Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đêm thơ Thiền Minh Đức Triều Tâm Ảnh

19/05/201417:57(Xem: 14717)
Đêm thơ Thiền Minh Đức Triều Tâm Ảnh
ĐÊM THƠ THIỀN
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNH

Nguyên Giác

blankThầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh đã tới thăm Nam California trong những ngày cuối tháng qua. Thầy là một nhà sư nổi tiếng đa tài, giỏi nhiều ngôn ngữ, cũng như xuất sắc về thơ, văn, biên khảo, thư pháp, họa pháp, cờ tướng, sắp đặt vườn cảnh, hiểu ngôn ngữ của đá và cây. Và thầy cũng là một vị tôn túc trong nhà Thiền, với tên gọi trong chùa là: Tỳ kheo Giới Đức, Sư trưởng Huyền Không Sơn Thượng.

Thầy nổi tiếng với hình ảnh một nhà sư nghệ sĩ. Thầy năm nay 71 tuổi (sinh năm 1944), đã in 32 cuốn sách, và còn 49 bản thảo chưa ấn hành.

Hôm Thứ Sáu của tuần lễ cuối tháng 4-2014, khi hai vị cư sĩ Tâm Diệu và Tâm Linh lên Pomona thăm, Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh đã trao tặng Thư Viện Hoa Sen bức tranh thư pháp với bốn câu thơ:

Hoa ươm mùi đạo vị
Sen ngát mạn đà hương
Thư kinh trăng giọt ngọc
Viện bối phụng văn chương

Nơi đây, xin dịch các câu thơ tuyệt vời này sang tiếng Anh để sẽ chia sẻ với một số bạn trẻ:

The flower that raises the dharma sense
The lotus that passes on the mandala scent
The scripture that points to the moon of jewelry
The hall that treasures the literary beauty.


Hôm Thứ Bảy kế tiếp đó, tôi có cơ duyên được ba vị thiện tri thức – anh Trần Minh Anh và vợ chồng anh Tôn Tiên; họ đều là học trò của Huyền Không Sơn Thượng từ thời còn ở Huế nhiều thập niên trước -- đưa tới một ngôi chùa miền núi phía Nam California để hội kiến Thiền Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh, người nổi tiếng về nhiều phương diện tàì năng, nhưng có một đời sống rất bình dị, thơ mộng.

Trong buổi trà đàm, Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh đọc bài cổ thi nổi tiếng trong nhà thiền:

Bách xích can đầu, trực hạ thùy
Nhất ba tài động vạn ba tùy
Dạ tĩnh, thủy hàn ngư bất thực
Mãn thuyền không tải nguyệt minh quy!


Tiếp theo, Thầy đọc bản dịch tiếng Việt của Thầy:

Trăm thước đầu cần thỏng điếu ông
Một làn sóng dợn, dợn muôn trùng
Giá băng, đêm lặng, khôn tăm cá
Về chở đầy thuyền ánh nguyệt không!


Thầy giải thích rằng hình ảnh duyên khởi (một dợn sóng, dẫn tới muôn vạn sóng) và hình ảnh ngư bất thực (cá không ăn mồi) là 2 ý quan trọng trong bài thơ, rằng khi nào tâm không cắn mồi của sắc thanh hương vị xúc pháp mới đúng là tâm thiền, lúc đó mới là thấy vầng trăng trí tuệ ngập khắp thuyền, cũng là thấy không có gì để lưu giữ cả.

Thầy nói rằng thơ Thiền thường là ẩn dụ. Như thế, một niệm khởi, trùng trùng chuyện sẽ khởi. Thầy nói ngư bất thực là hình ảnh đóng cửa lục căn, rồi mới có định, rồi mới có tuệ, rồi thuyền mới chở trăng tuệ giác về.

Cũng cần ghi rằng, bốn câu cổ thi này đã được cố hòa thượng Đổng Minh dịch:

Đầu cần trăm thước buông câu
Một làn sóng gợn, nối nhau muôn lằn
Đêm nước lạnh, cá không ăn
Con thuyền trống rỗng chở trăng đi về!


Nơi đây, cũng xin dịch thơ này sang Anh ngữ:

A fishing rod is dropped from the top of a hundred-meter pole
A wave raises up, and thousands of waves follow
The fish eat nothing; the night is still, the water cold
The empty boat carries the full bright moon home.


Tôi nói với Thiền Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh rằng Thầy thực sự là pháp bảo của Phật Giáo Việt Nam, và đồng thời Thầy cũng là quốc bảo của dân tộc Việt Nam. Tôi nói, tôi vui mừng được gặp Thầy vì biết cơ duyên gặp này rất hiếm hoi.

Tôi nói, vui mừng trong đời là được gặp Phật pháp, là khởi lòng tin sâu vào Phật pháp, và là cơ duyên trên đường tu học được gặp thiện tri thức – và Thiền Sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh là một bậc đại thiện tri thức, đã giúp, đang giúp và sẽ giúp rất nhiều người tu học. Những việc của Thầy đã làm thực sự là hy hữu.

Tôi nói rằng tôi vẫn thường xuyên vào Internet để đọc thơ và xem thư pháp của nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh, và không nghĩ rằng mình sẽ sớm có cơ duyên đi Huế thăm vị thiền sư thi sĩ này. Thầy nói rằng thầy khi vào lớp 6 đã tự học luật thơ.

Thầy kể rằng về thư pháp, thầy cũng chẳng học ai, mà tự nghĩ ra thôi, chỉ vì hồi nhỏ được cha bắt học chữ Hán, lớn lên chút nữa thì quên, tới năm Đệ Tam mới học lại chữ Hán, mở sách xem chữ thảo của các tác gia khác nhau – nhìn thấy có người viết chữ như lá cỏ, có người viết chữ như gươm giáo tua tủa, có người viết nghiêm túc cẩn trọng, có người viết phóng khoáng cởi mở... và rồi, “Tui tự nghĩ ra cách viết chữ thư pháp Việt.”

Thầy kể rằng, ban đầu Chùa Huyền Không ở Lăng Cô, sau được khuyến cáo là nên dọn vào Huế. Sau nhiều thập niên, bây giờ là ba trung tâm do các huynh đệ của Thầy trụ trì, xem như ba mặt Thể, Tướng, Dụng để hoằng pháp, đáp ứng tùy cơ duyên với các loại chúng sinh.

Huyền Không Sơn Thượng, với Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh, đáp ứng nhu cầu tâm linh. Thầy nói, Sơn Thượng là tập trung về văn hóa nghệ thuật, về sinh hoạt tâm linh. Thầy nói rằng thầy đang kiến lập Rừng Thiền như ở Miến Điện để giúp những người muốn thực tu để giác ngộ, nhưng việc lập Rừng Thiền chưa hoàn tất vì còn trở ngại về phương diện tài chánh.

Thầy nói, ngôi chùa Huyền Không Sơn Trung tập trung vào việc giáo dục, hướng dẫn lớp trẻ, mở các khóa tu gieo duyên, mở trường dạy Anh văn miễn phí.

Và trung tâm Huyền Không Sơn Hạ tập trung vào từ thiệu xã hội, châm cứu chữa bệnh miễn phí. Thầy kể, y viện Tuệ Tĩnh Đường chăm sóc bởi các sư của Huyền Không Sơn Hạ hiện mỗi ngày đón vài trăm bệnh nhân.

blankThầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh kể rằng, qua thời gian kiến lập các chùa Huyền Không, thầy đã tự hiểu được ngôn ngữ của đá, và nắm giữ được chìa khóa nghệ thuật vườn cảnh.
Thầy nói, “Tui là người dựng đá, đọc ngôn ngữ của đá.” Thầy nói, một viên đá để trước sân, có khi tỏa ra bầu không khí cô đơn, có khi mang ý nghĩa của hào khí độc lập, có khi làm cho ngôi nhà êm ấm hòa hài, có khi tạo ra sự xung khắc trong nhà...

Thầy nói, có nhiều trường hợp, chỉ xoay lại hướng đá, thế là ngôi chùa đó, hay ngôi nhà đó sẽ yên ổn, tan hết mọi phức tạp trước đó. Và đó cũng là lý do nhiều người dân, trong đó có nhiều đại gia nổi tiếng, đã mời thầy tới tận nhà của họ để xin giúp xem hướng và đặt hướng đá để tạo ra sự bình yên.

Thầy kể, thầy cũng từng được mời tới giúp xem hướng và xoay hướng đá ở nội điện Chùa Trúc Lâm ở Lâm Đồng, và ở cả nhiều chùa khác, kể cả một số chùa ở chân núi Yên Tử.

blankĐặc biệt, trong buổi trà đàm này -- còn có tên là Đêm Thơ Thiền Thư Pháp Minh Đức Triều Tâm Ảnh -- một Phật Tử chủ nhà in đã tới kịp, trình Thầy cuốn bản mẫu bộ sách có tưạ đề Một cuộc đời, một vầng Nhật Nguyệt của tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh. Đây là bản in trên giấy đầu tiên xuất hiện ở hải ngoại. Bộ sách này gồm 6 tập, dày 3.000 trang.

Đây là một tuyệt tác về cuộc đời của Đức Phật Thích Ca, một công trình đồ sộ, mà theo lời tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh, rằng Thầy đã viết 7 trang mỗi ngày, liên tục như thế trong 19 năm mới xong. Trong thời gian viết, đích thân Thầy đã sang tận một số nơi ở Ấn Độ, Nepal để dò lại các địa danh, địa điểm liên hệ tới cuộc đời của Đức Phật. Thí dụ, Thầy nói, thầy tới xem nơi cửa thành thứ tư, nơi kinh kể rằng Đức Phật đã thấy một xác chết, để xem có dòng sông nào hay không.

Lý do được tác giả Minh Đức Triều Tâm Ảnh kể rằng, có một số tác phẩm viết về cuộc đời Đức Phật dưạ trên huyền thoạị nhiều hơn sự thật, dựa vào tưởng tượng thi hóa của người đời sau hơn là ghi đúng những gì đã xảy ra trong lịch sử và kinh điển.

Cũng cần ghi rằng, ấn bản điện tử của Một cuộc đời, một vầng Nhật Nguyệt hiện đã được lưu giữ trên nhiều trang web Phật Học.

Bạn Trần Minh Anh đã cầm đàn, hát một ca khúc Phật giáo.

Trong Đêm Thơ Thiền Thư Pháp này, Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh đã tặng Cư sĩ Nguyên Giác một bức thư pháp, có bài thơ bốn câu như sau:

Giác thì đốn ngộ nguyên con
Đi thì tiềm tiệm dẵm mòn bể dâu
Chẳng cần dựng quán, bắc cầu
Hai bờ tự tại, non đầu nguyệt xưa.


Tôi không ngại sự vụng về, nên dâng lên Thầy 2 tấm chân dung vẽ trên giấy, để bày tỏ lòng trân trọng với nhà sư mà tôi quý trọng như là pháp bảo và là quốc bảo này.

Nơi đây, xin dịch ra tiếng Anh bốn câu thơ trên, theo nghĩa sẽ khá dài vì dính vào tích ‘Thương hải biến vi tang điền’ – ra văn xuôi là:

Someone could suddenly understand the whole path; however, that person has to mindfully walk and wear out the grass through so many ever-changing lands. It’s not necessary to build a shelter or a bridge; just watch the ancient moon on top of the mountain, and realize the freedom beyond both shores of the river.

Dịch xuôi như thế giữ được sát nghĩa, trong đó giải thích về những cách nói truyền thống về Thiền Tông. Nhưng nếu dịch cô đọng để giữ chất thơ, có thể viết theo mệnh lệnh cách:

Just understand the whole path via sudden awakening,
walk mindfully and patiently through ever-changing bogs,
need not build a bridge or a dwelling,
watch the ancient moon and be free at either shore.

Trong buổi nói chuyện, tôi đã hỏi rằng Thầy có xem phim về cuộc đời Đức Phật mới chiếu tại Việt Nam chưa. Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh nói rằng chưa.

Tôi nói, tôi hoan hỷ khi thấy một Phật sự lớn, tốn nhiều công sức, như làm phim, được thành tựu. Tuy nhiên, tôi lo ngại, rằng kết quả chưa hằn là tốt. Vì khi cho Đức Phật nói giọng Nam, hay Trung, hay Bắc đều sẽ bất lợi. Người nghe lúc nào cũng có tâm phân biệt. Thậm chí, ngay khi đưa đức Phật trở thành hình tướng một nam nhân trên phim, cũng sẽ dễ khởi chấp nơi người xem. Dù vậy, cũng nên tán thán các phương tiện hoằng pháp thời mới như thế.

Vài hôm sau, tôi gửi một số tấm hình chụp trong Đêm Thơ Thiền Thư Pháp Minh Đức Triều Tâm Ảnh tới thầy và các bạn cư sĩ đã tạo cơ hội để có buổi hội kiến này.

Thầy đã từ bi email trả lời, trong đó ghi mấy dòng:

Tặng cư sĩ Nguyên Giác:
Ta đi qua dòng đục
Lội ngược đến nguồn xanh
Vẫn vỗ thuyền ca hát
Ngắm chân diện long lanh!

MĐTTA”

Nơi đây, xin dịch ra tiếng Anh bốn câu thơ này:

Inversely to the green headspring,
I travel over the muddy flowing,
tap the side of the boat,
sing, and gaze the bright true face.


Hôm nay được đọc bài thơ “Tôi Tìm Phật” của Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh, xin dịch ra để lưu niệm trong mùa Đại Lễ Vesak như sau.

TÔI TÌM PHẬT
Minh Đức Triều Tâm Ảnh

1-
"Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai"

Câu kệ ngôn xưa
Tôi đọc mãi, tụng hoài
Qua tháng qua năm
Tuổi tác chất đầy
Mà vẫn không bao giờ thuộc được

Tôi đã từng đi tìm ngài
Qua nguy nga chùa tháp
Tượng đài vàng son
Điểm ngọc, đeo châu
Từ kinh thành phồn hoa
Đến đô thị sắc màu
Chân dung Phật thật huy hoàng tráng lệ

Ngài ngồi trên bảo đài cao
Uy nghi chín bệ
Long phục, hổ chầu
Hàng quỷ, độ ma

Ngài phóng hào quang
Xuyên cõi ta bà
Oai nhiếp thần linh
Đoạt quyền Thượng Đế

Cứ mỗi độ Vesak
Là tưng bừng khắp năm châu bốn bể
Nhân loại lại reo hò đại lễ tôn nghinh
Cờ phướn, đèn hoa phất phới, lung linh
Nhã nhạc, trầm hương
Vũ ca dìu dặt!

Đấy có phải là chúng ta đi tìm Phật?
Khi chúng sanh đang thống khổ, tai ương
Khi đạo đức tan hoang, đỗ vỡ thê lương
Khi khủng bố, chiến tranh, điêu tàn nhân lý
Ngài đâu cần nhân gian tôn xưng, cổ suý
Đâu cần phù hoa sắc tướng tri ân

Mỗi người hãy tự tu
Tự ngắm bóng mình
Để thấy rõ tham sân chất dày bản ngã
Mặt nạ hư dối đã tráo lầm bao độ
Quá dày sâu không thấy rõ thực hư

Phật không thể ngồi trong điện các kim châu
Cũng đâu muốn chốn chốn già lam
Hoành tráng, lớn to
Để nhân huy chương, kỷ lục

Đệ tử sa-môn chỉ cần cội cây, lều trống
Ôm bát xin ăn, dị giản thanh bần
Manh áo cà sa chỉ để che thân

Đâu phải là tỷ phú, đại gia mà cao sang, kiểu cách
Đâu phải đại đế, tiểu vương
Mà lễ nghi phục dịch

Chân đất đầu trần, tuệ đức gương trăng
Buông bỏ, xả ly cả mảy vi trần
Không dính bụi


Khi huyễn thân trả về cho cát bụi
Hạt xá-lợi là ngọc
Được kết tinh từ vô biên trí giác
Từ vô biên hỷ xả từ bi
Có hành, có tu mới biết có gì
Đi tìm Phật khỏi thấy mình lạc lối


Tôi đã mê si, vô minh mà dặm trần dong ruổi
Chạy đuổi theo bóng sắc của ma vương
Những cám dỗ kiêu xa
Những ảo ảnh mê trần
Ngoại tướng là thiên cung
Nhưng bên trong là địa ngục

Bây giờ tôi đã tỉnh thức
Mong thế gian cùng tỉnh thức
Để trở về giác niệm quy y!

2-
Câu kệ ngôn xưa
Nguyên ngữ nói gì

"Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai"

Tôi đã từng thơ, văn giỡn chữ, khoe tài
Cũng đã từng mỹ ngôn
Đăng đàn thuyết giáo

Những băng đĩa âm thanh tuyệt hảo
Những video giảng nói hùng hồn
Những báo đài ầm ĩ phô trương

Đức Phật hôm nay cũng phải tiếp thị thị trường
Cũng buôn bán âm thanh
Cho người người tìm Phật
Đàn sáo, nhạc ca, hát ngâm xảo thuật
Mê ly lòng người
Đắm đuối kẻ "chân tu"

Tôi đã từng bỏ trí, theo ngu
Chạy theo ngôn lời chập chùng khái niệm
Đi tìm Phật
Lại rơi vào thanh tướng

Quyết "xao thôi" chữ nghĩa cho hay ho
Sự thực một ly
Là ngàn dặm xa bờ
Ngón tay chỉ không còn là mặt trăng
Mà thấy toàn xanh đỏ
Thấy của phái này, của hệ kia
Của mưu đồ vị kỷ
Của tông môn mình
Của tử đệ đồng tràng

Ai cũng là chân sư, đạo sư, giáo chủ vênh vang
Ai cũng nắm chân lý trong tay
Ai cũng là thánh nhân
Vì thương đời mà ra tay cứu độ!

Nào thông điệp
Nào tuyên ngôn rộn ràng dâu bể
Nói rồi xong theo ước lệ đời thường
Nói rồi vỗ tay

Đoàn kết, yêu thương
Như ngọn gió xao qua rồi mất
Như chữ nghĩa, ngữ ngôn, âm thanh
Đã hiển bày sự thật!

Ôi!
Có vị hiền đức đã nói:
"Tri giả bất ngôn,
Ngôn giả bất tri"
Biết bao năm đi tìm Phât
Mà tôi lại chạy đuổi theo thơ phú ca từ
Nói quá nhiều
Có nghĩa là đa ngôn đa quá
Nói nhiều thì lỗi nhiều
Nguyên ngôn càng xa lạ
Chỉ chứng tỏ sự nghèo nàn trí tuệ trong tôi

Lại còn tán hay, tụng giỏi, xướng tài
Chuông mõ dặt dìu
Cầu mong chánh giác

Tôi cũng đã từng
Mải mê âm thanh, sắc tướng
Mà bỏ quên giác niệm từng giờ
Mà bỏ quên tự tánh quy y
Tâm mình là Phật!

3-
"Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai"

Do vậy, hôm nay
Tôi cố gắng học thuộc bài
Câu kệ ngôn từ ngàn cao sương khói
Câu kệ ngôn vượt muôn trùng bóng tối
Để trở về tao ngộ chân tâm



Vesak đã về đây
Tôi lặng lẽ âm thầm
Trong căn phòng nhỏ xa quê
Đốt một thỏi trầm
Rồi trầm tư, mặc tưởng
Rồi toạ thiền
Rồi rời xa âm thanh, sắc tướng
Rời xa đảo điên, thế mộng phù du


Tôi đã từng bị bản ngã nhốt tù
Bản ngã lợi danh, kiêu căng, vị kỷ
Quyết học cho thuộc
Bài kinh về "lửa"
Lửa đã cháy rồi
Từ mắt tai mũi lưỡi
Lửa đã cháy rồi
Từ sắc thanh hương vị giác
Lửa đã cháy rồi
Địa đại, thiên hà

Ba cõi cháy rồi đốt bạn, đốt ta
Đốt cả nhàn vui, lạc an tâm lý
Đốt cả quỷ vương, dạ xoa, ma mị
Đốt cả rồi
Để thấy rõ duyên khởi tánh không


Từ tánh không
Có bóng Phật trăng lồng
Trời chân đế
Tao phùng trong từng hơi thở một

Tôi đi tìm Phật
Biết bây giờ là thật
Trong cô liêu
Chỉ có Phật của lòng tôi
Để nguyên ngôn chẳng hiện chữ lời

Chim bay trên trời kia
Đám mây trăng thong dong kia
Cùng vô tâm xoá giấu!

Đức Phật của tôi
Vẫn xán lạn
Triệu triệu huy quang tinh đẩu!

Chùa Hương Đạo
Fort Worth - Dallas - Texas
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
(Translated by Nguyen Giac)
IN SEARCH of BUDDHA
Minh Đức Triều Tâm Ảnh

1-
Those who rely on form to see me,
or rely on sound to seek me
are all in the wrong path
and cannot meet the Thus Come One.

I read and chant
that ancient verse over and over.
As months and years piled up
on my aged body,
I still cannot memorize it.

I has traveled in search of Buddha
via the enormous temples and stupas
via the golden statues and monuments
where the Buddha images are so marvelous
being adorned with diamonds and gems
-- in the luxurious capitals
and in the colorful cities

Sitting on high precious towers
Above nine princely tiers
With crouching dragons and flanking tigers
With surrendered ghosts and conquered demons

With radiant lights
beaming through the samsara
controlling all the angels
overcoming King of the Gods

In every Vesak season
people from five continents and four oceans
celebrate festivals with great fanfare --
colorful banners, floral lanterns,
pleasing music, incense rituals
and rhythmic dance shows

Is that the right way to go in search of Buddha?
While humanity mourns and suffers
While morality is wrecked and shattered
While terrorism and wars ruin the kindness and saneness
Buddha needs not be worshipped and glorified
with all the luxurious appearances

We all should practice ourselves
Just watch our reflections
To see clearly the greed and hatred
whose illusionary mask’s repeatedly deceived us
whose thick veil’s confused us about the truth

Buddha wants to neither sit in a jewelled palace
nor stay in any huge temple
to receive any medallion or world record

We monks need to live in simplicity --
a kasava robe to cover the body,
a bowl to go for almsround,
the foot of a tree or an empty hut for shelter

A monk should live like neither a billionaire
who lives in nobility and wealth
nor a king who demands
the services from obedient servants.

Just keep bald head, walk barefoot,
and have the wisdom of a shining moon
Just live a life of renunciation
and cling not to a grain of dirt

After this illusionary body returns to dust
some relics would be found among the ashes
They are jewels crystallized from the vast wisdom
from endless benevolence, compassion, empathetic joy, and equanimity
By practicing, we know what we gain
and where we walk on the path to find Buddha

I was deluded to go astray in samsara
clinging to the reflected forms of Yama
to the glamorous charms
to the lustful illusions
and to the Hell that appears as Heaven

Now, I am awake
I wish that all humanity would be awake too
and take refuge in enlightened insight.

2-
What did the ancient verse
mean in these words:

“Those who rely on form to see me,
or rely on sound to seek me
are all in the wrong path
and cannot meet the Thus Come One.”

I have played with poetry,
showed off my literary ability,
and come on stage to give dharma talks

My CDs have a superb sound quality
My videos show the eloquent dharma talks
My magazines and radios drummed up things vocally

Should Buddha today join marketing,
use nice voices to sell things,
invite humanity to seek Buddha,
lure people with beautiful music
and sink the “true practitioners”?


For a long time I shunned the wisdom
followed the ignorance
ran after noisy verses
went in search of Buddha
and fell among sounds and appearances

Selecting nice words to sugarcoat poems,
I strayed a thousand miles away from the shore
The finger points no more at the moon
I see now all the blue and red colors
raising by these sects and those schools
showing the selfish plots
to benefit their sects and schools


They all brag themselves as true masters
They say they have the truth in their hands
They say they are holy men and women
They say their love turn them into the saviors

They spread out messages
and declarations packed with ever-changing noises
They say and then, as normal people,
They clapped their hands

Sounds of unity and love
fly with the passing wind and vanish
ditto their words, their verses, and their voices
Thus the truth is shown

Oh!
An ancient sage once sald:
“The knowers do not say;
the sayers do not know.”
So many years as a Buddha seeker,
I went astray with words and verses
I spoke a lot
The more words, the more mistakes
The more miles away from the original words
Thus is shown my mental poverty.


Also, I did so well with the singing and chanting
I prayed rhythmically with the bell and drum
to ask for the true enlightenment

Also, I was seduced by the sounds and forms
Thus I forgot to be constantly mindful
Thus I forgot to take refuge in the self nature
-- The mind is Buddha


3-
Those who rely on form to see me,
or rely on sound to seek me
are all in the wrong path
and cannot meet the Thus Come One.

So today
I try to learn by heart
the ancient verse that has been passed on from the highest mountain
the ancient verse that has guided me through the thousand darkness
-- and now, I see the true mind

Vesak has come here
I calmly feel the peace
in a small room far away from home
burn a piece of incense
then rest in mindfulness
then sit in meditation
and then depart away from the sound and form
-- thus departing away from the upside-down and illusionary world

I was a prisoner of myself
-- of greediness, arrogance, selfism
I now try to learn by heart
the Fire Sermon
The fire is burning
from the eyes, ears, nose and tongue
The fire is burning
from the form, sound, odor, flavor and sensation
The fire is burning
all over the earth and sky

The fire is burning the three realms
burning you, burning me
burning all the pleasure and satisfaction
burning all the demons and ghosts
burning all things
to show clearly the causal emptiness

From the emptiness
the reflection of Buddha appears in the moon
The sky of ultimate truth
absorbs in each of my breaths

I go in search of Buddha
and know this moment is real
In the solitariness
there appears only the Buddha of my mind
there appears the wordless of the original words

The flying birds in sky and
the floating white clouds
cannot block the view anymore

My Buddha
still shines bright
all over the millions of stars!

Huong Dao Temple
Fort Worth – Dallas – Texas
Minh Duc Trieu Tam Anh
(Translated by Nguyen Giac)

Nơi đây, xin trân trọng cảm ơn vị đại sư viện chủ sơn tự Pomona và các thiện hữu tri thức đã giúp cho có cơ duyên gặp gỡ này. Và hy vọng độc giả sẽ niệm tình bỏ qua cho những sơ suất trong bài này, nếu có.


PHOTO:
blank
Hình từ phải: Các anh Tôn Tiên, Trần Minh Anh, Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh, Cư sĩ Nguyên Giác.
Hai vị thiện tri thức từng biết thầy từ nhiều thập niên trước ở Huế. Từ phải: anh Tôn Tiên, anh Trần Minh Anh.
blank
Thầy Minh Đức Triều Tâm Ảnh trao tặng tấm thư pháp.
blank
Cúng dường thầy hai tấm chân dung vẽ lưu niệm.
blank
Tấm thư pháp.
blank
Anh Trần Minh Anh đàn.
blank
Hai vơ chồng bạn Tôn Tiên.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/10/2024(Xem: 59)
Nghiệp nhân lành kết từ ngàn năm trước Thuận duyên sinh tươi nở cõi ta bà Hoa trái thơm tho sắc màu rực rỡ Cúi đầu đảnh lễ cúng dường Quán Âm. Đây lời thơ của con tim chân thật Cảm nhận từ pháp vũ đạo nhiệm mầu Tâm tịnh an lạc vừa mới khởi đầu Rất thánh thiện nguồn cam lồ vô tận.
06/10/2024(Xem: 108)
Pháp quốc khai giảng Bậc Kiên Trên zoom toàn thể Lam viên đủ đầy Lòng anh chị Trưởng vui thay! Nhìn các em học tràn đầy mến thương Tương lai trên những bước đường Cấy trồng Sen Trắng được vươn thêm cành.
03/10/2024(Xem: 379)
Những lời vàng trong kinh điển chuyển sang PDF Luôn sống cùng, lớn lên theo mãi thời gian Từ sáng tinh mơ, ngồi chăm chú theo âm vang Những pháp thoại đến từ năm cũ hòa với hiện tại Lời động viên, giải đáp giúp nuôi dưỡng mãi Sống để hạnh phúc hay tồn tại, hãy tự tìm ra Làm sao cho những ý tưởng ác là gió thoảng qua, Tạo thêm nhiều điều thiện biến thành châu ngọc Con đường ấy chỉ phải là Nghe, Đọc Để rồi rưng rưng hai hàng giọt lệ tri ân
02/10/2024(Xem: 267)
Nguyễn Bá Chung cùng quê hương đại thi hào Nguyễn Trãi. Một sớm tinh mơ nào, vào cuối thu 1949, nhà thơ mở mắt chào đời nơi vùng quê Định Giàng, Đại Đức, cách chân núi Chí Linh, Hải Dương một đường chim bay. Khoảng giữa năm 1954, mới vừa 6 tuổi đã vội vã chạy theo cha mẹ di cư vào Sài Gòn. Bản chất thông minh, học hành quá xuất sắc, nên được Đại học Brandeis cấp học bổng du học tự túc Hoa Kỳ (1971) và sống định cư luôn bên Mỹ, từ đó cho đến bây giờ.
30/09/2024(Xem: 623)
Dưới cái nhìn trí tuệ trong thời đại mới. Người Phật Tử phải thể hiện được… Bát Chánh Đạo trong sự sống! Dùng pháp chăn trâu mang Đạo Phật vào đời Tư duy đa chiều theo khoa học sẽ rạng ngời (1) Bằng thể hiện phương thức phù hợp xã hội phát triển!
28/09/2024(Xem: 334)
Quán Âm đứng giữa trời thanh Tay bình tịnh thủy tay nhành liễu xanh Nhìn đời qua ánh mắt lành Bằng tâm Bồ Tát chúng sanh không rời. Mẹ ơi! Đứng từ bao giờ Người đời qua lại vui cười thản nhiên Biết đâu rằng khí linh thiêng Từ vô lượng kiếp hiện tiền nơi đây
27/09/2024(Xem: 484)
Phật Pháp là cứu cánh Với mỗi một chúng ta, Để sống thiện, hữu ích, Hạnh phúc và an hòa. Khi thấm nhuần Phật Pháp, Hiểu cái khổ chúng sinh, Ta sống có ý nghĩa, Với đời và với mình.
27/09/2024(Xem: 342)
Hôm nay con vào nghe Ni Sư Tâm Vân giảng Những Người Mẹ Vĩ Đại Sư nhắc Mẹ Tâm Thái Khi Sư qua bên Mỹ Để gieo mầm Phật Pháp Mẹ chia tay dặn Sư: Con gái yêu của Mẹ, con làm con của Mẹ Chỉ được mười mấy năm Duyên của Mẹ cùng con Bây giờ con ra đi Trên con đường của con,
25/09/2024(Xem: 266)
Đạo Phật ngày nay lắm nhiễu nhương Giới luật lỏng lẻo thiếu kỷ cương Lạm dụng phương tiện sai chánh pháp Khiến đạo vàng dở dở ương ương. Xuất gia không còn đúng lý nghĩa Thế gia, phiền não, tam giới gia Tục gia không còn xuất ra được Mong gì được tự tại an nhiên.
25/09/2024(Xem: 1154)
Con vừa ghi lại buổi pháp thoại Thầy thuyết giảng về "Đại Sư Thiếu Khang, vị Tổ thứ 5 của Tịnh Độ Tông Trung Hoa", con kính gửi Thầy xem và chỉnh sửa thêm trước khi online. Con kính cám ơn Thầy cho phép con phiên tả, vì đây là cơ hội để con chú tâm để hiểu ít nhiều về Phật pháp thêm vào vốn liếng giáo lý quá ít ỏi của con. Bạch Thầy, con chợt nhận ra rằng, Thầy đã dùng phương tiện này để dẫn dắt con, thay vì như Tổ Thiếu Khang cho tiền để trẻ niệm A Di Đà, Thầy đã khéo léo bảo con tường thuật để cột tâm con vào một mối không đi lang thang như khi ngồi nghe giảng hay tụng kinh. Con kính tri ân Thầy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com