Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài 26: Kinh Thủ Lăng Nghiêm

28/03/201717:22(Xem: 5061)
Bài 26: Kinh Thủ Lăng Nghiêm

KINH

THỦ LĂNG NGHIÊM

GIẢI NGHĨA

TOÀN KHÔNG

(Tiếp theo)

 

QUYỂN 3

2). SÁU NHẬP VÔ SINH

- Lại nữa, A Nan! Sao nói Lục Nhập vốn là Như Lai Tạng, cũng là diệu tánh chân như?

1. NHÃN NHẬP VỐN VÔ SINH

- Ví như dùng mắt ngó hẳn một chỗ, lâu tự mỏi mệt, cả con mắt và cái mỏi mệt đó, đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tánh Bồ Đề. Do hai thứ vọng trần Sáng và Tối hiện ra cái thấy, thu nạp cảnh trần, gọi là tánh thấy; cái thấy này lìa Sáng và Tối vốn chẳng có tự thể.
- A Nan nên biết! Kiến tinh này chẳng từ sáng, tối ra, chẳng từ con mắt ra, cũng chẳng từ hư không ra. Tại sao? Nếu từ chỗ sáng ra, thì khi tối, kiến tinh đã theo sáng diệt, lẽ ra chẳng thể thấy tối; nếu từ chỗ tối ra, thì khi sáng, kiến tinh phải theo tối diệt, lẽ ra chẳng thể thấy sáng. Nếu từ con mắt ra thì chẳng có sáng tối, vậy biết kiến tinh vốn chẳng có tự tánh. Nếu từ hư không ra, thì nhìn ra ngoài thấy cảnh trần, xoay về phải thấy con mắt; lại, hư không tự thấy có liên quan gì chỗ nhập của ông? Vậy biết Nhãn Nhập hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

GIẢI NGHĨA

     Đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà rằng: “- Ví như dùng mắt ngó hẳn một chỗ, lâu tự mỏi mệt, cả con mắt và cái mỏi mệt đó, đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tánh Bồ Đề. Do hai thứ vọng trần Sáng và Tối hiện ra cái thấy, thu nạp cảnh trần, gọi là tánh thấy; cái thấy này lìa Sáng và Tối vốn chẳng có tự thể”. Ở đây, Ngài nói con mắt dù ngó nhìn lâu mệt mỏi vẫn là tự tính của giác ngộ, tại sao? Vì sự nhìn ngó này vô tư, không có so đo phân biệt của thức, do hai thứ Sáng Tối (vọng trần) mà có cái thấy, nếu không có sáng tối thì không có cái thấy, nên cái thấy này là hư ảo huyển hóa không thật (không có tự thể).

     Đức Phật bảo: “Kiến tinh này chẳng từ sáng, tối ra, chẳng từ con mắt ra, cũng chẳng từ hư không ra”. Tại sao? Ngài giảng:

- Nếu từ chỗ sáng ra, thì khi tối, kiến tinh đã theo sáng diệt, lẽ ra chẳng thể thấy tối, nếu từ chỗ tối ra, thì khi sáng, kiến tinh phải theo tối diệt, lẽ ra chẳng thể thấy sáng.

- Nếu từ con mắt ra thì chẳng có sáng tối, vậy biết kiến tinh vốn chẳng có tự tánh.

- Nếu từ hư không ra, thì nhìn ra ngoài thấy cảnh trần, xoay về phải thấy con mắt; lại, hư không tự thấy có liên quan gì chỗ nhập của ông?

 

     Xem như vậy thì cái thấy chẳng phải từ sáng tối, chẳng phải từ mắt, cũng chẳng phải từ hư không, do đó cái thấy này là hư ảo huyển hóa không thật, cho nên Ngài nói: “Vậy biết Nhãn Nhập hư huyển ảo vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên cũng chẳng phải tánh tự nhiên” là vậy.

2. NHĨ NHẬP VỐN VÔ SINH

- A Nan! Ví như có người lấy hai ngón tay bịt chặt hai lỗ tai, do lỗ tai mỏi mệt, trong đầu hóa ra có tiếng; cả hai tai cùng cái mỏi mệt đó, đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tánh Bồ Đề. Do hai thứ vọng trần Động và Tịnh hiện ra cái nghe, thu nạp cảnh trần, gọi là tánh nghe; tánh nghe này lìa Động và Tịnh, vốn chẳng có tự thể.
- A Nan nên biết! Cái nghe này chẳng từ động tịnh ra, chẳng từ tai ra, cũng chẳng từ hư không ra. Tại sao? Nếu cái nghe từ chỗ tịnh ra, thì khi động, cái nghe đã theo tịnh diệt, lẽ ra chẳng thể nghe động; nếu từ chỗ động ra, thì khi tịnh, cái nghe đã theo động diệt, lẽ ra chẳng biết được tịnh. Nếu từ lỗ tai ra thì chẳng có động tịnh, vậy biết cái nghe vốn chẳng có tự tánh. Nếu từ hư không ra, hư không đã thành tánh nghe thì chẳng phải hư không; lại hư không tự nghe, có liên quan gì chỗ nhập của ngươi? Vậy biết Nhĩ Nhập hư vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

GIẢI NGHĨA
     Đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà rằng: “Ví như có người lấy hai ngón tay bịt chặt hai lỗ tai, do lỗ tai mỏi mệt, trong đầu hóa ra có tiếng; cả hai tai cùng cái mỏi mệt đó, đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tánh Bồ Đề. Do hai thứ vọng trần Động và Tịnh hiện ra cái nghe, thu nạp cảnh trần, gọi là tánh nghe; tánh nghe này lìa Động và Tịnh, vốn chẳng có tự thể”.
Ở đây, Ngài nói hai lỗ tai, dù dùng ngón tay bịt chặt hai lỗ tai thật lâu, lỗ tai bị mỏi mệt đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tính biết (Bồ Đề). Do hai thứ vọng trần Động và Tịnh mà có cái nghe, thu nạp cảnh trần gọi là tính nghe; tánh nghe này lìa Động và Tịnh, vốn là huyển ảo chẳng thật (chẳng có tự thể).

     Đức Phật bảo: Cái nghe này chẳng từ động tịnh ra, chẳng từ tai ra, cũng chẳng từ hư không ra”. Tại sao? Ngài giảng:

h- Nếu cái nghe từ chỗ tịnh ra, thì khi động, cái nghe đã theo tịnh diệt, lẽ ra chẳng thể nghe động.

- Nếu từ chỗ động ra, thì khi tịnh, cái nghe đã theo động diệt, lẽ ra chẳng biết được tịnh”. 

- Nếu từ lỗ tai ra thì chẳng có động tịnh, vậy biết cái nghe vốn chẳng có tự tánh.

- Nếu từ hư không ra, hư không đã thành tánh nghe thì chẳng phải hư không; lại hư không tự nghe, có liên quan gì chỗ nhập của ông?

 

    Xem như vậy thì cái nghe chẳng phải từ động tịnh, chẳng phải từ lỗ tai, cũng chẳng phải từ hư không, do đó cái nghe này là hư ảo huyển hóa không thật, cho nên Ngài nói: “Vậy biết Nhĩ Nhập hư huyển ảo vọng, vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên” là vậy.

3 - TỴ NHẬP VỐN VÔ SINH

- A Nan! Ví như có người hít mạnh hai lỗ mũi, hít lâu mỏi mệt, thì trong lỗ mũi có xúc giác thấy mát. Do xúc giác phân biệt thông, nghẽn, hư, thật, cho đến các mùi thơm thối, cùng lỗ mũi và cái hít lâu mỏi mệt đó, đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tánh Bồ Đề. Do hai thứ vọng trần Thông và Nghẽn, hiện ra cái ngửi, thu nạp cảnh trần, gọi là tánh ngửi! Cái ngửi này lìa thông và nghẽn vốn chẳng có tự thể.
- A Nan nên biết! Cái ngửi này chẳng từ thông nghẽn ra, chẳng từ lỗ mũi ra, cũng chẳng từ hư không ra. Tại sao? Nếu từ chỗ thông ra, thì khi nghẽn, cái ngửi đã mất, làm sao biết nghẽn? Nếu từ nghẽn ra, thì khi thông, chẳng còn cái ngửi, làm sao biết các mùi thơm thối? Nếu từ lỗ mũi ra, thì chẳng có thông nghẽn, vậy biết cái ngửi vốn chẳng có tự tánh. Nếu từ hư không ra, thì hư không phải ngửi lỗ mũi của ông; lại hư không tự ngửi, có liên quan gì chỗ nhập của ông? Vậy biết Tỵ Nhập hư vọng vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên.

GIẢI NGHĨA

     Đức Phật bảo Tôn giả A Nan Đà rằng: “Ví như có người hít mạnh hai lỗ mũi, hít lâu mỏi mệt, thì trong lỗ mũi có xúc giác thấy mát. Do xúc giác phân biệt thông, nghẽn, hư, thật, cho đến các mùi thơm thối, cùng lỗ mũi và cái hít lâu mỏi mệt đó, đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tánh Bồ Đề. Do hai thứ vọng trần Thông và Nghẽn, hiện ra cái ngửi, thu nạp cảnh trần, gọi là tánh ngửi! Cái ngửi này lìa thông và nghẽn vốn chẳng có tự thể”. Ở đây, Ngài nói dù hai lỗ mũi hít hít lâu mỏi mệt, thì đều là tướng ngó lâu mỏi mệt của tính tỉnh biết (Bồ Đề). Do hai thứ vọng trần Thông và Nghẽn, hiện ra cái ngửi, thu nạp cảnh trần, gọi là tính ngửi! Cái ngửi này lìa thông và nghẽn vốn là hư huyển chẳng thật (chẳng có tự thể).

     Đức Phật bảo: “Cái ngửi này chẳng từ thông nghẽn ra, chẳng từ lỗ mũi ra, cũng chẳng từ hư không ra”. Tại sao? Ngài giảng:

- Nếu từ chỗ thông ra, thì khi nghẽn, cái ngửi đã mất, làm sao biết nghẽn?

- Nếu từ nghẽn ra, thì khi thông, chẳng còn cái ngửi, làm sao biết các mùi thơm thối?

- Nếu từ lỗ mũi ra, thì chẳng có thông nghẽn, vậy biết cái ngửi vốn chẳng có tự tánh

- Nếu từ hư không ra, thì hư không phải ngửi lỗ mũi của ông; lại hư không tự ngửi, có liên quan gì chỗ nhập của ông?

 

     Xem như vậy thì cái ngửi chẳng phải từ thông nghẽn, chẳng phải từ lỗ mũi, cũng chẳng phải từ hư không, do đó cái ngửi này là hư ảo huyển hóa không thật, cho nên Ngài nói: “Vậy biết Tỵ Nhập hư vọng vốn chẳng phải tánh nhân duyên, cũng chẳng phải tánh tự nhiên” là vậy.

4 - THIỆT NHẬP VỐN VÔ SINH

(Còn tiếp)


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com