TÂM LINH MẦU NHIỆM
LỜI PHẬT DẠY TRÁNH XA HAI CỰC ĐOAN
Khi Phật còn tại thế, Ngài thường dạy các đệ tử như sau:
_ Này các Tỳ kheo, có hai cực đoan mà người xuất gia cần phải tránh xa:
+ Một là đắm say các dục vọng, tham muốn thấp hèn, thô bỉ, có tính cách phàm phu tục tử, không dẫn đến đức hạnh Thánh nhân, không liên hệ đến mục đích tu tập, giác ngộ, giải thoát.
+ Hai là tự mình ép xác, khổ hạnh quá mức, làm thân đau đớn, mệt mỏi, tâm không được thanh tịnh, sáng suốt, không xứng đáng là bậc hiền Thánh, không liên hệ đến mục đích tu tập, giác ngộ, giải thoát.
_ Này các Tỳ kheo, ai tu theo đạo giác ngộ, giải thoát, cần phải có chánh trí, tránh xa hai cực đoan này, biết quay trở lại pháp tu trung đạo, làm cho thân tâm hài hòa để thành tựu đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Giác.
_ Này các Tỳ kheo, chúng ta hãy theo con đường Trung đạo do Như Lai tu tập, chứng ngộ, có khả năng chịu đựng sự khắc nghiệt trong mọi hoàn cảnh, có được tuệ giác thấu rõ mọi sự vật dẫn đến bình an, hạnh phúc, Niết Bàn và giải thoát.
_ Này các Tỳ kheo, con đường Trung đạo, chính là 8 phương pháp nhiệm mầu, chánh đáng: Quan niệm chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính. Đây là con đường trung đạo, do Như Lai thấy biết đúng như thật nhờ biết buông xả, nên phát sinh trí tuệ, đưa đến an lạc, hạnh phúc, thể nhập Niết Bàn, giải thoát.
Pháp thoại này Như Lai Thế Tôn nói khi đến vườn Nai để độ năm anh em Kiều Trần Như. Đức Phật khẳng định con đường trung đạo là con đường vượt lên trên hai cực đoan, hưởng thụ dục lạc và khổ hạnh ép xác.
Như vậy, sự hưởng thụ, đắm say theo các cảm xúc khoái lạc giác quan mà đa số nhiều người cho đó là hạnh phúc cao nhất trần đời, những tham vọng trần tục, hay lối tu chịu cực khổ quá mức, đều không phải là chánh đạo, không liên hệ đến mục đích giải thoát.
Hưởng thụ khoái lạc giác quan là lối sống của đức Phật khi còn là hoàng thái tử, Ngài đâu có thiếu thốn thứ gì. Tại sao Phật vẫn từ bỏ hết tất cả, để rồi cuối cùng Ngài được tất cả. Suốt 49 năm giáo hóa độ sinh, Phật chỉ có ba y một bình bát, sống đời rày đây mai đó, tùy bệnh cho thuốc, giúp đỡ mọi người.
Với lối tu khổ hạnh ép xác, Phật đã từng khổ hạnh như thế suốt sáu năm dài đăng đẳng; cuối cùng, thân thể kiệt quệ, dẫn đến ngất xỉu, may nhờ có cô thôn nữ chăn bò giúp cho bát sữa, nên Ngài hồi tỉnh và chiêm nghiệm lại sự tu tập trong những năm qua; cuối cùng, Phật đã tìm ra con đường trung đạo. Đây cũng là kim chỉ nam tu tập cho tất cả những người con Phật, nhất là hàng xuất gia.
Cả hai cực đoan đều thấp kém, hạ liệt, đắm say trong các dục và tự mình hành xác khổ đau, đều không dẫn đến an lạc, hạnh phúc và giải thoát.
Con đường hưởng thụ dục lạc thế gian như chúng ta đã biết, trong cái vui đó luôn đi đôi với mầm móng khổ đau, nhưng lại vô thường, tạm bợ, mong manh. Vì sao? Vì thương yêu mà xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được khổ và cuối cùng là chết khổ. Con đường khổ hạnh ép xác làm cho thân thể bại hoại, suy yếu, làm hành giả không đủ sáng suốt, minh mẫn, để hướng tâm vào mục đích giác ngộ, giải thoát.
Chính đức Phật đã trải qua hai lối sống đó, Ngài đã thật sự trải nghiệm trong tu tập chứ không phải lý thuyết suông do suy luận. Nhờ vậy, sau khi chứng ngộ, Phật đến vườn Nai để chỉ cho năm người bạn đồng tu khi xưa.
Từ xa, năm người này thấy Phật đang đi đến, họ nói với nhau rằng, “sa môn Cồ Đàm đã tu theo lối hưởng thụ rồi, chúng ta không nên tiếp”. Tuy đã thỏa thuận như thế, nhưng khi Phật đến, người thì lấy nước rửa chân, người thì mời ngồi và tất cả đều cung kính vái chào; và Phật đã nói, “con đường trung đạo là xa lìa hai cực đoan, hưởng thụ và ép xác”. Nhờ vậy, năm anh em đồng tu khi xưa chứng quả giác ngộ, giải thoát.
Như vậy, trong chừng mực nào đó, con đường trung đạo chính là con đường thiết lập lại quân bình, làm cho thân tâm được an ổn, hài hòa, và biết cách hướng tâm về mục đích. Muốn được như vậy, ta phải có cái nhìn sáng suốt, nghĩa là muốn ít, biết đủ, ăn vừa đủ để nuôi cơ thể, nhờ vậy thân mạnh khỏe, tâm sáng suốt, nên dễ dàng tu tập để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, hạnh phúc.
Trong bối cảnh ngày nay, con người văn minh, tiến bộ vượt bực, nền kinh tế xã hội phát triển vật chất dồi dào, nhờ đó mà chùa to Phật lớn được xây dựng theo kiến trúc hiện đại. Đời sống của người xuất gia được nâng cao với nhiều tiện nghi vật chất, phòng cao cửa kính, sang trọng, bề thế và nhiều nhu cầu xa hoa khác. Chúng ta có thể xem đó là lối sống trung đạo hay không? Cho nên, ta cần phải tìm hiểu lời Phật dạy cho rõ ràng, chín chắn, để biết cách áp dụng sao cho phù hợp với con đường trung đạo.
Quan trọng hơn hết, đức Phật đã dạy, tinh thần trung đạo của Ngài là thấy biết chân chính, tư duy chân chính, lời nói chân chính, hành vi chân chính, nghề nghiệp chân chính, nỗ lực chân chính, ý niệm chân chính và thiền định chân chính. Như vậy, ta tránh xa hai cực đoan chính là dẹp bớt những trở ngại có tính cách thái quá, sang trọng, vì nhiều tiện nghi vật chất quá thì khó tu. Nói chung, ta phải biết tùy thời, tùy duyên không nên quá cố chấp, để rơi vào trạng thái tham đắm, dính mắc, bằng cách muốn ít, biết đủ.
Cốt tủy của con đường này là thành tựu chánh kiến, thấu triệt được nguyên lý duyên khởi, vô thường, vô ngã, tất cả thân, tâm và cảnh đều do duyên hợp không thật có. Do đó, ta không chấp ngã, nên không chiếm hữu mà vượt thoát mọi sự ràng buộc của tham-sân-si, nhờ vậy không bị dính mắc vào cái ta và của ta, nên chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát.
Ở cực đoan thứ nhất, lúc còn ở trong cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, Thái tử Sĩ Đạt Ta đã hưởng thụ đầy đủ mọi lạc thú trên trần đời này, với danh vọng, quyền uy tột đỉnh nhất trong thiên hạ. Với con mắt bình thường của chúng ta, ai cũng ước mơ và mong muốn để được tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ ấm, mặc sang, ở và làm việc được đầy đủ tiện nghi, vật chất.
Nhưng đối với Phật khi xưa, Ngài thấy những thứ đó là cạm bẫy cuộc đời, chôn vùi con người vào sự ràng buộc, bởi tham đắm, luyến ái vợ con, còn hơn gông cùm, ngục tối, vì khi hết hạn thì có ngày ra khỏi, còn hưởng thụ khoái lạc giác quan, luyến ái vợ con, coi như bị giam cầm mãi mãi từ đời này sang kiếp nọ không có ngày thôi dứt.
Ở cực đoan thứ nhất, đời sống lợi dưỡng và sự cám dỗ của ngũ dục như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều, thường làm chúng ta bám víu, chấp vào tự ngã là ta và của ta, nên khởi lên tham muốn chiếm hữu về mình. Cho nên, con người càng trở nên nhu nhược, yếu đuối, thấp hèn hơn, và cuối cùng sẽ không có thời gian, cơ hội để tu tập mà thể nhập con người tâm linh sáng suốt.
Ở cực đoan thứ hai, Ngài cùng tu khổ hạnh ép xác với năm anh em kiều Trần Như ròng rã suốt sáu năm trường, đến độ thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, tinh thần u ám, tâm tư không được minh mẫn, sáng suốt, nên không tìm ra lối thoát.
Thân và tâm là hai yếu tố quan trọng luôn liên hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau trong một cơ thể con người. Nếu ta luôn tỉnh giác hằng ngày, ý thức ba việc thường chớ đủ là ăn mặc, ngủ; hay nói cho đúng hơn, ta phải muốn ít, biết đủ, chỉ ăn uống điều độ vừa đủ để nuôi thân, làm việc, vận động hợp lý, ngủ nghỉ cho có chừng mực, nên thân khỏe mạnh, tinh thần sáng suốt, nhờ vậy mình dễ dàng buông xả mọi dính mắc trong cuộc đời mà thành tựu đạo pháp.
Nói tóm lại, đức Phật khi xưa đã trải qua hai cực đoan, hưởng thụ và hành xác, để rồi cuối cùng, dưới sự quyết tâm dũng mãnh của bản thân, Ngài đã vượt khỏi hai lối sống cực đoan mà thành tựu con đường trung đạo.
Bát chánh đạo là tám con đường tâm linh mầu nhiệm chân chính. Tám nguyên tắc mầu nhiệm ấy có liên hệ nhân quả rất mật thiết với nhau như sau:
1. Chánh kiến: là hiểu biết đúng đắn, hay thấy biết đúng như thật.
2. Chánh tư duy: Suy nghĩ, xem xét, chiêm nghiệm đúng.
3. Chánh ngữ: Nói lời chân thật, đúng lý lẽ.
4. Chánh nghiệp: Hành động chân chính.
5. Chánh mạng: Làm việc mưu sinh chân chính.
6. Chánh tinh tấn: Cần mẫn và nỗ lực chân chính.
7. Chánh niệm: Ý thức chân chính nhờ sự quán chiếu, soi rọi.
8. Chánh định: kiên định tập trung tâm tư vào con đường chân chính, không để bất cứ điều gì lay chuyển, làm thoái chí, phân tâm.
v CHÁNH KIẾN
Qua bài kinh Chuyển Pháp Luân của đức Phật, giảng tại vườn Nai cho năm anh em Kiều Trần Như nghe, Bát Chánh Đạo là nội dung chính Đức Phật muốn nói ra, khi Ngài đã lìa khỏi hai cực đoan. Đức Phật đã trải qua hai lối sống hưởng thụ lợi lạc, đam mê ái dục, danh lợi, quyền lực trong cung điện, và sáu năm tu khổ hạnh nhưng không tìm ra lối thoát. Ý nghĩa chính của con đường trung đạo là sự thức tỉnh và thấy biết đúng như thật của đức Phật qua hai kinh nghiệm từng trải trong đời, để rút ra một kết luận và khuyên nhủ mọi người đừng để bị rơi vào hai cực đoan ấy.
Thứ nhất là đắm mình trong dục lạc thế gian như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ nhiều, dẫn đến nguy hại, là một điều chúng ta cần phải tránh xa. Tự hành hạ mình bằng các hình thức tu khổ hạnh, ép xác, dẫn đến thân đau khổ, tâm u mê, không sáng suốt, tác hại vô cùng là điều ta không bao giờ nên làm.
Đức Phật cho thấy, cuộc sống của chúng ta ít bao giờ được hoàn hảo với bất cứ một ai. Ai cũng có một nỗi khổ, niềm đau riêng, bởi bản chất của con người trong xã hội, ai cũng đều có khát vọng, mong muốn, tìm cầu hưởng thụ tiện nghi vật chất. Khi những chướng duyên, nghịch cảnh của xã hội làm cho con người phiền muộn, đau khổ, họ sẽ tìm về với gia đình, người thân, mong được an ủi, sẻ chia và nâng đỡ.
Đức Phật có tầm nhìn và sự hiểu biết sâu rộng hơn, nhờ trải qua hai lối sống thái quá, nên Ngài biết cách tìm về con đường trung đạo, nhằm giúp bản thân hoàn thiện, cùng nâng đỡ, sẻ chia, để mọi người cùng đạt đến sự an lạc, hạnh phúc trong cuộc sống hiện tại.
Chánh kiến, chánh tư duy thuộc về trí tuệ. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về giữ giới. Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về định lực.
Tám nguyên tắc hành động Bát Chánh Đạo không phải là một tiến trình sắp xếp theo thứ tự nhất định, như việc yếu tố này phải đứng trước yếu tố kia. Trên phương diện thiết lập để tu học, tám yếu tố này được chia ra làm ba nhóm:
_ Nhóm giới luật được liên kết nhau bởi chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.
_ Nhóm định lực được kết hợp hài hòa bởi chánh tin tấn, chánh niệm và chánh định.
_ Nhóm trí tuệ được chiêm nghiệm và tu tập bởi chánh kiến và chánh tư duy.
Nói rộng ra là Bát Chánh Đạo, nói gọn lại là Giới-Định-Huệ. Do đó, trí tuệ là một phương tiện tu tập thiện xảo, hầu giúp mọi người thức tỉnh để mở mang tâm trí, và thấy biết đúng như thật.
Bát Chánh Đạo là tám con đường ngay thẳng, hay là tám phương pháp nhiệm mầu mật thiết, luôn giúp người Phật tử đạt đến an lạc, hạnh phúc trong đời sống hằng ngày. Trong đạo Phật, Bát Chánh Đạo được xem như phương pháp số một, giúp chúng ta biết cách dứt trừ phiền muộn, khổ đau để đạt đến an vui, tự tại, giải thoát.
Đây là sự hiểu biết thông suốt toàn diện về mọi mặt từ thân, tâm và mọi hiện tượng sự vật, giúp ta thức tỉnh để vượt thoát sự ràng buộc ra khỏi cái thấy biết sai lầm, tham lam, ích kỷ, oán giận, thù hằn, ngu si, mê muội thuộc chủ nghĩa cá nhân.
Đức Phật chỉ cho ta biết cách làm chủ bản thân, quay lại chính mình để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ. Vì thấy biết sai lầm mà ta phải chịu khuất phục bởi một đấng thần linh giả tạo, với niềm hy vọng mong mình được cứu rỗi, thoát khỏi bao cảnh lầm than, khổ sở mà chính mình đã tạo ra. Trí tuệ không phải là sự hiểu biết bình thường của tri thức, mà là kết quả của sự tu học tinh cần của tâm thức.
Bát Chánh Đạo là một trong 37 phẩm trợ đạo, là pháp môn tu tập căn bản của Phật Giáo Nguyên Thủy, bất cứ một vị xuất gia nào cũng phải hiểu rõ giáo lý này, nó là kim chỉ nam, là phương pháp tu tập căn bản. Như vậy, Bát Chánh Đạo nghĩa là con đường dẫn đến Thánh quả, hay con đường đi đến sự hoàn thiện chính mình trọn vẹn.
Từ người phàm phu tục tử, chúng ta có thể nương theo Bát Chánh Đạo để tu, thì khỏi sợ lầm lạc, rơi vào chỗ dữ, từng bước sẽ chứng được quả hiền Thánh trong tương lai.
Loài người trên thế gian này lúc nào cũng mong muốn tìm cầu hạnh phúc chân thật. Hạnh phúc đó tùy theo sự nhận định của mỗi người và sự hiểu biết của cá nhân. Đó là lý do tại sao có sự khác biệt trong thế giới con người về quan niệm hạnh phúc.
Theo như chúng tôi được biết, khái niệm Chánh mà giáo lý nhà Phật thường hay gọi là để phân biệt với Tà. Thứ nhất, xem giáo lý nhà Phật như là Chánh pháp. Khi chúng ta gọi giáo lý nhà Phật là Chánh pháp thì chúng ta phải nói đến giáo lý: Duyên Khởi, Vô Thường và Vô Ngã.
Duyên khởi, vô thường và vô ngã là qui luật tự nhiên hay bản chất của các pháp. Không một pháp nào lại không do nhân duyên kết hợp mà thành, cái gì do nhân duyên kết hợp lại mà thành, cái ấy không có tự tánh, không thể tồn tại độc lập và không có tự thể cố định.
Như vậy, giáo lý Duyên Khởi, Vô Thường, Vô Ngã là bản chất của cuộc sống. Bất cứ ai, dù là người của tôn giáo, hay đảng phái nào, cũng phải tuân theo qui luật này, không thể làm khác đi. Cho nên, tùy theo nhận thức của chúng sinh mà có sự hiểu biết khác nhau, nên sinh ra cái thấy không ai giống ai. Chính vì vậy, chúng ta gọi giáo lý nhà Phật là Chánh pháp, điều được nói đến là giáo lý Duyên Khởi, Vô Thường và Vô Ngã. Ý nghĩa này đúng về mặt chân lý, nên gọi là Chánh pháp.
Đi ngược lại với chánh kiến là tà kiến ? Tà kiến là cái thấy sai lệch về sự thật, rồi tạo thành những kiến thức sai lầm, những sự hiểu biết không có sự trải nghiệm bản thân, dẫn đến chỗ tranh chấp, hơn thua, bảo vệ thành trì cố chấp mà sinh ra phiền muộn, khổ đau, tạo nên ân oán, hận thù không có ngày thôi dứt.
Trước khi tìm hiểu ý nghĩa Bát Chánh Đạo, chúng ta cần phải làm rõ ý nghĩa chữ chánh theo nhà Phật định nghĩa như thế nào. Thế nào gọi là chánh? Chánh có nghĩa là ngay thẳng, đúng đắn, tốt đẹp. Nếu như giáo lý nhà Phật là chánh, thì tại sao trong đó có khá nhiều hiện tượng mê tín, dị đoan. Để mọi người hiểu đúng theo nghĩa này thật sự không đơn giản tí nào.
Khi có ai đó mê tín, dị đoan, là niềm tin mù quáng, không có quán xét, chiêm nghiệm, khiến con người mất hết lý trí, mà có thể làm hư hại, tan nát hạnh phúc gia đình, người thân. Như vậy, cái gì làm cho ta nhìn thấy và hiểu biết đúng đắn? Chỉ có tuệ giác của Thế Tôn do tu tập nên chứng biết mà thôi.
Trong cuộc sống, nếu ta biết xem xét, chiêm nghiệm và áp dụng tám nguyên tắc trên trong mọi hoàn cảnh, ta sẽ thấy rõ ràng sự liên hệ nhân quả mật thiết, tương quan giữa những nguyên tắc ấy.
Chúng ta hãy xem xét cho tường tận nguyên tắc thứ nhất là hiểu biết chân chính, tức là sự thấy biết đúng như thật, thì hành động mới tốt đẹp, không làm tổn hại cho ai. Do đó, chánh kiến là rất cần thiết trong việc chọn lựa nghề nghiệp. Nhưng ta phải làm thế nào để thấy biết đúng?
Chi thứ nhất trong Bát Chánh Đạo là chánh kiến, có nghĩa là sở kiến, kiến giải, ý kiến, quan điểm. Chánh kiến ở đây không phải là sự thấy đơn thuần như mắt nhìn thấy các hình ảnh sự vật, mà phải là cái thấy đúng như thật, có nghĩa là thật biết thật, giả biết giả.
Người có chánh kiến luôn luôn lúc nào cũng biết phân biệt và kiểm soát chặt chẽ các mặt hoạt động của thân và tâm, như suy nghĩ chân chính về lời nói, việc làm, mạng sống và sự nỗ lực tinh tấn, để đạt được chánh niệm nhờ có định lực sâu dày.
Hiểu biết chân chính là cái nhìn mọi hiện tượng, sự vật dưới nguyên lý duyên khởi, vô thường và vô ngã, tức không có chủ thể cố định, không có nguyên nhân đầu tiên của thế giới, không có thượng đế ban phước giáng họa, tất cả đều biến thiên, thay đổi, không thực thể.
Ba chi cuối cùng là tinh tấn, niệm và định, là sự quyết tâm tu tập. Chúng ta tu tập là ý thức muốn sửa sai, nếu ý thức này bắt nguồn từ cái thấy sai lệch, cho rằng có một linh hồn bất tử, thì sự tu tập đó trở thành vô dụng. Người tu như vậy không bao giờ đạt được mục đích giác ngộ, giải thoát, nên chánh kiến có vai trò rất quan trọng trong việc kiểm soát sự nỗ lực tu tập đó có đúng hay không?
Nếu sự tu tập đó được bắt nguồn từ chánh kiến, chánh tư duy, thì ắt hẳn chúng ta sẽ có lời nói chân chánh, không nói lời giả dối để lường gạt người. Ngược lại, nếu như không có chánh kiến mà là tà kiến, sẽ dẫn đến suy nghĩ bất chính và làm những việc xấu ác, cuối cùng sẽ gặt lấy quả phiền muộn, khổ đau.
Theo lời Phật dạy, sự thấy biết đúng như thật không phải do sự học hỏi trong sách vở hay suy tư, phân tích bằng trí thức. Sự thấy biết đúng như thật là kết quả của sự trải nghiệm, và nhờ vào sự chứng ngộ của bản thân do tu tập đúng pháp.
Muốn thành tựu con đường trung đạo, ta phải biết áp dụng Bát Chánh Đạo, như sự liên hệ tương quan, tương duyên mật thiết với nhau, bồi đắp cho nhau, mà không thể thiếu nhau. Tám nguyên tắc hành động này lúc nào cũng làm nhân và quả để hỗ trợ cho nhau, nếu mất một chi thì không thành tựu con đường trung đạo.
Thế nào là chánh kiến? Phật nói, khi ta hiểu lý nhân quả, không còn nghi ngờ, tức là chánh kiến; tức là thấy biết tất cả mọi hành động lành hay dữ, sẽ cho ra kết quả tốt hay xấu của mình. Đời trước, chúng ta có khi làm lành, có khi làm dữ, nên thân này có khi được vui vẻ, hạnh phúc, có lúc bị phiền muộn, khổ đau. Khi ta đã biết thân tổng báo này chịu ảnh hưởng nhân quả, nghiệp báo đời quá khứ, nên hiện tại mình phải nỗ lực tu hạnh lành, để chuyển hóa và thay đổi những nghiệp xấu ác trước nhẹ bớt. Ai thấy biết như thế là chánh kiến.
Hiện tại, có một số người tự xưng mình là Phật tử, mà lại không có chánh kiến, đôi khi lại ôm ấp tà kiến, hoặc chấp thường, hoặc chấp đoạn. Một số người nghĩ rằng, mình có một linh hồn bất tử không đổi thay, lâu dài không mất, thân này chết đi, đời sau có thân khác cũng y như vậy.
Họ cho rằng, trời chết sinh trời, người chết sinh người, thú vật chết sinh thú vật, giống y như bản photocopy vậy. Như việc ông B giàu có, chết rồi sanh ra cũng là B giàu có. Tin linh hồn mình bất tử, không bao giờ thay đổi, tin như vậy đạo Phật gọi là chấp thường kiến, tức là cái thấy không đúng chân lý, nên khi sống họ mặc tình gây tạo tội lỗi, khi phước hết thì họa đến, chịu khổ vô lượng kiếp, bởi quan niệm sai lầm này.
Lại có nhiều người cho rằng, chết là hết, thân tứ đại sau khi mất sẽ rã tan, trả về cát bụi. Chấp như vậy gọi là đoạn kiến, cái thấy không còn gì nữa. Cả hai kiến chấp đó Phật đều không chấp nhận. Ai chấp như thế là do thấy biết sai lầm mà rơi vào tà kiến.
Còn nếu ta tin rằng, linh hồn vẫn còn mãi thì việc làm lành dữ, thiện ác đối với họ thật vô nghĩa, vì trước sau như một, chẳng có gì đổi thay. Còn nếu cho rằng, chết là hết, thì việc làm lành dữ đối với họ cũng không cần phải quan tâm nữa, nên họ mặc tình gây tạo tội lỗi.
Người tu theo đạo Phật phải thấu hiểu lý nhân quả một cách sâu sắc, rõ ràng và tường tận, ai biết làm điều thiện lành như bố thí, giúp đỡ, sẻ chia, thì được sanh lên ba đường thiện là Trời, Người, A-Tu-La. Ai làm việc xấu ác như giết hại, trộm cướp lường gạt, tà dâm, phá hoại hạnh phúc gia đình người, nói dối, gạt gẫm, uống rượu, say sưa, hay dùng xì ke, ma túy, thì đọa xuống ba đường dữ là Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sanh. Như vậy, tất cả mọi chúng sinh đi lên hay đi xuống tùy theo nghiệp thiện hay ác mà đến chỗ an vui hạnh phúc hay sa đọa khổ đau.
Hiện tại, chúng ta còn là phàm phu tục tử, muốn làm được như thế thì mình phải biết tin sâu nhân quả. Phật dạy, ai chấp vào thường kiến và đoạn kiến là một sai lầm nghiêm trọng lớn lao, khiến người sinh tâm ỷ lại mà làm các điều xấu ác. Người tu Phật không nên chấp như thế, mà phải có chánh kiến nhờ biết tin sâu nhân quả.
Chánh kiến hay hiểu biết chân chính là cái thấy đúng như thật, sự thực của thân, tâm và thế giới, mọi sự vật hiện tượng như thế nào thì ta biết rõ như thế đó. Đức Phật thấy rõ ràng, chính xác, như người đứng trên lầu cao, nhìn xuống ngã tư đường, hay thấy trái xoài trong lòng bàn tay. Tuy nhiên, chánh kiến có nhiều mức độ cao thấp khác nhau, tùy theo khả năng tu học và hiểu biết của mình.
Mức cao nhất của chánh kiến gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, hay nói cho đầy đủ là Phật Đà. Đối với người tu Phật, chánh kiến rất cần thiết và quan trọng hàng đầu, chúng ta phải duy trì và phát triển mãi mãi bằng sự nghiền ngẫm, nghiệm xét, quán chiếu, soi sáng và tu tập.
Chánh là ngay thẳng, đúng đắn. Kiến là nhận thấy, nhận biết. Nói cho đầy đủ, chánh kiến là thấy, nghe, hay, biết một cách đúng đắn, công minh, đúng với sự thật khách quan, mọi sự vật, hiện tượng như thế nào thì thấy rõ như thế đó.
Người có chánh kiến lúc nào cũng thấy đúng chân lý, thật biết thật, giả biết giả, không thấy trắng thành đen, không thấy tốt thành xấu, thấy rõ ràng như vậy, tuy không phân biệt mà vẫn thường biết rõ ràng.
Chúng ta nên nhớ, chết không phải là hết, mà chỉ thay hình, đổi dạng với hình thức khác, tùy theo nghiệp nhân tốt hay xấu trong hiện tại mà cho kết quả trong tương lai. Nếu ta cho rằng, mọi thứ là cố định, thì ta sẽ rơi vào lỗi thường kiến; còn nếu cho rằng, chết là hết, thì rơi vào lỗi đoạn kiến, trái với nhân quả nghiệp báo của đạo Phật.
Nhờ hiểu được nguyên lý nhân duyên, ta phải một bề biết cung kính, tôn trọng các bậc hiền Thánh nhân. Đối với những bậc được coi là ruộng phước thì ta siêng năng, vui vẻ cúng dường. Ruộng phước có nhiều thứ: Cha mẹ là ruộng phước lớn giúp cho người con hiếu thảo, biết ơn và đền ơn công mang nặng đẻ đau, nuôi nấng vất vả, nhọc nhằn; những người tu hành chân chánh, biết đem những lời Phật dạy có tính cách ích mình, lợi người, là ruộng phước của hàng Phật tử tại gia; cùng với những trẻ mồ côi, người nghèo đói, bệnh tật, là ruộng phước của người tu hạnh bố thí, sẻ chia, hay nâng đỡ tha nhân.
Người Phật tử tại gia xây chùa, tạc tượng, ấn tống kinh sách, băng đĩa, cúng dường tứ sự cho Tăng Ni có thời gian an ổn tu hành để duy trì mạng mạch Phật pháp, là đã gieo giống tốt vào ruộng phước. Người con hiếu thảo biết chăm sóc, cung kính, dưỡng nuôi, an ủi, lo lắng đầy đủ cho cha mẹ về vật chất lẫn tinh thần, là đã gieo giống tốt vào ruộng phước.
Người giàu lòng nhân ái hay giúp đỡ, cung cấp cơm áo, gạo tiền, thuốc men cho trẻ mồ côi, người bất hạnh, bệnh tật, khổ đau, là đã gieo giống tốt vào ruộng phước. Đối với những ruộng phước vừa nêu trên là một việc làm chánh đáng, đòi hỏi con người phải có ý thức cao mới có thể gánh vác trọng trách này.
Chúng ta muốn mai sau được an lạc, hạnh phúc, thì ngay bây giờ phải biết gieo trồng phước đức bằng sự bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia. Chẳng hạn, ta muốn sau này được làm người tài, thì ngay bây giờ mình phải học cho giỏi, về sau mới có cơ hội ra giúp dân, giúp nước. Không có việc gì mà trước không gieo nhân tốt, về sau lại muốn được quả lành, điều này không thể có được.
Ta hãy thường xuyên quán sát nguyên lý duyên khởi và áp dụng đạo lý ấy trong mọi hoàn cảnh của sự sống, nhờ vậy từng bước chuyển hóa các thói quen xấu để nâng cao sự thấy biết của mình không còn lầm lẫn.
Khi ta có cái nhìn chân chính như vậy rồi, thì mình không bị thành trì cố chấp của phong tục, tập quán, dục vọng thấp hèn, làm mê mờ lý trí. Ngược lại với chánh kiến là tà kiến, tức là sự hiểu biết và nhận thức sai lầm, không phù hợp với thực tế, không tin nhân quả, chấp có thượng đế ban phước giáng họa, chấp có linh hồn bất tử không thay đổi, chấp mọi sự vật đều ngẫu nhiên, khi không, chấp thân này sau khi chết mất hẳn. Ai chấp vào những thứ trên đều bác bỏ lý nhân quả nghiệp báo.
Cố chấp thành kiến cho mọi thứ đều cố định, do đấng tối cao sắp đặt, tin mù quáng không có sự trải nghiệm của bản thân, phản khoa học và trái với chân lý nhân duyên quả, gọi là tà kiến, tức sự thấy lệch lạc, sai lầm.
Chánh kiến là một con đường dẫn đến tự do hoàn toàn, hạnh phúc và bình an nhờ sự hoàn thiện về đạo đức, tâm linh, qua sự tỉnh thức bên trong của mỗi người.
Chánh kiến là một lối sống mà người đang học Phật nên thực hành và phát triển mỗi ngày, bằng sự cố gắng từ bỏ những sai lầm, để gặt hái những lợi ích cho sự thành công trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống.
Thế giới muôn loài vật đều thành-trụ-hoại-không, con người đều sinh-già-bệnh-chết, và hằng chuyển biến, thay đổi theo thời gian. Người có cái thấy chân chính thì không bị các phong tục, tín ngưỡng, tập quán, mê tín, có tính cách làm tổn hại người vật chi phối và lôi cuốn.
Nói tóm lại, chánh kiến là hiểu biết chân chính nhờ có quán chiếu tu tập, nên thấy biết đúng như thật. Sống ở đời, ai cũng cần có sự hiểu biết và nhận thức sáng suốt để phân biệt chánh tà. Nhờ có chánh kiến, ta có thể hiểu từ con người cho đến muôn loài vật đều theo nguyên lý duyên khởi, vô thường và vô ngã.
v CHÁNH TƯ DUY
Chánh tư duy là chi thứ hai trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là suy nghĩ, nghiệm xét, suy tư, bằng sự ý thức của mình. Chánh tư duy là sự suy nghĩ hợp lý. Suy nghĩ hợp lý có nghĩa là, tất cả mọi hiện tượng sự vật như thế nào thì chúng ta suy nghĩ như thế ấy, tức là suy nghĩ của mình và thực tế cuộc sống phù hợp nhau.
Chánh tư duy là suy nghĩ chân chính, đúng với lẽ phải, do có nghiệm xét, có nghĩa là suy tư phù hợp với nguyên lý duyên khởi, vô thường, vô ngã, như việc mình muốn có một cái nhìn chính xác về tình trạng xã hội hiện giờ đang tiến bộ hay bị tha hóa về mặt đạo đức tâm linh.
Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chính. Muốn vậy ta phải xem xét, soi rọi, quán chiếu, chiêm nghiệm, không trái với sự thật mà vẫn phù hợp chân lý và đem áp dụng vào trong đời sống hằng ngày có lợi ích thiết thực cho mình và người khác. Chúng ta thường suy tư, quán chiếu tại sao con người phải chịu nhiều phiền muộn, đau khổ, bất hạnh trong đời, nguyên nhân vì sao?
Nhờ thường xuyên suy nghiệm như vậy, ta biết do chấp ngã là ta, là của ta, nên muốn chiếm hữu và tham-sân-si từ đó phát sinh, làm cho người khác phiền muộn, khổ đau. Nhờ có chánh tư duy, ta mới sáng suốt, biết phân biệt những điều hay lẽ phải trong cuộc đời.
Tâm linh là lĩnh vực tiềm ẩn bên trong mọi người rất khó diễn đạt, nhưng lại là vấn đề vô cùng quan trọng. Mọi hành động của con người, mọi phát minh hay cống hiến của nhân loại, đều xuất phát từ biết cách tư duy, nghiền ngẫm, nghiệm xét lâu dài của tâm trí.
Tôn giả Ca Chiên Diên là bậc luận nghị đệ nhất, một trong mười vị đệ tử xuất cách của Phật. Lần đầu tiên, Ngài đến xin Phật được xuất gia tu hành.
Phật hỏi, “nhà ngươi do nguyên nhân gì mà muốn xuất gia?”
Ông trả lời, “vì thấy đức Thế Tôn có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, nên con muốn bắt chước tu theo”.
“Ông nói như vậy, nếu sau này thân Như Lai già yếu, bệnh hoạn, chắc ông sẽ không còn phát tâm nữa”.
Nghe nói vậy, ông đớ lưỡi, đành thất tha, thất thểu quay trở về nhà, trong lòng buồn vô hạn.
Nuôi ý chí xuất gia, lần thứ hai ông đến. Phật lại hỏi như lần trước, ông nói, “con lần này tôn trọng và kính cẩn lời dạy vàng ngọc bằng pháp âm vi diệu không thể nghĩ bàn của Phật”.
“Nếu sau này Như Lai không còn giảng dạy nữa thì ngươi sẽ mất hết tín tâm mà bỏ cuộc” .
Lần thứ ba, ông đã chuẩn bị đầy đủ nghĩa lý cần thiết cho người xuất gia và tin chắc rằng lần này sẽ được. Phật hỏi tiếp, ông trả lời, “do con kính phục chư Tăng tu hành nghiêm túc và dám xả bỏ hết mọi lạc thú trên đời”.
“Như vậy, sau này có chúng Tăng nào bê bối, chễnh mãng trong việc tu hành, ông sẽ thoái Bồ Đề tâm hay sao?”
Ba lần mong muốn được xuất gia đều không được toại nguyện, nhưng ông không thất chí, nản lòng, vẫn giữ chí xuất trần thượng sĩ để chờ cơ hội khác, xin Phật được xuất gia và tu học theo các bậc hiền Thánh.
Sau cùng, ông đến bạch Phật, “từ lâu nay, con đã được nghe lời dạy của Như Lai Thế Tôn, con đã suy nghĩ, xem xét, quán chiếu, chiêm nghiệm nghĩa lý một cách thấu đáo, tường tận, rõ ràng. Sau đó, con đem áp dụng cho bản thân và cảm nhận được an lạc, hạnh phúc, do biết buông xả tâm chấp trước dính mắc vào cái ta và của ta. Nay con đã thấy biết như thế, nên con muốn xuất gia để hành trì rốt ráo đến giác ngộ, giải thoát hoàn toàn, nhằm hoàn thiện bản thân và giúp đỡ, sẻ chia cùng với tất cả mọi người”.
Qua câu nói này, Phật vui vẻ chấp nhận và chỉ dạy pháp tu rốt ráo, nhờ vậy Tôn giả đã chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát.
Lời tác bạch chân thành của Tôn giả Ca Chiên Diên đúng như sự mong mỏi của đức Phật, ai muốn thành tựu đạo quả thì phải bắt đầu từ văn-tư-tu.
Mới đầu, ta nghe lời Phật dạy, có nghĩa là nghiên cứu, học hỏi cho tường tận, sau đó suy nghĩ, quán chiếu, tìm tòi nghĩa lý, rồi đem ứng dụng vào thực tế cuộc sống, chuyển mê thành ngộ, chuyển xấu thành tốt, cuối cùng thể nhập chân lý, giác ngộ, giải thoát.
Người tu theo phương pháp chánh tư duy thường biết xét nét lại từ ý nghĩ, lời nói và hành động, để làm sao không xảy ra lầm lỗi. Ta phải biết xét nét từng ý nghĩ xấu ác có hại cho người. Nhờ quán chiếu, chiêm nghiệm, ta biết được nguyên nhân phiền muộn, khổ đau là do ngu si, chấp trước mê muội, để vươn lên vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Muốn vậy, ta phải thường xuyên nghiệm xét nguyên lý duyên khởi của các pháp mà tìm ra nguyên nhân sâu xa của nó, nhờ quán chiếu soi rọi, ta mới có thể đạt tới cái nhìn chính xác mọi vật đều không cố định.
Cho nên, ta suy nghĩ đúng, suy tư tốt, để nói lời chân thật và an ủi, sẻ chia, giúp đỡ mọi người bằng trái tim yêu thương và hiểu biết. Nếu ta chỉ tùy theo thói quen, phong tục, tập quán, thành kiến khi xưa thì vô tình mình sẽ không thấy được đúng vấn đề chính xác.
Do đó, vì không có chánh tư duy đúng đắn, nên ta nói và làm không phù hợp với chân lý, mình sẽ không đạt tới được chánh kiến thấy đúng như thật.
Khi chúng ta biết suy tư về thực tại nhiệm mầu của cuộc sống một cách hợp lý, thì nó giúp ta biết cách giải quyết sáng suốt bất cứ mọi vấn đề gì. Nhờ vậy, mình làm việc gì cũng được lợi ích thiết thực, không mang lại khổ đau cho người khác, và còn đem đến an vui, hạnh phúc cho tất cả chúng sinh.
Suy nghĩ đúng đắn luôn có chánh kiến soi rọi, không thể mang lại phiền muộn, khổ đau cho ai, đó là mối quan hệ nhân quả về mặt tâm lý. Nếu trong hiện tại, ta có phiền não gì là do ta không biết chánh tư duy, nay mình đã có suy nghĩ đúng đắn rồi, thì những phiền não, khổ đau từ đây về sau sẽ không còn bám vào gốc rễ chánh kiến của mình được nữa.
Như vậy, nếu như giáo lý Bát Chánh Đạo được xem như là một quá trình nhận thức với thế giới bên ngoài, thì chánh tri kiến được xem như cơ quan đầu não trọng yếu của người tu, làm cơ sở dẫn dắt cho tư duy chân chính, và phát xuất ra lời nói chân chính, hay giúp đỡ, an ủi người, cho đến chi cuối cùng là chánh định.
Chánh tư duy có trách nhiệm gạn lọc, chuyển giao, bằng cách suy nghĩ đúng đắn cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế, làm cho lời nói, hay hành động được lợi ích mình- người với tấm lòng vô ngã, vị tha.
Nói tóm lại, tư duy chân chính là những nếp suy nghĩ đúng đắn, vượt khỏi sự ràng buộc của tham lam, ích kỷ, hẹp hòi, oán giận, thù hằn, ngu si, mê muội, không tồn tại trong ta. Khi ta có tư duy chân chính, việc làm của mình sẽ được thăng tiến tốt đẹp, đem lại lợi ích cho mình và người khác.
Trong Phật giáo có nhiều phương pháp tu hành, nói gọn lại còn hai thứ là Thiền Chỉ và Thiền Quán. Hai phương pháp này làm nhân cho nhau để dẫn đến kết quả viên mãn.
Thiền Chỉ là mỗi hành giả phải chú tâm vào một chỗ, ròng rặc, tinh cần, chuyên nhất như niệm Phật, Bồ Tát, quán sổ tức, quán hơi thở. Nhờ chuyên nhất vào một chỗ nên ta phát sinh định lực, tuy được định nhưng chưa có trí tuệ thấy biết đúng mọi hiện tượng, sự vật, do đó ta phải chuyển qua Thiền Quán để xem xét, soi sáng, chiêm nghiệm từ thân mình cho đến mọi hiện tượng, sự vật.
Thiền Quán đồng nghĩa với chánh tư duy, như ta quán thấy thân này do đất-nước- gió-lửa hợp thành, bản chất của nó không thật có, nên phải sinh-già-bệnh-chết. Vạn sự, vạn vật cũng không có gì cố định, nó hằng biến chuyển, thay đổi theo thời gian; chính vì vậy thế giới này luôn thành-trụ-hoại-không.
Ta quán biết rõ ràng từng sự vật duyên khởi, vô thường, vô ngã, vì không có thực thể cố định, nên ta luôn đóng góp, sẻ chia vì tình người trong cuộc sống mà không chấp trước, bám víu vào những thứ được mất, hơn thua, nên hư, thành bại.
Ta muốn sống được an lạc, hạnh phúc thì hãy nên thường xuyên chiêm nghiệm, quán sát từ thân mình cho đến muôn loài vật, để thấu rõ bản chất thật của chúng, nhằm làm lợi lạc cho mình và người khác. Ai cũng mong muốn mình được hạnh phúc, có tiền tài, danh vọng, vợ đẹp, con ngoan, và mọi nhu cầu tiện nghi vật chất, nhưng ta lại không tin sâu nhân quả, không tin tưởng chính mình mà cố gắng gieo trồng phước đức như bố thí, cúng dường, giúp đỡ, sẻ chia.
Ta không muốn gieo nhân tốt mà muốn được gặt quả tốt là điều không thể có. Tu mà không tư duy, quán chiếu thì làm sao phát sinh được trí tuệ, có trí tuệ ta mới soi sáng được mọi sự vật, nhờ vậy biết cách buông xả tham lam, sân giận, si mê mà chuyển hóa chúng thành vô lượng trí huệ từ bi rộng lớn. Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư tưởng đúng với lẽ phải để mang lợi ích thiết thực vào đời sống xã hội.
Những thói quen xấu và các tư tưởng thấp hèn là những phẩm chất luôn luôn ngầm chứa bên trong con người chúng ta. Ngày nào ta còn tham-sân-si thì ngày đó, những chất độc này còn có thể trổi dậy, làm mất đi nhân cách đạo đức của mình.
Do đó, sự từ bỏ cũng là một trong những phương cách giải độc cho lòng tham và triệu chứng thèm muốn của nó.
Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh ở chỗ loại trừ dứt khoát, chứ không đè nén những trạng thái tâm bất thiện và thay thế bằng những trạng thái tâm thiện.
Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh ở chỗ mở lòng nhân ái và từ bi, để có thể đạt được một hạnh phúc vô điều kiện trong sự từ bỏ.
Chánh tư duy cùng với chánh kiến giúp người học Phật thường xét nghĩ đạo lý, suy tìm thể tánh nhiệm mầu của từ, bi, hỷ, xả, biết xét nét những hành vi lầm lỗi để sám hối chừa bỏ. Biết nhìn thấu vô minh là nguyên nhân gây ra đau khổ, là nguồn gốc của tội ác, và cố gắng tìm phương pháp đúng đắn để tu hành, hầu giải thoát cho mình và những người chung quanh.
Tóm lại, chánh tư duy và chánh kiến là hai yếu tố quan trọng trong phần tu trí huệ của Bát Chánh Đạo, vì chúng có thể đặt thẳng đứng lên những gì đã bị đảo ngược và để lộ những gì đang bị ẩn khuất trong bóng tối.
Tôn giả Ca Chiên Diên nhờ sự chỉ dạy tường tận của đức Phật mà sau này trở thành bậc luận nghị nổi tiếng, bằng cách thức lý luận sắc bén nhờ biết tư duy, chiêm nghiệm, quan sát rõ ràng mọi hiện tượng, sự vật, và biết quay lại chính mình, sống với Phật tính sáng suốt.
v CHÁNH NGỮ
Đây là chi thứ 3 trong giáo lý Bát Chánh Đạo, được gọi là chánh ngữ, hay lời nói chân chính, đúng đắn. Lời nói chân chính bao gồm nhiều khía cạnh như nói lời thành thật, không nói lời giả dối nhằm mục đích để lường gạt mọi người; không nói lời nặng nề, thô lỗ, chát chúa, móc méo, mắng chửi làm người oán giận, thù hằn, mà sinh ra phiền muộn, khổ đau; không nói lời gây chia rẽ làm hai bên hiểu lầm nhau mà ganh ghét, tạo ra oan gia trái chủ, chống đối lẫn nhau; không nói lời mê hoặc để dụ dỗ người khác, không nói tán dóc đầu trên xóm dưới, và những điều không có lợi cho cộng đồng xã hội.
Nếu như chánh tư duy có tránh nhiệm gạn lọc những gì đã được thu thập từ mắt-tai-mũi-lưỡi-thân cho hợp lý, thì lời nói chân chính sẽ giúp con người biết cách phát ngôn và làm đúng với những gì mình đã nói trong thực tế.
Tuy nhiên, cuộc sống của chúng ta cùng sự diễn biến của xã hội con người rất phức tạp và nhiều mâu thuẫn, nên mình cần phải ăn nói thận trọng, nên nói và làm tương ưng với mục đích mình đang đeo đuổi.
Cho nên, dân gian có câu “Học nói ba năm, nhưng thực hành cả đời chưa chắc đã xong”. Ai hoàn thiện được lời nói chân chính, Phật giáo gọi là chánh ngữ. Lời nói chân chính bao hàm nhiều khía cạnh; khi chúng ta muốn phát biểu một vấn đề gì, ta cần phải cân nhắc vào vấn đề cần nói, coi lúc này đã hợp thời chưa. Khi nói, ta cần phải xem xét lại vấn đề mình muốn nói đó có đúng với sự thật hay không, nếu chưa biết chính xác thì không nên nói. Có hai cách thể hiện lời nói của mình là, chúng ta nên dùng cách nào cho phù hợp, nên cứng rắn, mạnh mẽ, hay khéo léo, uyển chuyển, nhẹ nhàng.
Trước khi muốn phát biểu lời nói nào, ta cần phải cân nhắc xem lời nói ấy có lợi ích, hay ảnh hưởng không tốt trong hiện tại và mai sau hay không. Có hai cách thể hiện lòng mình qua lời nói, ta nói với lòng từ bi, thương xót, hay vì lòng ganh ghét, oán giận, thù hằn.
Nói lời thành thật là người sống có nhân cách đạo đức, là chất liệu của sự yêu thương chân thành, thuốc đắng dã tật, lời thật mất lòng, nhưng giúp ta có cơ hội sửa sai và chuyển hóa được lỗi lầm. Ngược lại, lời nói êm tai, ru ngủ rất được lòng người, nhưng đó là lời giả dối, nịnh bợ, ta gọi đó là ngọt mật chết ruồi, dễ làm hại người.
Để đạt được những tình cảm qua lời ăn tiếng nói, thể hiện sự thành thật, chân tình, ta cần phải kiềm chế các cảm xúc tiêu cực như nóng nảy, giận dữ, để được sống vui vẻ, hài hòa với người thân yêu.
Ta không nên nói lời giả dối để lường gạt hoặc hại người, mà cần nói lời thành thật với nhau bằng trái tim yêu thương, hiểu biết. Để cuộc sống ngày càng thăng hoa tâm linh, ta cần phải biết chọn lời hay ý đẹp mà nói, nói lẽ phải, tôn trọng sự thật. Sống trung thực giúp ta nâng cao phẩm chất đạo đức, làm lành mạnh các mối quan hệ gia đình, nên xã hội được tốt đẹp.
Có những lời nói thốt ra làm cho tan nhà nát cửa, mất nước, hại dân, nhưng cũng có những lời nói làm chúng ta biết sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết. Chính vì vậy, ta cần phải có chánh kiến, và biết tư duy để soi xét mọi sự vật để thấy đúng như thật.
Cho nên, ta chuyện không nói không, chuyện có nói có, không nói dốc láo, nói lời bịa đặt, nói lời móc họng, nói lời hằn học, mắng chửi, không nói lời dụ dỗ, nói xấu sau lưng, làm cho mọi người nghi kỵ, thù địch nhau.
Do đó, cây ngay không sợ chết đứng, người thật không sợ mích lòng. Nói lời thành thật là một đức tính cao quý, là nhu cầu cần thiết để giúp cho con người không dối trá, lường gạt nhau.
Có một chú bé nọ, nhờ nói lời thành thật mà sau này được làm hoàng tử. Đức Phật dạy rằng: “Chính chúng ta là người làm chủ lời nói, khi nói ra sẽ có kết quả là làm cho người khổ đau hay hạnh phúc, điều đó tùy thuộc vào sự suy nghĩ, nói năng của mình. Theo nhà Phật, thông thường lời nói hợp thời, chân thật, mềm dẻo, với tâm từ bi rộng lớn, thường mang lại cho ta sự an lạc, hạnh phúc, ngược lại là bất hạnh và khổ đau. Đây chính là lý do đức Phật khuyên chúng ta nên nói lời chân thật, ái ngữ, với lòng thương xót, không phải lời nói gây thêm ân oán, hận thù.
Nói dối tức là nói dốc láo để lường gạt, hại người, bịa đặt ra, nói sai sự thật, hoặc khi hứa hẹn với người khác rồi nuốt lời. Lời nói dối có nhiều cách, do ganh ghét, tật đố mà nói dối hại người. Người nói dối thường gây ra nhiều tội lỗi bằng nhiều hình thức, cũng chỉ vì lòng tham riêng cho mình.
Nói lời chân chính, đúng đắn, nghĩa là ta phát biểu sự thật, căn cứ trên nguyên lý duyên khởi, vô thường, vô ngã. Bất cứ một phát biểu nào của ta mà không phù hợp với nguyên lý duyên sinh đều không phải là lời nói chân chính.
Các bậc hiền Thánh đi trước, nhờ biết chiêm nghiệm lời dạy của cổ nhân, do đó áp dụng vào trong tu tập, đã thấu rõ được kiếp nhân sinh, nên nói năng hài hòa, thu hút người nghe, biết quý trọng và tôn kính. Một lời nói tốt có thể giúp mọi người sống an vui, hạnh phúc, ngược lại gây ra chia rẽ, hận thù, tạo nỗi khổ, niềm đau cho nhau.
Chánh ngữ là lời nói hợp với chánh pháp, có lợi ích, đem lại an vui, hạnh phúc, bình yên cho nhiều người. Ta phải cẩn thận giữ gìn lời nói, nói lời chân thật, không nên nói lời vô nghĩa. Trong kinh Phật dạy “Nói một lời đúng chánh pháp giúp cho người nghe cảm thấy an ổn, nhẹ nhàng, hơn là nói tràng giang đại hải mà không có lợi ích gì cho ai”.
Người biết nói lời chân chính luôn luôn thận trọng, dè dặt khẩu nghiệp, không bao giờ nói sai sự thật, không xuyên tạc, không thiên vị, không nói lời dụ dỗ, không nói lời hằn học, mắng chửi, không nói lời vu oan giá họa.
Lời nói là phương tiện để diễn tả điều ta suy nghĩ, nếu mình thấy không đúng sự thật và nghĩ sai thì nói và làm cũng sai. Khi ta nói sai sẽ gây tác động xấu cho chính ta và cho người khác. Lời nói không những cần phải diễn tả sự thật, mà còn nhắm đến sự giúp đỡ, sẻ chia, nhằm an ủi, động viên gia đình, người thân khi gặp việc không được vừa lòng, như ý mà sinh ra bất hạnh, khổ đau.
Trong cuộc sống, chúng ta hay dùng lời nói để trao đổi thông tin, giao tiếp, diễn đạt ý tưởng, hoặc để biểu lộ tình cảm, tâm tư của mình. Nếu ta dùng lời nói đúng đắn, chân chính, thì con người có thể cảm thông và yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau nhiều hơn.
Người xưa chỉ dạy, “hãy uốn lưỡi bảy lần trước khi nói”, ai thường xuyên nghiệm xét lời trên thì khi nói sẽ không làm tổn hại cho ai. Chính vì thế, “lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Trong cuộc sống của chúng ta, ai cũng biết thực hành hai câu trên thì vợ chồng, con cái vui vẻ, hòa thuận với nhau, biết kính trên nhường dưới, gia đình hạnh phúc, xã hội được bình yên, nhờ vậy cuộc đời thêm vui tươi. Một lời nói ra làm cho mọi người vui vẻ, hạnh phúc, sống lạc quan, yêu đời, đó gọi là chánh ngữ, tức lời nói chân chính.
Khi ta đã thấu hiểu được lý duyên sinh qua đời sống hằng ngày, ta mới biết nói những lời lẽ chân thật, lợi ích, yêu thương, tạo nên hòa khí vui vẻ, làm tiêu tan không khí ganh tị, tật đố, ân oán, thù hận, và mọi sự lo lắng, sợ hãi trong phiền muộn, khổ đau.
Lời nói chân chính luôn giúp mọi người sống an vui, hạnh phúc, ngược lại là lời nói làm tan vỡ hạnh phúc gia đình người khác, đó là lời nói thêm bớt, thêm mắm thêm muối, thay trắng đổi đen, làm sự việc trở nên căng thẳng, làm mọi người hiểu lầm nhau mà gây ra oán giận, thù hằn.
v CHÁNH NGHIỆP
Chi thứ 4 trong bát chánh đạo là chánh nghiệp, hay còn gọi là nghề nghiệp chân chính. Trong đó, bao gồm các thứ như nghề nghiệp, sự nghiệp, gia nghiệp, chức nghiệp, thương nghiệp, nghiệp vụ. Nói một cách dễ hiểu là nghề nghiệp, hay phương cách làm ra tiền để nuôi sống bản thân và gia đình. Có khá nhiều cách để kiếm tiền sinh sống, nhưng ở đây, Phật giáo muốn đề cập đến những nghề nghiệp chính đáng, hợp pháp, không làm tổn hại cho người và vật, nghề đó được gọi là nghề nghiệp chân chính.
Hầu như những bản kinh thuộc về Phật giáo Nguyên thủy có nội dung đề cập đến nghề nghiệp là phương tiện làm việc để sinh sống, nhằm mục đích nuôi sống bản thân và gia đình của người cư sĩ tại gia.
Chánh nghiệp là nghề nghiệp và hành động chân chính. Nghề nghiệp chân chính sẽ đem lại lợi ích chính đáng cho mình và người.
“Này các thiện nam, tín nữ, có năm nghề buôn bán không nên làm. Thế nào là năm? Buôn bán đao kiếm hay súng ống, đạn dược, buôn bán người nô lệ hay phụ nữ và trẻ em, buôn bán thịt cá, buôn bán rượu, buôn bán thuốc độc.
Nghề thứ nhất trong 5 nghề đức Phật đề cập là, cấm người Phật tử không được buôn bán đao kiếm, nói cho đầy đủ là gồm cả súng đạn, những binh khí dùng trong chiến tranh để giết hại lẫn nhau.
Nghề thứ hai mà đức Phật cấm người Phật tử không được làm là buôn bán con người. Nghề này có lẽ ở xã hội phong kiến xa xưa, khi chưa có chính sách luật pháp bảo vệ nhân quyền, nên tình trạng buôn người phổ biến, nhất là phụ nữ và trẻ em. Ngày nay, tình trạng này vẫn còn, việc mua bán phụ nữ và trẻ em vẫn đang diễn ra hằng ngày, nhưng không công khai mà chỉ bằng nhiều hình thức dụ dỗ, lừa đảo, lợi dụng lòng tham của con người.
Nghề thứ ba đức Phật cấm là buôn bán rượu. Trong năm giới, nó không phải là giới chánh, vì nó là nhân làm cho con người say sưa, mê mờ, không có lý trí, nếu quá trớn sẽ dẫn đến nhiều vụ án dã man do rượu gây ra. Nó là cái nhân sinh ra các quả si mê, tâm thần ám độn, không sáng suốt, và có thể gây ra nhiều tội lỗi tày trời.
Chính sự tác hại của rượu quá lớn, nên Như Lai Thế Tôn khuyên người Phật tử không nên uống, và cũng không khuyến khích người khác uống, đó là lý do tại sao Ngài cấm không cho người Phật tử buôn bán rượu.
Nghề thứ tư mà đức Phật cấm là buôn bán các loài súc sinh, một là trực tiếp giết mổ, hai là xúi bảo người khác giết, ba là vui vẻ khi thấy người khác giết. Nhân giết hại dẫn đến quả báo ân oán, hận thù, giết hại lẫn nhau không có ngày thôi dứt. Người giết người, người giết vật, vật giết người, lớn hiếp nhỏ, mạnh hiếp yếu, nên thế giới chúng ta lúc nào cũng xảy ra chiến tranh, binh đao, tàn sát, giết hại theo quy luật nhân quả vay-trả.
Nghề thứ năm là nghề buôn bán các loại độc được, là những loại như là heroin, thuốc lắc, thuốc kích thích, xì ke, ma túy, nó là những loại thuốc làm cho con người mất lý trí, mất khả năng sống, dẫn đến con đường sa đọa, mê mờ, làm khổ gia đình, người thân, và làm ảnh hưởng xấu đến xã hội. Ngoài năm trường hợp trên, đức Phật vì lòng từ bi, thương xót chúng sinh, muốn chúng sinh được an vui, bình yên, hạnh phúc, nên khuyên ta nên tránh xa năm nghề đó. Xã hội ngày nay còn có nhiều ngành nghề khác không được lành mạnh, như phim ảnh đồi trụy, sách báo khiêu dâm, game bạo động. Người Phật tử chân chính cần phải tránh xa những nghề này.
Chánh nghiệp là việc làm chân chính, đúng đắn, phù hợp với lẽ phải, đúng với chân lý; ở đây cũng có nghĩa là việc làm phù hợp nguyên lý duyên sinh, nên lúc nào cũng được lợi ích cho mình và người. Ai biết thận trọng, giữ gìn mọi hành động thuận theo lý duyên sinh, chắc chắn sẽ đem lại kết quả tốt, không làm tổn hại đến quyền lợi, hạnh phúc của người khác.
Nghề nghiệp chân chính là những nghề nghiệp nuôi mạng sống con người như làm ruộng, trồng hoa màu, các loại cây ăn trái, làm ra thức uống tinh khiết, nghề giáo dục, bác sĩ, bác học, khoa học, tâm linh. Ngược lại, dối trá, lừa đảo bằng nhiều hình thức để mưu cầu lợi ích cá nhân, mặc kệ sự tác hại của nó về lâu, về dài, là những nghề nghiệp làm tổn hại cho nhân loạị.
Người nông dân biết canh tác theo tinh thần nhân quả là một người nông dân hiểu biết, thông minh, thấm nhuần lời Phật dạy, nên việc làm nhằm để phục vụ lợi ích cho gia đình và xã hội; nhờ vậy, kết quả gặt hái được nhiều hơn những người nông dân không hiểu lý duyên sinh.
Biết được hết mọi dữ kiện về hạt giống, phân bón, thời tiết, thị trường, người nông dân sẽ có nhiều cơ hội thành công. Trong gia đình và xã hội, biết hành động theo nguyên lý duyên sinh, người Phật tử tạo được hòa khí và thương yêu, xây dựng được đời sống an lạc của mình mà không phương hại sự hạnh phúc của kẻ khác.
Đức Phật vì lòng từ bi, thương xót tất cả chúng sinh, nên dạy ta tu tập để thoát khỏi cảnh khổ đau bằng việc làm chân chính trong nghề nghiệp; kế đến Ngài dạy ăn uống để nuôi thân bằng những thực phẩm không làm tổn hại, nên bố thí, giúp đỡ, sẻ chia cho mọi người, và cung kính cúng dường đến người tu hành chân chính.
Ta sống bằng nghề nghiệp chân chánh làm bằng sức lao động chân tay, hoặc bằng trí óc, để tạo ra những thực phẩm lương thiện nuôi mạng sống, trong đó không có sự gian ác và đau khổ. Một người hành nghề giết hại chúng sinh, làm đau khổ người khác, thì nghề nghiệp ấy đạo Phật gọi là tà nghiệp.
Tà nghiệp còn có nghĩa là ý nghĩ xấu ác, lời nói ác, và hành động giết hại chúng sinh, làm đau khổ cho người khác, hay mắng chửi người khác, nói xấu người khác, vu khống người khác. Cho nên, nhân quả không thể trốn tránh, dù có trốn lên trời hay chui xuống đất cũng không thoát khỏi được.
Tóm lại, là người Phật tử chân chính, ta không nên làm những nghề nghiệp có tính cách tổn hại người vật, mà hãy làm các nghề thiện ích như bác sĩ, dạy học, trồng trọt, kinh doanh, mua bán thức ăn, thức uống tinh khiết, nghề luật sư chuyên bảo vệ cho người bị hại, đem lại công bằng trong cuộc sống.
Nếu ta không có lương tâm đạo đức thì sẽ lợi dụng quyền hạn của mình mà hối lộ cả hai đầu, kẻ bị hại và lẫn cả người hại. Cho nên, Phật dạy, muốn làm người tốt trong hiện tại và mai sau, ta phải biết chọn lựa nghề nghiệp chân chính, trước tiên là để nuôi sống bản thân và gia đình, kế đến là phục vụ tốt cho xã hội.
v CHÁNH MẠNG
Chánh mạng là chi thứ 5 trong giáo lý Bát Chánh Đạo, hay còn gọi là cuộc sống chân chính. Nếu nói chánh nghiệp là việc làm không ảnh hưởng và tổn hại đến người, vật, nên nghề nghiệp chân chính và cuộc sống phải phù hợp với lý duyên sinh. Sự khác biệt trong hai chi này là giữa việc làm và cuộc sống, nhưng nó sẽ hỗ trợ cho nhau, tạo nên nghề nghiệp và cuộc sống chân chính.
Chánh mạng là nỗ lực chân chính, một nghề nghiệp lương thiện, đó là mạng sống chân chính. Nhưng thế nào là một nghề nghiệp được coi là lương thiện? Điều này cũng chỉ có thể trả lời bằng sự nhận xét về xã hội trên nguyên lý duyên sinh.
Những phương tiện sinh sống không gây tai họa, khổ đau cho kẻ khác trong hiện tại cũng như trong tương lai, những phương tiện sinh sống không lừa đảo, không gieo rắc lầm lạc, không bóc lột kẻ khác, không vi phạm quyền tự do và bình đẳng của kẻ khác, không phá hoại môi trường sinh hoạt của con người, đó là chánh mạng.
Chánh mạng là mạng sống chân chính, có nghĩa là con người sinh sống một cách chính đáng, có đời sống lương thiện, ngay thẳng, trong sạch, có tính đóng góp, phục vụ lợi ích cho tất cả mọi người.
Người biết giữ gìn chánh mạng là người biết sống một đời có ý nghĩa, không bao giờ biết làm tổn hại cho ai. Sống bằng sự lao động chân tay hoặc trí óc thánh thiện, biết tôn trọng lẽ phải, biết tôn trọng quyền bình đẳng của con người và luôn sống đóng góp, sẻ chia, giúp đỡ nhân loại bằng tình người trong cuộc sống.
Ngược lại với chánh mạng là tà mạng. Tà mạng là sinh sống không chính đáng, bất lương, hay trộm cướp, gian tham, lường gạt của người, ăn không ngồi rồi, lười biếng, giết hại một cách tàn nhẫn, dã man, để mưu cầu lợi ích cho riêng mình. Cúng sao, giải hạn, cầu thần, ếm quỷ, gian dối, hại người, làm đồ độc hại cho người ăn, khiến họ mang thân bệnh hoạn, chết chóc, đau thương. Ai làm ít mà muốn hưởng thụ nhiều, hoặc quan niệm “một đêm trộm cướp bằng ba năm làm”, hoặc người quyền cao chức trọng tham lạm của công, đều là tà mạng.
Tóm lại, người Phật tử chân chính hãy khôn ngoan sáng suốt, biết chọn lựa nghề nghiệp, không làm tổn hại đến muôn loài vật và sống bằng chánh mạng của mình.
v CHÁNH TINH TẤN
Chánh tinh tấn là chi thứ 6 trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là tinh tấn, nỗ lực, cố gắng đúng theo chánh pháp; hay nói cách khác là sự nỗ lực chân chánh, có ý nghĩa, lợi ích cho mình và người.
Thế nào là sự nỗ lực chân chánh? Mục đích giáo dục của đạo Phật là tìm kiếm sự an lạc, hạnh phúc, giác ngộ và giải thoát, nhờ ta siêng năng dứt trừ các điều ác từ trong ý nghĩ, hay làm việc thiện ích để giúp đỡ tha nhân.
Chánh tinh tấn là nỗ lực chân chính tức là sự cố gắng liên tục trên mọi lãnh vực làm việc và tu tập. Đây cũng là một phương pháp quan trọng liên kết trong Bát Chánh Đạo, nếu thiếu một chi nào thì cũng khó mà thành tựu đạo pháp. Nếu ta nỗ lực không theo nguyên lý duyên sinh thì không được gọi là chánh tinh tấn.
Những nỗ lực nào hướng đến tham lam ích kỷ, oán giận, thù hằn, hay si mê, dại dột, làm điều bất chính, thì không được gọi là chánh tinh tấn, bởi những kết quả của sự nỗ lực này có thể làm mọi người phiền muộn, khổ đau, và không dẫn đến mục đích chính đáng.
Tinh tấn nỗ lực là hành động kiên trì, củng cố vững chắc cho sự tu tập hằng ngày của chúng ta, nhằm mục đích ngăn ngừa, tránh xa những điều tội lỗi, lại còn hay tăng trưởng các việc làm lợi ích để mang lại sự an lạc, bình yên trong cuộc sống.
Tinh tấn mà không có trí tuệ thì không đạt được mục đích mong muốn. Tinh tấn có trí tuệ sẽ giúp ta lần hồi chuyển hóa phiền não tham-sân-si thành vô lượng an lạc, hạnh phúc và trí tuệ, từ bi.
Ai siêng năng tinh cần, nỗ lực không biết mệt mỏi trong việc tu tập, sẽ có được năng lực chuyển hóa để tự mình thoát khỏi những cám dỗ có tính cách làm tổn hại người, vật và giúp mình thoát khỏi xiềng xích ngục tù của tội lỗi.
Tinh tấn là nền tảng căn bản giúp ta biết cách từ bỏ sự nản chí, bất mãn, lười biếng, nhờ vậy các việc xấu, tội lỗi không có cơ hội phát triển. Tinh tấn là sự rèn luyện tâm linh cao thượng qua những việc làm chân chính, bởi vì đó là những hành động mang lại an vui, hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội.
Bất cứ làm việc gì, chúng ta cần phải có sự chú tâm và siêng năng tinh cần, thì mới có thể đưa đến sự thành công viên mãn. Thí dụ như ta có thói quen nóng giận, thường nói những lời hằn học, khó nghe, hay làm những hành động không tốt làm khổ người; vì ta không kiểm soát chặt chẽ được chính mình từ ý nghĩ, nên ta mới phát ra những lời lẽ khó nghe như vậy, làm cho gia đình, người thân buồn phiền.
Do đó, ta cần phải tập kiểm soát chính mình để tránh được những hậu quả không tốt đẹp, vì thiếu suy nghĩ trong phút chốc có thể đưa ta đến bờ vực thẳm. Người thuờng xuyên tinh tấn sẽ biến mảnh đất đang chất chứa đầy đau khổ trở thành lòng tha thứ, bao dung, biết chia sẻ và nâng đỡ tha nhân bằng tình người trong cuộc sống.
Người hay cầu nguyện cho tất cả mọi người được sớm mau giác ngộ giải thoát là chuyện tốt, nhưng chưa đủ, mà cần phải có sự đóng góp, dấn thân, an ủi, sẻ chia và nâng đỡ. Siêng năng tinh tấn là sự dấn thân liên tục để chuyển hóa phiền muộn, khổ đau thành vô lượng trí tuệ từ bi với tấm lòng vô ngã, vị tha.
Người nông dân khi gieo mạ trồng lúa, biết lựa chọn những hạt giống tốt, biết dùng những loại phân bón thích hợp, siêng năng nhổ cỏ, thì kết quả thu hoạch sẽ đem lại cho họ một niềm vui trọn vẹn, như ý.
Chánh tinh tấn là sự siêng năng tinh cần trong học hỏi, làm việc và tu sửa. Người sống đúng theo chánh tin tấn lúc nào cũng biết phản quan tự kỷ, quay lại chính mình, siêng năng chuyển hóa tâm xấu ác có tính cách làm tổn hại người, vật thành tâm hiền thiện, đạo đức.
Chánh tinh tấn là không làm các điều ác mà hay làm các việc thiện lành, tốt đẹp. Một ý nghĩ ác, một lời nói ác, một hành động ác, dù nhỏ nhặt đến đâu ta cũng quyết chí không làm, nếu đã lỡ làm thì tìm cách sám hối và dứt trừ. Ta không làm điều ác và hay làm các việc lành, hay giúp đỡ người khác để làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh.
Người siêng năng hành trì chánh tin tấn thì điều ác chưa sinh sẽ không để cho nó phát sinh, nếu đã lỡ phát sinh thì tìm cách ngăn dừng. Điều lành nếu chưa làm thì phải tìm cách làm, sao cho ta ý thức mà làm lành lánh dữ. Như khi đã làm thiện rồi thì ta phải tìm cách duy trì, để những việc làm có lợi ích cho người được tiếp tục mãi mãi, nhằm chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ, chớ chẳng tìm cầu đâu xa.
Người tu theo hạnh tinh tấn quyết tâm không sờn lòng nản chí, đeo đuổi con đường mình đang đi cho đến mục đích cuối cùng mới thôi. Quyết tâm làm thiện, giúp người cứu vật không biết mệt mỏi hay nhàm chán, dù có gặp chướng duyên, nghịch cảnh, ta cũng không lấy oán mà báo oán, chỉ lấy tình thương chuyển hóa hận thù bằng câu châm ngôn của Sư ông chúng tôi: “Trước mắt tôi không có kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi.”
Ngược lại với chánh tin tấn là bất chánh? Có nhiều người rất siêng năng làm việc nhưng lại là việc làm bất chánh như sát sinh, hại vật, gian tham, trộm cướp, lường gạt của người, đã siêng năng không đúng với chánh pháp mà lại hay còn xúi bảo người khác bắt chước làm theo mình, nên tội chồng thêm tội vì có thêm bạn đồng nghiệp xấu.
Tóm lại, người cư sĩ tại gia phải biết chọn lựa nghề nghiệp chân chính và siêng năng phát huy nghề nghiệp của mình bằng đôi bàn tay và khối óc, không làm tổn hại cho người và vật.
Người xuất gia phải kiên tâm, bền chí, cố gắng gạn lọc tâm tham lam, ích kỷ, nóng giận, si mê, hại người, hại vật, giữ tâm trong sáng, thanh tịnh để chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an vui, hạnh phúc.
v CHÁNH NIỆM
Chánh niệm là chi thứ 7 trong Bát Chánh Đạo, hay nói cho đầy đủ nghĩa lý hơn là cột tâm, hay chú tâm vào một đối tượng nào đó, được gọi là chánh niệm. Như niệm Phật, Bồ Tát, quán sổ tức, quán hơi thở.
Phật dạy, “này các Tỳ-kheo, thế nào là các công việc đáng phải làm hơn hết? Chúng ta phải biết chánh niệm tỉnh giác từng tâm niệm của mình, khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mặc y, ôm bình bát đi khất thực đều tỉnh giác; khi ăn uống đều tỉnh giác; khi đi đại tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi đứng, nằm, thức, ngủ, nói năng hay yên lặng đều tỉnh giác”.
Tu theo phương pháp chánh niệm tỉnh giác, ta nhận biết rõ ràng từ ý nghĩ, lời nói, hành động, như thế nào mình biết như thế ấy; ta tham ta biết ta tham, ta si ta biết ta si, không khởi tâm bám víu chạy theo, không khởi tâm buông xả, ta chỉ nhìn thấy và quán sát chúng tường tận như vậy.
Chúng ta phải thực tập chánh niệm trong đời sống hằng ngày, ta biết mình đang nghĩ gì, nói gì và làm gì? Ta cần phải biết cách làm chủ bản thân trong đời sống và không bị lôi kéo bởi những hoàn cảnh xấu dữ, làm ảnh hưởng đến sự tu tập chánh niệm tỉnh giác.
Đây là một phương pháp tu tâm siêu tột để dẫn đến viên mãn của đạo Phật. Phương pháp này không bắt đầu bằng sự phân biệt những ý niệm thiện ác mà bằng sự quán sát sự sống của bản thân mình. Có nhiều người tuy sống mà thật ra không sống, bởi họ không có ý thức về sự sống của mình như thế nào là tốt, là xấu.
Sống trong sự quên lãng, tự để mình bị kéo theo ngày tháng và hoàn cảnh mà không tự chủ được, không thấy được mình đang sống, không thấy được sự sống là mầu nhiệm, đó không phải là sống có ý thức, mà là trôi lăn trong dòng sinh tử, luân hồi. Khi đang ăn, ta biết mình đang ăn, khi đang ngồi, ta biết mình đang ngồi, và cứ như thế mọi việc đều như vậy.
Nói tóm lại, ta phải ý thức được mỗi giây phút trong đời sống mình. Ta phải biết làm thế nào để sống ngày hôm nay cho an lạc, hạnh phúc; ta đừng để cho những tên giặc tham lam, giận hờn, si mê, ganh ghét, tật đố và vội vàng, hối hả đến quấy phá, cướp mất đi 24 giờ quý báu của ta trong ngày.
Chánh niệm là sự nhớ nghĩ chân chính. Chúng ta đừng lầm hai chữ chánh niệm với chánh tư duy. Tư duy là sự suy tưởng, trong khi niệm là sự nhớ nghĩ, trái với sự quên lãng. Chánh niệm là một phương pháp tu luyện rất mầu nhiệm của đạo Phật.
Đó là ta biết ý thức sáng tỏ về sự sống của chính bản thân mình. Người Phật tử chân chính là người biết tập sống thường xuyên trong chánh niệm, nghĩa là mình sống có trách nhiệm, có ý thức, biết mình đang làm gì, nghĩ gì, nói gì, và do đó có thể soi sáng mọi tư tưởng, ngôn ngữ và hành động của mình bằng nguyên lý duyên sinh.
Chúng ta cần phải thực tập chánh niệm trong đời sống hằng ngày, ta biết mình đang nghĩ gì, nói gì và làm gì? Ta cần phải biết cách làm chủ bản thân trong đời sống và không để cho các hoàn cảnh xấu lôi kéo và chi phối. Trong Bát Chánh Đạo, chánh niệm tỉnh giác là một phương pháp tu tâm siêu tột, dành cho người đã nhận ra ông chủ của chính mình, để dẫn đến thành tựu đạo pháp viên mãn. Phương pháp này không dùng ý thức để phân biệt thiện ác, mà chỉ quán sát rõ ràng sự sống của bản thân mình, nó như thế nào thì chỉ nhìn rõ như thế nấy.
Có nhiều người tuy đang sống nhưng không có ý thức về sự sống của mình, thế nào là tốt, là xấu, là đúng, là sai. Họ ăn, ngủ, sinh hoạt, làm việc, vui chơi, giải trí như một chiếc xe bị người ta điều khiển. Đến khi gần chết, họ mới giật mình tỉnh giấc, không biết mình sẽ đi về đâu, nên họ hoang mang, đau khổ vô cùng, vì con đường phía trước đang mờ mịt, tối tăm.
Phương pháp chánh niệm dạy chúng ta phải ý thức rằng, khi đang ăn ta biết mình đang ăn, khi đang ngồi ta biết mình đang ngồi, khi đang đi ta biết mình đang đi, ta đang làm gì ta biết rõ ràng như thế đó. Nói tóm lại, chúng ta cần phải ý thức cao độ trong từng giây phút với sự quán sát rõ ràng từng tâm niệm và hành động của mình.
Ta hãy thắp lên ngọn đuốc của chánh niệm, thì ta sẽ biết mình đang làm gì, nghĩ gì và nói gì. Nhờ vậy, ta sẽ làm chủ chính mình, không để cho mọi hoàn cảnh lôi kéo, dẫn chúng ta vào chỗ tối tăm, si mê, lầm lạc.
Mỗi một ngày thức dậy, ta thấy cuộc đời mình thêm vui vẻ, lạc quan, ta đừng để cho những tham lam, sân giận, si mê, ganh ghét, tật đố, sai sử mình trong vội vã, hối hả, để làm mất thời gian quý báu của ta trong ngày. Sự khác nhau giữa người có tu và người không biết tu là ở chỗ, khi có quả xấu đến, người có tu thì giữ được tâm thanh tịnh, an lạc ngay trong thế giới dẫy đầy những điều không được hài lòng, như ý.
Ta hãy luôn thường xuyên quán sát những sự việc xảy ra trong con mắt duyên khởi, mình sẽ thấy cuộc đời là một dòng yêu thương vô tận, bởi ta có trái tim hiểu biết, hay bao dung và độ lượng, cảm thông và tha thứ, nên mọi phiền muộn, khổ đau sẽ tan hòa vào hư không.
Bồ Tát Quán Thế Âm là người biết nhìn người với những con mắt duyên khởi nhờ có từ bi và trí tuệ. Đó là vì Bồ Tát quán chiếu cuộc đời bằng sự lắng nghe nhờ tâm thanh tịnh, trong sáng của mình, nên lúc nào cũng đem tình thương yêu chân thật đến với tất cả mọi loài, với tinh thần chia vui, sớt khổ bình đẳng.
Ta phải thường xuyên nhìn lại chính mình, trong lúc ta đang nghĩ, nói, hay đang làm bất cứ một việc gì. Ta hãy biết quay lại chính mình, quán chiếu bản thân ta một cách rõ ràng, tường tận, để thấy mình đang nói điều đó là đúng hay là sai, có làm tổn hại cho ai hay không?
Ta chỉ làm một việc ấy thôi cũng đủ đưa mình về thực tại cuộc sống mầu nhiệm, để mình có thể bao bọc và chở che cho tất cả muôn loài. Ta nên biết rằng, ta thường xuyên quán chiếu, nghiệm xét lại chính mình, sẽ giúp ta cảm nhận bình an, hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ.
Mỗi ngày, chúng ta có thể dành được bao nhiêu giây đồng hồ để quay lại chính mình mà quán chiếu tự thân? Bậc giác ngộ và tất cả chư Phật là người thường xuyên quán chiếu tự tâm mình, nên các Ngài sống và làm việc, đóng góp, phục vụ nhân loại mà không bị phiền não, khổ đau chi phối.
Ta là những người quyết tâm tu học theo con đường giác ngộ, giải thoát, chẳng lẽ ta không để dành được vài phút giây trong việc tịnh hóa lại thân tâm của chính mình. Ta cần phải nên biết, mình chỉ cần sử dụng vài ba phút trong ngày cho việc nhìn lại tâm mình, là cũng đã góp phần cho cuộc đời thêm tươi sáng, rạng rỡ và có ý nghĩa nhiều hơn.
v CHÁNH ĐỊNH
Chánh định là chi cuối cùng của giáo lý Bát Chánh Đạo, là sự định tĩnh, tinh thần trong sáng, thanh tịnh. Như vậy, ý nghĩa của từ này là một loại định chân chánh, thấu rõ mọi hiện tượng, sự vật. Nếu như chi thứ 7 là chánh niệm, mang ý nghĩa cột tâm vào một đối tượng nào đó, thì chi thứ 8 là chánh định, chi này có trách nhiệm làm cho đối tượng càng được thông suốt rõ ràng hơn; từ chuyên môn gọi là Thiền Quán, có nghĩa là soi sáng mọi sự vật mà không bị sự ngăn ngại. Đó là sự khác biệt giữa chánh niệm và chánh định.
Chánh định nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì để thấy cho rõ ràng, nói cách khác là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình cho người.
Chánh định là phương pháp thiền định chân chính. Thiền định là sự tập trung ý thức cao độ để đạt tới chánh kiến tức là cái thấy chân chính. Định ở đây không có nghĩa là tư duy hay suy tưởng, mà là những phương pháp tập trung tâm ý và thiền quán, nhằm phát khởi trí tuệ thấy biết đúng như thật. Những phương pháp này không nhắm đến sự tu luyện thôi miên, pháp thuật và trường sinh, mà nhắm đến sự phát triển trí tuệ giác ngộ, giải thoát, nên gọi là chánh định.
Trong kinh Phật dạy: “Có mười loại ma làm não hại người tu Thiền không đạt được chánh định: Một là ma oan khiên nghiệp chướng, hai là ma bên ngoài, ba là ma phiền não, bốn là ma sở tri, năm là ma tà kiến, sáu là ma vọng tưởng, bảy là ma khẩu nghiệp, tám là ma bịnh khổ, chín là ma hôn trầm, mười là thiên ma. Mười loại ma chướng này hay làm nhiễu loạn người tu hành chơn chính. Người tu theo Phật nên thận trọng chỗ này kẻo lầm lẫn.
v ÁP DỤNG BÁT CHÁNH ĐẠO VÀO GIA ĐÌNH XÃ HỘI
Gia đình là nhân tố nền tảng quan trọng nhất để xây dựng đời sống hạnh phúc của con người, vậy mỗi cá nhân trong gia đình phải ý thức trách nhiệm và bổn phận, để xây dựng nên những con người bằng trái tim yêu thương và hiểu biết.
Có nhiều gia đình không ý thức được bổn phận và trách nhiệm về tình cảm của con người, nên sống với nhau như địa ngục trần gian. Ta phải biết thương yêu nhau bằng tấm lòng chân thành, biết cảm thông và tha thứ, giúp gia đình mình trở nên vui vẻ, ấm cúng hơn bằng sự sẻ chia và giúp đỡ.
Con người là loài chúng sinh cao cấp nhất trong các loài vì có học hỏi, biết suy nghĩ, xem xét, chiêm nghiệm mọi vấn đề, nếu ta sống không có tình cảm với nhau thì không phải là con người. Ta không biết yêu thương, hiếu thảo với cha mẹ mình, ta không biết vui vẻ, thuận thảo với anh chị em mình, thì ta sẽ khó mà yêu thương được những người khác.
Cho nên, người Phật tử phải biết vận dụng lời Phật dạy vào trong đời sống gia đình, để gia đình là một cộng đồng có yêu thương, hòa hợp, sống êm ấm và hạnh phúc. Giáo lý duyên khởi và con đường Bát Chánh Đạo sẽ giúp đời sống gia đình biết cách yêu thương bằng trái tim hiểu biết, kính trên nhường dưới và thuận thảo, vui vẻ với nhau.
Ta không nên nghĩ rằng, ta có quyền bắt mọi người phục tùng theo ý muốn và sở thích của mình. Giáo dục gia đình, học đường và xã hội như cái đỉnh ba chân không thể thiếu bất cứ chân nào, chúng luôn bổ túc và bồi đắp cho nhau bằng cách dạy dỗ con người sống có ý thức với sự hiểu biết chân chính.
Cha mẹ là nhà giáo dục đầu tiên giúp cho các em khôn lớn và trưởng thành. Một gia đình nếu không có nề nếp giáo dục đàng hoàng, cha mẹ chỉ biết lo kiếm tiền và sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu khi con cái cần đến mà không có sự quan tâm, chỉ dạy, nhắc nhở, thì những đứa con ấy không bao giờ thành công trên đường đời.
Giáo dục học đường cũng rất quan trọng, thiết yếu, nếu thầy cô giáo chỉ dạy học để kiếm tiền, thì sẽ không làm hiển lộ và phát triển tài năng của học trò. Bậc làm cha mẹ có ảnh hưởng lớn lao tới con cái, phải biết quan tâm, chăm sóc con cái bằng tình thương yêu chân thật, chứ không phải bằng uy quyền hay nuông chiều quá đáng.
Luân lý sống mỗi thời đại có sự khác nhau tùy theo quan niệm, và ảnh hưởng theo những thói quen huân tập của con người. Đạo Phật không phải là một mớ giáo điều chắc nịch mà là những nguyên tắc linh động, phù hợp với sự sống và sự sáng tạo, giúp chúng ta ý thức được sự sống là phải nương nhờ lẫn nhau mới bảo tồn mạng sống.
Nguyên tắc đầu tiên Phật dạy chúng ta là, phải có thái độ cởi mở, uyển chuyển, linh động, phá bỏ hết mọi thành trì cố chấp có tính cách làm tổn hại người và vật. Ta phải có lòng bao dung và tha thứ để biết cảm thông cho người khác, vì mình không có nghiệp đó nên mình không thể nào hiểu rõ hết hoàn cảnh của họ.
Bậc làm cha mẹ đừng nên quá cứng nhắc hoặc chiều chuộng thái quá con cái mà cần phải tự nhủ rằng, có lẽ sự hiểu biết của mình đã quá xưa cũ rồi, nên mình cần phải cởi mởi thêm để thích ứng với thời đại mới một chút.
Mục đích giáo dục của đạo Phật là giúp con người thương yêu và hiểu biết, cảm thông và tha thứ, bao dung và độ lượng, chớ không phải bắt buộc con người chịu đựng quá mức trong phiền muộn, khổ đau.
Nếu ta sống có nhân cách đạo đức mà chỉ gây nên sự căng thẳng, khổ đau cho nhau, thì đó không phải là đạo đức chân thật, mà là sự cố chấp quá đáng. Ta cũng đừng nên vì sự cố chấp đó mà làm tan vỡ hạnh phúc gia đình, người thân.
Để xây dựng đời sống gia đình, hai vợ chồng phải biết yêu thương, tôn trọng, kính mến lẫn nhau, nhờ vậy hạnh phúc lứa đôi càng được lâu dài, bền vững. Chồng không bắt vợ phải nghĩ và làm giống hệt mình như khuôn đúc; ta không nên quan niệm như ở thời xa xưa, theo kiểu chồng chúa vợ tôi, cho rằng vợ là vật sở hữu để phục vụ mọi nhu cầu cần thiết cho chồng.
Ba thế hệ cha mẹ, con cái, cháu chắt, sống chung dưới một mái nhà, cần phải tìm hiểu kỹ tâm lý hiểu biết, quan niệm, sở thích của nhau, để tạo nên nhịp cầu thông cảm mà biết yêu thương, hòa hợp nhau, cùng vun bồi hạnh phúc. Trong bối cảnh cuộc sống hiện nay, nhiều gia đình đã có một sự ngăn cách rõ rệt, bởi sự chấp trước của xưa và nay, do thiếu hiểu biết giữa hai thế hệ cha mẹ và con cái.
Hai thế hệ cha mẹ và con cái được sinh ra dưới nền giáo dục khác nhau, với những điều kiện kinh tế xã hội và văn hóa cổ xưa-hiện đại, thì cố nhiên sẽ có những tâm trạng, quan niệm và sở thích khác nhau. Bậc làm cha mẹ phải biết cảm thông cho thế hệ trẻ bây giờ, chúng không thể nào suy nghĩ và hành động như mình thời xưa, ta phải cố gắng vận dụng cho được, phải thích nghi bằng con đường Bát Chánh Đạo là hiểu thấu lý duyên sinh.
Tâm linh là lĩnh vực tiềm ẩn quan trọng nhất trong mọi người, chúng ta chỉ thể nhập bằng cách trực nhận, không qua suy nghĩ, rất khó diễn đạt. Mọi hoạt động của con người, từ việc phát minh tiện nghi vật chất để phục vụ và cống hiến cho nhân loại, đều xuất phát từ chánh tư duy nhờ biết nghiền ngẫm, nghiệm xét lâu dài của tâm trí.
Từ khi ta có tư duy chân chính, mình biết được lời nói chân chính cũng không kém phần quan trọng trong việc nói năng và giao tiếp, lĩnh vực này thuộc về tâm linh, Phật giáo lúc nào cũng đề cao, đặt nó vào vị trí quan trọng. Nếu ta không có tư duy chân chính, sẽ dễ làm tinh thần bị kích động bởi ganh ghét, tật đố, oán hận, thù hằn, gây ra chiến tranh tàn sát, giết hại lẫn nhau.
Con cái trong thời đại hiện nay cũng phải biết thương yêu, kính trọng cha mẹ, phải biết rằng các vị đã chịu nhiều cay đắng, khổ đau trong cuộc mưu sinh đầy gian nan, trắc trở, nên dễ cau có và nóng giận.
Bổn phận làm con, ta phải biết cư xử như thế nào để mình trở thành niềm yêu thương và sự tự hào của gia đình người thân. Trước hết, chúng ta cần phải hiểu rõ mọi sự khó khăn của cha mẹ, phải hiểu cặn kẽ những điều kiện và hoàn cảnh xã hội của cha mẹ, phải ráng làm cho cha mẹ hiểu hoàn cảnh và sở thích của mình một cách thấu đáo.
Ta đừng nên có thái độ giận dỗi, hờn mát và trách móc khi cha mẹ chưa hiểu mình. Ta phải trao đổi, trình bày cặn kẽ đủ mọi cách, để cha mẹ có thể biết được những tâm trạng lo lắng, buồn vui của mình, và cũng phải có cái nhìn của chánh kiến hơn để an ủi, sẻ chia với những lo lắng, buồn vui của cha mẹ.
Ở lĩnh vực giáo dục của gia đình, học đường hay trong xã hội, những bậc cha mẹ, thầy cô giáo, phải biết áp dụng giáo lý Bát Chánh Đạo để có được sự hiểu biết chân chánh, có được những suy nghĩ đúng đắn, có được những hành động lợi ích, một nghề nghiệp chân chính không làm tổn hại một ai, có được tâm hồn trong sáng để tạo nên một đời sống tốt đẹp cho chính mình, và đóng góp, phục vụ xã hội ngày càng sống có văn hóa, đạo đức hơn.
Làm được như vậy, chính ta là tấm gương tốt nhất cho hàng con cháu, học sinh noi theo. Nhờ mọi người biết thực tập con đường Bát Chánh Đạo mà họ biết tha thứ và cảm thông, biết quan tâm chia sẻ, biết chăm sóc con cái-học sinh nhiều hơn, đưa các em vào những nề nếp, những sinh hoạt văn hóa, xã hội lành mạnh.
Ai cũng cố gắng thực hiện con đường Bát Chánh Đạo thì vấn đề xuống cấp về đạo đức ở các em lứa tuổi vị thành niên nói riêng hay mọi người nói chung sẽ không còn là nỗi đáng quan tâm và lo ngại nữa, nhân loại đồng ý thức như vậy thì ta sẽ sống với một xã hội văn minh, tốt đẹp, lành mạnh, đạo đức hiện hữu khắp mọi nơi.
Dòng đời lúc nào cũng nghiệt ngã bởi lòng tham của con người, nên nó luôn mang theo những nỗi vui buồn, được mất, thịnh suy, nên hư, thành bại, trong cuộc đời vô thường biến đổi này. Từ lúc ta cất tiếng khóc chào đời, cho đến khi khôn lớn trưởng thành, rồi già-bệnh-chết, là cả một chuỗi dài thời gian vui ít, khổ nhiều.
Bản chất của cuộc đời là một dòng biến chuyển theo nguyên lý duyên khởi, nên khổ-không-vô ngã. Đức Phật ra đời nhằm mục đích để chỉ cách diệt khổ, để làm vơi bớt những nỗi khổ, niềm đau của mọi người.
Ngày xưa, có người cho rằng, tôn giáo là liều thuốc phiện tạo nên hiểu lầm cho nhân loại. Họ chỉ nhìn ở một chiều, do có một số người lợi dụng tôn giáo để tham vọng bành trướng.
Họ không hiểu rằng, từ khi đạo Phật có mặt trong cuộc đời, không bao giờ có chiến tranh đổ máu và hận thù, đạo Phật chỉ đem lại tình thương yêu chân thành cho nhân loại bằng trí tuệ và từ bi, bằng sự chia vui, sớt khổ với tấm lòng vô ngã, vị tha. Cũng đã qua rồi một thời, thế gian cho đạo Phật là bi quan, yếm thế, chán chường, hủy diệt sự sống của nhân loại. Những gì Phật giáo đã thể hiện, đã cống hiến cho nhân loại trong gần 3000 năm qua, đủ thấy rằng Phật giáo là một tôn giáo vô cùng lạc quan và thực tế, chỉ có đóng góp, phục vụ, sẻ chia và nâng đỡ tất cả mọi người.
Con đường Bát Chánh Đạo là một pháp môn căn bản và hữu hiệu nhất cho mọi người để tu tập, hướng về an lạc, hạnh phúc, nó giúp chúng ta có thêm một nhận thức sáng suốt nhờ biết tư duy, nghiền ngẫm, nên tránh xa các điều tội lỗi, hay làm các việc thiện lành, tốt đẹp.
Thế giới ngày nay, nhân loại đang từng bước hoàn thiện đời sống con người và xã hội bằng sự nâng cao các tiện nghi vật chất. Chủ nghĩa tiêu thụ vật chất quá lừng lẫy khiến con người không có thời gian quay lại chính mình mà sống với tâm thanh tịnh, sáng suốt; đã đến lúc, mọi người trên thế giới cần phải quay về với Phật giáo để tìm lại sự an lạc đích thực của tâm hồn mà làm giàu đẹp thế giới. Các nhà lãnh đạo quốc gia trên thế giới phải biết nhìn lại vấn đề thực trạng của xã hội, để đủ can đảm đem phương pháp Bát Chánh Đạo nhiệm mầu này mà dựng xây cuộc sống, đưa Bát Chánh Đạo vào chương trình giáo dục xã hội, giáo dục học đường, giáo dục gia đình và giáo dục cho từng cá nhân.
Được như thế, con người sẽ dần hồi giảm bớt tham lam, ích kỷ, sân giận, gây ra ân oán, hận thù, bởi si mê, chấp ngã và muốn chiếm hữu. Xã hội sẽ bớt lo lắng, sợ hãi về những khủng hoảng về vật chất, tinh thần. Nhân loại sẽ sống trong một thế giới không có chiến tranh, bạo động, thù hằn, mà lúc nào cũng được bình yên, hạnh phúc và giàu đẹp.
Trong cuộc sống, con người do chấp ngã là ta, là của ta, nên muốn chiếm hữu mà tạo ra nỗi khổ, niềm đau cho nhau. Chánh tư duy được xem như một năng lượng quan trọng bậc nhất, có sức mạnh tổng hợp mang tính sáng tạo, để giúp con người làm chủ bản thân mà biết cách vượt qua cạm bẫy cuộc đời.
Đó là phẩm chất cao quý do có sự nghiền ngẫm, nghiệm xét, đồng thời cũng là năng lực cần phát huy để xây dựng ý nghĩa cuộc sống của riêng mình theo cách suy nghĩ chân chính của chính mình.
Nhưng trong cuộc sống, ta có quá nhiều lo lắng và sợ hãi nên làm mình phiền muộn, khổ đau bởi những thứ được mất, hơn thua. Như vậy, ta phải sống như thế nào mới có được bình an, hạnh phúc trong cuộc đời này?
Trong thực tế, đời sống của con người là sự vay mượn liên tục, nương nhờ vào nhau theo nguyên lý duyên sinh mà bảo tồn mạng sống. Cho nên, cuộc sống chúng ta không ai giống ai, mỗi người, mỗi ý, mọi suy nghĩ, việc làm, sở thích, đều khác nhau.
Đây cũng chính là những yếu tố cơ bản để con người phát triển và tự quyết định con đường vào đời của mình bằng nhiều hướng đi; và đôi lúc, ta cần phải đối đầu với những khó khăn, thử thách, mà vượt qua, vươn lên làm đẹp cuộc đời. Biết cách làm chủ bản thân là một trong những tiêu chí quan trọng, giúp ta sáng suốt định hướng cuộc đời bằng con đường Bát Chánh Đạo.
Chính vì lòng từ bi vô lượng đối với tất cả chúng sinh, nên đức Phật không dấu diếm điều gì trong việc chia sẻ kinh nghiệm tu tập của mình để đạt được sự hoàn toàn giác ngộ, giải thoát. Đức Phật luôn khuyên nhủ chúng ta biết tranh thủ, tận dụng thời gian để tập trung vào việc tu học bằng con đường Bát Chánh Đạo.
Một con đường ngắn nhất đưa con người trở về với thực tại hiện tiền bằng cách xa lìa hai cực đoan, hưởng thụ và hành hạ xác thân, mà trở về trung đạo.
Bát Chánh Đạo là con đường đưa tất cả chúng ta đến giác ngộ, giải thoát hoàn toàn. Tám phương pháp ấy có liên hệ nhân quả rất mật thiết với nhau, để hỗ tương cho nhau mà thành tựu đạo pháp. Từ chánh kiến là hiểu biết đúng đắn, chân chính, cho đến chánh định là một quá trình liên kết có nghệ thuật bằng sự thẩm thấu của trí tuệ.
Cho nên, chánh kiến, chánh tư duy thuộc về trí tuệ hai chi này liên kết, hỗ trợ chặt chẽ cho nhau. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về lời nói, việc làm và sự sống chân chính, nên thuộc về giới luật. Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về định lực, do sự quán chiếu tinh cần trong tu tập, biết cách buông xả mọi chấp mắc, tham muốn ràng buộc trong đời.
Trong đạo Phật có nhiều pháp môn, tức tùy bệnh cho thuốc, nhưng con đường Bát Chánh Đạo chính là nền tảng, là tinh hoa của toàn bộ hệ thống Tam tạng kinh điển của Phật giáo, là sự kết tinh, tóm thâu của tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, cũng chính là phương pháp tốt nhất để diệt trừ khổ đau tận gốc.
Chính vì thế, Bát Chánh Đạo có một vị trí vô cùng quan trọng, lại là con đường chân chính tốt nhất của mọi tôn phái trong đạo Phật, là pháp môn quan trọng nhất cho mọi người tu tập để chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành ngộ.
Giáo lý của đức Phật đã giảng dạy cách đây đã gần ba ngàn năm, trải qua biết bao sự thăng trầm, biến thiên, thay đổi của nhiều thời đại; thế nhưng, con đường Bát Chánh Đạo vẫn là chân lý sáng ngời, mang tính cách khế lý, khế thời, và vẫn phù hợp với căn cơ mọi người.
Những người thiếu hiểu biết, chưa có nhận định sâu sắc về nguyên lý duyên sinh, đều cho rằng đạo nào cũng tốt; do đó, họ rất dễ dàng chọn những tôn giáo không lành mạnh, những tín ngưỡng không tốt đẹp. Từ đó, họ vô tình lấy đó làm lý tưởng cao đẹp cho đời mình, mà có ngờ đâu chính những lý tưởng sai lầm ấy lại gây nên những nỗi đau thương, mất mát cho toàn thể nhân loại.
Bát Chánh Đạo chính là con đường giúp ta thanh lọc tư tưởng, chuyển hóa tâm phiền muộn, khổ đau thành an lạc, hạnh phúc. Mỗi khi ta áp dụng pháp môn này để quay lại chính mình mà thanh lọc thân tâm, thì mọi gốc rễ tham lam, sân giận, si mê đều được chuyển hóa.
Con người cần tu tập chánh kiến để thấy được giá trị đích thực của hòa bình và an lạc, thấy được tội ác và khổ đau do chiến tranh gây ra. Từ đó, ta siêng năng tinh cần, nỗ lực thực tập chánh niệm và chánh định để thanh lọc tâm, loại trừ những tư tưởng tham lam, tranh giành của cải, tài nguyên, thuộc địa, dứt bỏ những ý niệm chia rẽ, hận thù và gian ác, giúp nhân loại cùng biết yêu thương nhau bằng tình người trong cuộc sống.
Con người cần thấy rằng, dục vọng, tham sân làm khổ đau cho thiên hạ, ta phải quay về tự thân để mở một cuộc thanh trừng vĩ đại bên trong nội tâm. Ta phải ý thức rằng, bản thân mình luôn chứa đựng những yếu tố của từ bi, trí tuệ bằng tình yêu thương chân thành, và cũng chứa đựng yếu tố dục vọng, vì si mê thấy thân tâm này là thật.
Dục vọng, si mê đã che lấp tình thương và trí tuệ của chúng ta. Con người cần phải tranh đấu để chuyển hóa, diệt trừ si mê, tham muốn quá đáng, để nuôi dưỡng trí tuệ và tình thương, thì con người mới có thể đùm bọc, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau bằng tinh thần vô ngã, vị tha.
Trong xã hội ngày nay, khả năng để con người kiểm soát hoàn cảnh xã hội đã trở nên mong manh, bởi hệ thống kinh tế và chính trị do con người tạo dựng ra đã trở thành những rào cản, do chủ nghĩa tiêu thụ vật chất quá lừng lẫy trở lại khống chế con người.
Người ta đã luận bàn nhiều về vấn đề bản thân cần phải được cải tạo, chuyển hóa, thay đổi trước, hay là xã hội cần phải được cải tạo trước.
Theo đạo Phật, con người không thể tách rời khỏi xã hội, nên sự cải tạo, mở mang, phát triển, phải được thực hiện song hành. Con người là chánh báo và xã hội là y báo, có con người tốt thì xã hội sẽ tốt.
Cả hai thứ chánh báo và y báo đều thuộc về sự sống của con người, nên đều phải được cải tạo, thay đổi, phát triển bằng những hành động thiết thực, có lợi ích cho mình và người luôn đi đôi với nhau. Vì con người không thể tách rời khỏi môi trường sống, nên sự tu dưỡng nhân cách đạo đức của con người cũng được thực hiện ngay trong môi trường sinh hoạt xã hội.
Khi nói đến sự thay đổi và phát triển xã hội, chúng ta nghĩ ngay đến sự thay đổi hệ thống chính trị, kinh tế của xã hội, mà quên rằng sự tu dưỡng đạo đức bản thân mới là điều quan trọng cần thiết trước tiên. Tâm ý của con người luôn đóng một vai trò rất quan trọng, nếu tâm tư của một người nắm cán cân công lý hiểu biết lệch lạc, sẽ tạo ra nền văn hóa không có giá trị đạo đức, tâm linh.
Những ai muốn đóng góp, phục vụ lợi ích thiết thực cho cuộc đời, xây dựng một gia đình biết sống yêu thương bằng trái tim hiểu biết, và giúp xã hội được bình yên, hạnh phúc thì phải tu dưỡng đạo đức bản thân cho hoàn thiện.
Nếu vô minh là nhân của khổ đau, hạnh phúc là quả của sự hiểu biết chân chính nhờ có trí tuệ, thì con người cần phải thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, để được sống bình an hạnh phúc. Cũng vậy, khi mặt trời trí tuệ xuất hiện thì bóng tối vô minh biến mất, hạnh phúc hay khổ đau cũng lại như thế.
Đức Phật đã thiết lập con đường Bát Chánh Đạo để hướng dẫn mọi người biết cách chuyển hóa nỗi khổ niềm đau mà đem lại an vui, hạnh phúc cho nhân loại. Con đường đó bắt đầu từ sự hiểu biết chân chính, nhờ biết tư duy, nghiền ngẫm, nghiệm xét một cách thấu đáo, do đó có lời nói an hòa, và việc làm nuôi mạng sống một cách chánh đáng nhờ có định tĩnh.
Con đường Bát Chánh Đạo là một quá trình logic và hợp lý để thắp sáng lên ngọn đuốc trí tuệ, phá tan đi bóng tối vô minh. Trong suốt chặng đường, chánh kiến đóng vai trò rất quan trọng, mang tính hướng dẫn, chỉ đạo cho các yếu tố khác cùng kết hợp hài hòa để đem lại giác ngộ, Niết Bàn, giải thoát.
Con đường Bát Chánh Đạo là giáo lý để mọi người ứng dụng, thực hành nhờ biết tư duy, nghiệm xét, nên đã giúp ta biết sống bằng trái tim yêu thương và hiểu biết bằng tình người trong cuộc sống với tâm từ bi rộng lớn.
Bản chất của lời nói tùy thuộc vào sự hiểu biết của ta. Nếu tâm ta có nhiều giận hờn, bức xúc, thì lời nói sẽ mang sắc thái chát chúa, nặng nề, hung dữ; còn nếu tâm ta an lạc, thanh tịnh, thì lời nói sẽ dịu dàng, dễ nghe, âm điệu hài hòa. Nói là một nghệ thuật sống, là một phương pháp tu qua sự lắng nghe và phát ngôn của mình.
Chúng ta càng thực tập chánh tư duy, thì càng tạo điều kiện để giúp những mầm móng của chánh kiến được nẩy nở và tăng trưởng thêm. Nhờ sự phát triển của chánh kiến và chánh tư duy mà chánh ngữ được biểu hiện rõ ràng qua lời nói. Trong sự giao tế mỗi ngày, chánh ngữ là phương pháp để thu phục nhân tâm qua cách xử thế nhìn đúng, nghĩ đúng bằng lời nói.
Tất cả hạnh phúc trên đời đều bắt đầu từ lời nói của con người, và đừng bao giờ mong người khác nói lời dễ nghe trong khi chính mình chưa làm được như vậy. Muốn cuộc sống của mình được an lạc, hạnh phúc, thì ta hãy tập suy nghĩ tốt, nói đúng đắn bằng những lời lẽ chân tình, cao quý, lợi ích cho nhiều người.
Lời nói có một ảnh hưởng vô cùng quan trọng, không những đối với đời sống hạnh phúc của mỗi cá nhân, mà còn có thể định đoạt được cả sự an nguy của xã hội. Những hành động tạo ra đau khổ cho người vật, như khi ta nóng giận thì chửi bới, nguyền rủa, hoặc thượng chân hạ cẳng, đều thuộc về tà nghiệp; còn ta hay làm một hành động chân chánh, có ý nghĩa bảo vệ, xây dựng và chở che cho sự sống như, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu, cũng gọi là nghề nghiệp chân chính.
Nghiệp lành hay nghiệp dữ được hành động theo ba cách, ý suy nghĩ, miệng nói năng, thân hành động. Do đó, khi con người có ý thức làm cái gì, thì đã tạo thành nghiệp, nhưng trổ quả sớm hay muộn là tùy theo nhân duyên.
Như vậy, mỗi hành động được thực hiện với chủ ý là đã thành nghiệp quyết định. Nghiệp của mỗi người là hành động riêng của từng cá nhân và kết quả của những nghiệp mà họ đã tạo ra, thì chính họ cũng là người thừa hưởng kết quả đó, do họ tạo ra hoặc tốt hay xấu mà thôi.
Người Phật tử chân chính luôn biết tu tập theo đúng chánh nghiệp, nên thận trọng, giữ gìn mọi hành động của mình, để khỏi làm tổn hại đến người và vật. Nếu cần, ta có thể hy sinh quyền lợi hay tính mạng để giải thoát nỗi khổ, niềm đau cho người khác.
Chúng ta muốn tu tập chánh nghiệp được đạt được kết quả cao thì phải bắt đầu từ chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, một cách nghiêm túc; ngoài ra, nếu thích ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, trì chú, làm công quả, hay gieo trồng phước đức, để giữ gìn thân-khẩu-ý, cũng là những việc làm đáng được tán thán và hoan nghênh trong xã hội hiện nay.
Theo cái nhìn của đức Phật thì tất cả suy nghĩ và hành động của con người đều khởi nguồn từ tâm. Nếu con người có tâm tốt và biết lo lắng tới việc phát triển xã hội loài người bằng hành động thực tế, thì kết quả sẽ có ích cho nhân loại ngay trong hiện tại. Nếu ta không biết tu dưỡng và rèn luyện đạo đức thì con người sẽ trở thành ác nhân, và cuộc đời sẽ là nạn nhân của nó. Cho nên, nghề nghiệp chân chính là hành vi đúng đắn, tạo nghiệp thiện lành, tốt đẹp, từ bỏ sát sinh, từ bỏ tà hạnh, từ bỏ nói dối, hại người.
Chánh mạng là nuôi sống thân mạng bằng những nghề nghiệp lương thiện, chân chính, tức là sống đúng với chánh pháp, không mê tín dị đoan, không sống trong ảo giác, mơ hồ, trừu tượng quá mức. Ngoài ra, chánh mạng còn có nghĩa là sống không chạy theo dục vọng thấp hèn.
Chánh niệm trong Bát Chánh Đạo là suy niệm chân chính, được xem như một ngọn đèn tỉnh thức để giúp cho tâm thấy biết đúng như thật qua những lời Phật dạy, để không sống trong si mê, lầm lạc.
Phương pháp tu tập chánh niệm là sự ý thức được, mình đang làm cái gì đó trong từng giây phút; khi đang ăn thì ta biết mình đang ăn, khi đang uống thì ta biết mình đang uống, đây là cách thức giúp ta làm chủ bản thân, không bắt nguồn từ sự phân biệt của ý thức, mà bằng sự quán sát sự sống của bản thân mình.
Muốn thắp lên ngọn đèn chánh niệm thì chúng ta cần có chất liệu của tình thương như, ánh mắt tha thứ, biết bao dung, từ bỏ những tham giận, si mê, sám hối, lạy Phật, tụng kinh, ngồi thiền. Tóm lại, nhiên liệu nào có khả năng để soi sáng cho sự hiểu biết chân chính và sự sống thanh tịnh đều là những chất liệu có giá trị tình thương chân thật.
Một tâm định tĩnh có thể tạo ra ánh sáng trí tuệ nhờ biết cách tập trung, quán sát, kiểm soát tâm một cách hài hòa, thuần thục. Chánh định nghĩa là tập trung tư tưởng vào một vấn đề gì để thấy rõ ràng, không lầm lẫn. Nói cách khác là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng, đúng với chân lý, có lợi ích cho mình và người khác.
Chánh định là một phương pháp tu tâm trọng yếu, khiến giới pháp được trong sạch, trí tuệ được thanh cao, luôn soi sáng mọi sự vật mà không bị vật làm ngăn cách.
Người tu theo con đường Bát Chánh Đạo sau khi đã thuần thục 7 pháp trên, cuối cùng nhờ chánh định mà tâm quán sát mọi sự vật đúng như thực trạng của nó.
Quán từ bi là quán tưởng tất cả chúng sanh đều là một, chân tâm bình đẳng không khác, để đoạn trừ thù hận và mở rộng lòng thương yêu, muốn cứu độ chúng sanh.
Quán hơi thở nghĩa là quán tưởng bằng cách chuyên chú đếm hơi thở ra vào, đối trị sự tán loạn của tâm thức.
Quán lý duyên khởi là thấy từ con người cho đến muôn loài vật đều do nhân duyên hòa hợp mà hình thành nên giả có, không có thực thể cố định, không thường tồn, để đoạn trừ ngu si, chấp ngã.
Trong cuộc sống của chúng ta, mọi sinh hoạt đều biểu hiện ở ý nghĩ, lời nói, và phát sinh ra hành động. Do đó, đức Phật dùng phương pháp Bát Chánh Đạo để chuyển hóa si mê, tối tăm, mờ mịt, thành vô lượng từ bi, trí tuệ, và lấy sự nuôi mạng sống chân chính làm nền tảng đạo đức, lấy chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định làm nghiệp dụng tương trợ cho nhau để hướng ta đến đời sống giác ngộ, giải thoát hoàn toàn.
Ai tu theo con đường Bát Chánh Đạo sẽ có năng lực giúp mình tiến đến quả hiền Thánh, Bồ Tát và thành Phật trong tương lai. Mọi người đều có Phật tính sáng suốt ngay nơi thân này, chúng ta chỉ cần rèn luyện và bền bỉ, kiên trì đều đặn bằng trí tuệ được khai phát từ sự quán chiếu, tư duy, nghiền ngẫm, biết nghiệm xét, thì không sớm muộn gì cũng được thành tựu viên mãn.