanh, muốn làm vua cõi người, thì con hiện thân vua, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
13. Nếu có chúng sanh, thích làm chủ các dòng quý tộc, mọi người cung kính, thì con hiện thân trưởng giả, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
14. Nếu có chúng sanh, thích đàm luận những lời hay giữ mình trong sạch, thì con hiện thân Cư Sĩ (người tu tại gia), thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
15. Nếu có chúng sanh, thích cai trị việc nước, trông coi các ban ấp, thì con hiện thân Tể quan, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
16. Nếu có chúng sanh, thích các số thuật, tự nhiếp tâm giữ thân, thì con hiện thân Bà La Môn, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
17. Nếu có thiện nam tử, ham học pháp xuất gia, giữ gìn giới luật, thì con hiện thân Tỳ Kheo (Tăng), thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
18. Nếu có thiện nữ nhân, ham học pháp xuất gia, trì các giới cấm, thì con hiện thân Tỳ Kheo Ni (Ni), thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
19. Nếu có thiện nam tử, thích giữ ngũ giới, thì con hiện thân Ưu Bà Tắc (Cư sĩ nam), thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
20. Nếu có thiện nữ nhân, tự giữ ngũ giới, thì con hiện thân Ưu Bà Di (Cư sĩ nữ), thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
21. Nếu có thiện nữ nhân, lập thân trong cung vua, chủ việc nội chính, giúp việc nước nhà, thì con hiện thân nữ chủ (hoàng hậu), hay phu nhân, mệnh phụ, đại gia (nữ giáo sư của hoàng hậu và các cung phi), thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
22. Nếu có con trai, chẳng hoại trinh nam, thì con hiện thân đồng nam, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
23. Nếu có con gái, muốn giữ trinh nữ, chẳng cầu sự xâm bạo, thì con hiện thân đồng nữ, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
24. Nếu có Chư Thiên (2), muốn ra khỏi loài trời, thì con hiện thân chư Thiên, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
25. Nếu có con Rồng (3), muốn ra khỏi loài rồng, thì con hiện thân rồng, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
26. Nếu có Dược Xoa (4) muốn ra khỏi loài mình, thì con hiện thân Dược Xoa, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
27. Nếu có Càn thát Bà (5) muốn ra khỏi loài mình, thì con hiện thân Càn Thát Bà, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
28. Nếu có A Tu La (6), muốn thoát khỏi loài mình, thì con hiện thân A Tu La, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
29. Nếu có Khẩn Na La (7), muốn thoát khỏi loài mình, thì con hiện thân Khẩn Na La, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
30. Nếu có Ma Hầu La Già (8) muốn thoát khỏi loài mình, thì con hiện thân Ma Hầu La Già, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
31. Nếu có chúng sanh thích làm người, tu nghiệp người, thì con hiện thân người, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.
32. Nếu có loài phi nhân, hoặc có hình, hoặc vô hình, hoặc có tưởng, hoặc vô tưởng, muốn thoát khỏi loài mình, thì con hiện thân như họ, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.

- Ấy gọi là 32 ứng thân nhiệm mầu vào các quốc độ, những thân ấy đều do vô tác diệu lực (9) của sự huân tu tam muội tự tại thành tựu.


GIẢI NGHĨA:

 

(1) Ứng thân: Ứng thân cũng gọi là Hóa thân, Ứng Hoá thân, dùng để thị hiện thân khi giáo hóa chúng sinh. Nói cho rõ thì khi hiện thân Phật gọi là Ứng thân, khi hiện thân các loài gọi là Hóa thân.

(2) Thiên: (Deva): Đề Bà: Là Thiện hưởng phúc vi diệu; Chư Vị Trời có 28 tầng trời khác nhau, gồm: 6 tầng Dục giới, 18 tầng Sắc giới, và 4 tầng Vô Sắc giới.

(3) Long (Naga): Na Dà: Rồng giữ địa luân và các cung điện cõi Trời, làm mưa v.v...).

(4) Dạ-Xoa (Yaksa): Dược xoa, Yểm-Quỷ giữ các cửa thành cõi trời Đạo-Lợi. Dược xoa (nhẹ nhàng, nhanh chóng), có ba loại: Địa Dược Xoa, Không Dược Xoa, Thiên Dược Xoa. Khi Phật chuyển pháp luân: Địa Dược Xoa ca ngợi, Không Dược Xoa nghe, Thiên Dược Xoa ca ngợi; Tứ Thiên Vương cho đến Phạm Thiên đều nghe.
(5) Càn-Thát-Bà (Grandhava): (tìm mùi hương): Thần Nhạc hầu Đế-Thích (ca và tấu nhạc).
(6) A-Tu-La: (A Sura): Phi Thiên, Thần dữ.

(7) Khẩn Na-La: (Kini Nara): Nghi Nhân, Nhân Phi Nhân, giống người mà đầu có sừng, cũng là Thần đánh nhạc cho Đế-Thích.

(8) Ma-Hầu La-Già (Mahoraga): Đại Phúc-Hành, đầu Rắn mình người, Thần Rắn, Địa Long Thần bụng lớn, Đại Mãng Thần.

(9) Vô tác diệu lực: Tác là tạo ra, làm, Vô tác là vô nguyện, là không phân biệt chủ thể và đối tượng, bình đẳng, diệu lực là soi chiếu khắp mạnh mẽ; Vô tác diệu lực là soi khắp vô cùng mạnh mẽ mà không có sự chọn lựa phân biệt trong sự cứu giúp chúng sinh.

 

     Ở Kinh Văn trước, Phật hỏi đại chúng về nguyên nhân của sự đạt viên thông, có 24 vị Thanh Văn đệ tử và Bồ Tát, mỗi vị đều trình bày nguyên nhân chứng đắc viên thông của mình.

      Như chúng ta đã biết, 6 căn, 6 trần, 6 thức và 7 đại đều là dữ kiện tạo nên Thánh quả chứng đắc viên thông. Nhĩ căn viên thông lẽ ra phải được trình bày cùng trong nhóm 6 căn viên thông ở kinh văn trước. Nhưng lại để Bồ Tát Quán Thế Âm trình bày sau cùng ở đây, đó là vì tính cách đặc biệt của Nhĩ căn vậy.

 

      Để dễ hiểu về sự tu hành, chúng ta cùng phân tích nghĩa Quán Thế Âm như sau:

Quán là coi xét soi rọi vào tâm để nhận thức đối tượng như quán sát, quán tưởng, để chỉnh lý lại, sửa đổi lại.

Thế là thế gian, có nghĩa là sự vận động tương tục không ngừng của sự vật, ở đây nhằm chỉ bày sự tương tục của tâm tưởng con người; còn có nghĩa là bỏ đi, thay cho, cắt đi, phát rẫy đi cỏ hoang.

Âm là tiếng nói âm vang, Âm là âm thanh đối tượng của nghe, là thanh trần; âm còn có nghĩa là không rõ ràng như âm u tượng trưng của những sự không tốt lành.

Quán Thế Âm: Là coi xét tiếng nói lời than của thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ Tát, ngài quán xét lắng nghe những lời kêu than của chúng sinh và khởi lòng từ bi thương xót cứu độ họ. Quán Thế Âm còn có nghĩa "Nhân cách hóa một phương pháp tu tập", là quán sát coi xét xa lià bỏ đi những dính mắc, ràng buộc, khúc mắc, buồn phiền, những điều u tối trong tâm, ở đây có ý nghĩa là tu hành, quán xét xa lìa các ràng buộc dính mắc từ lời nói việc làm đến ý nghĩ, dứt trừ những tưởng nhớ vọng tưởng trong tâm liên tiếp khởi lên.

      Khi chúng ta vận dụng sức quán tiếng trong tâm được tới chỗ thanh tịnh, lắng nghe những tiếng nói không âm thanh, tức là vọng tưởng. Khi vọng tưởng khởi lên liền biết vọng tưởng khởi lên, biết vọng tưởng khởi lên rồi liền biết nó không thật, nó là giả, là ảo huyển, nên xa lià chúng. Khi đã thực hành được liên tục thuần nhiễn như thế tới cùng cực thì bản giác hiện trong tâm ta, lúc đó sẽ khởi lòng từ bi thương xót, muốn cứu vớt chúng sinh còn đang ngụp lặn trong biển khổ được giải thoát.

      Bồ Tát hiện 32 ứng thân vào các cõi nước (Quốc độ) khắp mười phương thuyết pháp cho chúng sinh, đáp ứng sở nguyện của họ; sự việc này phải được hiểu rằng tất cả chúng sinh mọi hạng người thế gian và xuất thế gian đều có thể được Quán Thế Âm hiện thân cứu độ. Nói một cách khác là từ bậc thượng căn phát tâm tu hành cho đến những người hạ trí, đều có khả năng quán niệm về nghe tiếng bị dính mắc ràng buộc do chấp thật. Từ dính mắc chấp thật lại sinh ra tưởng nhớ vọng tưởng trong tâm, do đó phải quán sát kỹ càng để thấy những lời nói âm thanh ấy đều là giả có, không thật, là không. Khi đã quán sát nhu nhuyễn lâu dài và gạt bỏ hết những thứ như bụi bám ấy thì tâm được trong sạch, tiến đến thanh tịnh, bấy giờ chân tâm hiển hiện, tức đạt được tự tại giải thoát.

      Quán Thế Âm hiện thân thuyết pháp cho chúng sanh bằng soi chiếu khắp vô cùng mạnh mẽ mà không có sự chọn lựa phân biệt trong sự cứu giúp chúng sinh (Vô tác diệu lực). Nói "hiện thân" nhưng thật ra chẳng tốn sức "hóa hiện" ra thân; nói "thuyết pháp" kỳ thực chẳng có một tiếng nói, chẳng tốn một tí hơi, vì Quán Thế Âm hiện thân bằng viên dung chính tâm của đối tượng vậy.

 

3). DO BI TÂM THÀNH

     TỰU 14 ĐỨC VÔ ÚY:   
 (Còn tiếp)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com