Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05. Thiền sư Tổ Tâm Hối Đường Hoàng Long

04/09/201102:42(Xem: 10233)
05. Thiền sư Tổ Tâm Hối Đường Hoàng Long

THIỀNSƯ TRUNG HOA
HTThích Thanh Từ

TẬP 3
ĐỜI THỨMƯỜI BA SAU LỤC TỔ

5.THIỀN SƯ TỔ TÂM HỐI ĐƯỜNG HOÀNG LONG

Sư họ Ổ, quê ở Thủy Hưng Nam Hùng, thuở bé làm thơ sanhcó tiếng. Năm mười chín tuổi, Sư bị mù mắt cha mẹ nguyệncho xuất gia, con mắt Sư sáng lại. Sư đến nương với Sa-mônHuệ Toàn ở chùa Long Sơn. Năm sau thi Kinh nghiệp, Sư chỉdâng thi liền được xuất gia. Sư tiếp trụ viện của thầychẳng thọ giới luật.

Một hôm, Sư bỏ chùa vào tùng lâm yết kiến Thiền sư VănDuyệt ở Vân Phong, dừng lại đây ba năm. Sư khổ vì chỗcứng cỏi cô độc, bèn cáo từ Thiền sư Duyệt ra đi. Duyệtbảo: Hãy đến nương với Huệ Nam ở Hoàng Bá. Sư đến HoàngBá ở bốn năm, tuy tri hữu mà cơ chẳng phát. Sư từ giãtrở lại Vân Phong, đến nơi Thiền sư Duyệt đã tịch. Nhânđó, Sư đến tựa ở Thạch Sương mà không có tham vấn. Sưthử xem Truyền Đăng đến đoạn: "Tăng hỏi Thiền sư ĐaPhước: Thế nào là một vườn tre của Đa Phước? Đa Phướcđáp: Một cây hai cây nghiêng, Tăng thưa: Chẳng hiểu. Đa Phướcnói: Ba cây bốn cây cong." Khi ấy, Sư liền giác ngộ hiểurõ được hai Thầy. Sư liền đi thẳng đến Hoàng Bá. Vừamới trải tọa cụ, Huệ Nam cười nói: Ngươi vào thất củata. Sư cũng thích thú vui mừng thưa: Việc lớn xưa nay nhưthế, Hòa thượng cần gì dạy người khán thoại, hạ ngữ,trăm cách sưu tầm? Huệ Nam đáp: Nếu chẳng dạy ông tầmcứu như thế, đến chỗ không dụng tâm tự thấy tự nhận,là ta đã chôn vùi ngươi vậy. Sư thong thả chìm lặng ởtrong chúng, thường đến thưa hỏi về cú ngữ của Vân Môn.Huệ Nam bảo: Biết là việc bên liền thôi, ông dùng nhiềucông phu làm gì? Sư thưa: Chẳng thế, con còn có chút nghi,chẳng đến vô học đâu hay bảy dọc tám ngang xoay trời chuyểnđất? Huệ Nam hứa nhận. Sau đó, Sư đến yết kiến Thiềnsư Khả Chân ở Phong Nham. Khả Chân tiếp Sư lời nói rấtlạ. Sư dừng ở đây hai năm, Khả Chân qui tịch. Sư trởlại Hoàng Bá, Huệ Nam dạy phân tòa tiếp độ Tăng chúng.Đến Huệ Nam dời trụ Hoàng Long, Sư sang yết kiến Thiềnsư Hiểu Nguyệt ở Phần Đàm. Hiểu Nguyệt dùng kinh luậntinh nghĩa được nhập thần, những vị đồng hàng ở cácnơi nghe thế đều cười, bảo là chủ yếu không tự hếtđi, lại thả một cây cầu vào hang sâu. Sư nói: Kia cho hữuđắc mà đắc giữ trước ngừa sau, ta cho vô học mà họctrăm sông về biển.

Sư do có chút bệnh dừng trụ ở Chương Giang. Chuyển vậnphán quan là Hạ Ỷ Công có nhã ý học thiền, gặp DươngKiệt Thứ Công than rằng: Tôi đến Giang Tây hận không gặpđược Thiền sư Huệ Nam. Thứ Công nói: Có Thượng tọa TổTâm ở Chương Giang, Công hãy đến thưa hỏi chẳng thiếtgặp Huệ Nam. Ỷ Công liền đến ra mắt Sư, cùng đàm luậntinh thần khoáng đạt, đến bàn về Triệu Luận câu "hộimuôn vật làm chính mình và tình cùng vô tình chung một thể".Khi ấy có con chó nằm dưới bàn hương, Sư lấy cây thướcđè giấy gõ con chó, lại gõ cái bàn, nói: Con chó hữu tìnhnên đi, cái bàn vô tình vẫn ở, tình cùng vô tình đâu thànhmột thể. Ỷ Công không thể đáp được, Sư tiếp: Vừa cósuy nghĩ liền thành pháp dư, đâu từng "hội muôn vật làmchính mình?"

Thiền sư Huệ Nam qui tịch, Sư tiếp trụ trì Hoàng Long ngótmười hai năm. Song tánh Sư thực lơ là không thích theo việc,năm phen xin nghỉ mới được rảnh việc nhàn cư. Tạ CảnhÔn, Sứ trấn thú Đàm Châu thấy Qui Sơn thiếu người, đếnthỉnh ba phen Sư vẫn từ chối. Sau Tạ Cảnh Ôn thỉnh Sưđến Trường Sa gặp một lần. Sư liền đến. Cảnh Ôn cầuxin nghe pháp yếu. Sư vì ông nói đại cương: "Ba thừa mườihai phần giáo, giống như nói ăn, chỉ thức ăn cho người.Đã nhờ đó nói thức ăn, cốt nơi mình nếm lấy. Chính mìnhnếm được, liền rõ biết mùi vị kia là mặn lạt cay đắng.Tổ Đạt-ma từ Ấn Độ sang chỉ thẳng tâm người thấytánh thành Phật cũng lại như thế. Chân tánh đã nhân văntự mà bày, cốt tại chính mình thấy được. Nếu hay thấyđược liền rõ biết trước mắt là chân là vọng là sanhlà tử. Đã rõ biết chân vọng sanh tử, xem lại tất cảngữ ngôn văn tự đều là lời nói hiển bày trọn không cónghĩa thật. Như nay không hiểu bệnh tại chỗ nào? Bệnh tạithấy nghe hiểu biết. Vì chẳng biết như thật chỗ đếnmé chân, nhận cái thấy nghe hiểu biết này làm cái sở kiếncủa chính mình. Đâu chẳng biết, cái thấy nghe hiểu biếtnày đều nhân tiền trần mà có phân biệt. Nếu không cảnhgiới tiền trần thì cái thấy nghe hiểu biết này đồng vớilông rùa sừng thỏ, trọn không có chỗ nương." Tạ CảnhÔn nghe được điều chưa nghe.

*

Sư đáp câu hỏi của Hàn thị lang Tông Cổ rằng: Nhân nghe: "khi xưa khai ngộ rỗng thênh không nghi, mà tập khí từ vôthủy đến nay không thể chóng dứt". Song ngoài tâm không dưmột pháp, chẳng biết phiền não tập khí là vật gì mà muốndứt. Nếu khởi tâm này trở thành nhận giặc làm con. Từtrước đến giờ chỉ có ngôn thuyết, cho đến theo bệnhcho thuốc. Dù có phiền não tập khí, chỉ dùng tri kiến NhưLai trị nó, đều là lời quyền biến phương tiện dẫn dạy.Nếu là quyết định có tập khí để trị, lại là ngoàitâm có pháp, mà có thể hết ấy. Ví như con linh qui lấy đuôikhỏa dấu, dấu lại hiện rõ, nên nói đem tâm dụng tâm lai thấybệnh sâu. Nếu hay sáng tâm, ngoài tâm không pháp, ngoài phápkhông tâm, tâm pháp đã không, lại muốn dạy cái gì hết.

Sư dạo kinh đô, Phụ mã đô úy là Vương Công Săn thành tâmlễ đón và cất am ở ngoài Quốc môn. Sư ở đây thời gian,lại sang phương Nam dạo Lô Sơn. Bành Khí Tư trấn thú CửuGiang gặp Sư, Khí Tư thong dong hỏi: Khi người lâm chung cóchỉ quyết chăng? Sư đáp: Có. Khí Tư thưa: Xin được nghelời này. Sư bảo: Đợi Khí Tư chết liền nói. Khí Tư đứngdậy kính trọng nói: Việc này phải là Hòa thượng mới được.

Sư thường làm bài kệ:

Bất trụ Đường triều tự

Nhàn vi Tống địa Tăng

Sanh nhai tam sự nạp

Cố cựu nhất chi đằng

Khất thực tùy duyên khứ

Phùng sơn nhậm ý đăng

Tương phùng mạc tương tiếu

Bất thị Lãnh Nam Năng.

Dịch:

Chùa triều Đường chẳng trụ

Làm Tăng đất Tống nhàn
Sanh nhai ba vật chánh

Cố cựu một cây hèo

Tùy duyên đi khất thực

Gặp núi mặc tình leo

Thấy nhau chớ cười mỉm

Chẳng phải Năng Lãnh Nam.

Đọc bài thơ này khả dĩ thấy được phẩm cách của Sư.

*

Sư tuổi đã già lại dời am vào chốn rừng sâu, bặt ngườilui tới hơn hai mươi năm. Mỗi khi đến ngày kỵ của Thiềnsư Huệ Nam, Sư làm bài kệ:

Tích nhân khứ thời thị kim nhật

Kim nhật y nhiên nhân bất lai

Kim ký bất lai tích bất vãng

Bạch vân lưu thủy phong bồi hồi

Thùy vân: Bình xích bình, trực trung hoàn hữu khúc

Thùy vân: Vật lý tề, chủng ma hoàn đắc túc.

Khả lân trì trục thiên hạ nhân

Lục lục nguyên lai tam thập lục.

Dịch:

Người xưa ra đi ngày này thực

Ngày nay như cũ người chẳng về

Nay đã chẳng về xưa chẳng đến

Mây trắng nước trôi gió quẩn quanh

Ai bảo: Cân thước bằng, trong ngay lại có cong

Ai bảo: Vật lý đồng, gieo gai lại được lúa.

Đáng thương lận đận thảy mọi người

Sáu sáu xưa nay là băm sáu.

Niên hiệu Nguyên Phù năm thứ ba (1100) giữa đêm ngày mườisáu tháng mười một, Sư viên tịch, thọ bảy mươi sáu tuổi,năm mươi lăm tuổi hạ. Vua ban hiệu là Bảo Giác.




8.THIỀN SƯ ÐẠO NHẤT
MãTổ - (709 - 788)

Vìngười đời sau quá kính trọng Sư nên nhân Sư họ Mã gọilà Mã Tổ: ông Tổ họ Mã.

Sưhọ Mã, quê ở huyện Thập Phương, Hán Châu. Thuở nhỏ, Sưdung mạo lạ thường: đi như trâu, nhìn như cọp, lưỡi dàikhỏi mũi, dưới chân có hai khu ốc. Lúc bé, Sư đến chùaLa-hán xin xuất gia với Hòa thượng Ðường ở Từ Châu. SauSư thọ giới cụ túc nơi Luật sư Viên ở Du Châu.

Ðờèường khoảng niên hiệu Khai Nguyên (713-742 T.L.), Sư tậpthiền định ở Viện truyền pháp tại Hoành Nhạc, nhân Thiềnsư Hoài Nhượng giáo hóa được giải ngộ. Bạn đồng thamhọc với Sư có sáu người, chỉ riêng Sư được truyền tâmấn.

Saukhi tạm biệt thầy, Sư đến Kiến Dương ở ngọn núi PhậtTích, kế dời sang Lâm Xuyên, sau lại đến núi Cung Công NamDương. Niên hiệu Ðại Lịch (765 T.L.) Liên soái Lộ Từ Cungvà Linh Phong, Cảnh Mộ thỉnh Sư khai đường để truyền bátông phong. Từ đây học giả bốn phương tụ hội về rấtđông. Có thể nói Giang Tây là một trường thi Phật.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Cácngươi mỗi người tin tâm mình là Phật, tâm này tức là tâmPhật. Tổ Ðạt-ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền pháp Thượngthừa nhất tâm, khiến các ngươi khai ngộ. Tổ lại dẫn kinhLăng-già để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điênđảo không tự tin pháp tâm này mỗi người tự có, nên kinhLăng-già nói: "Phật nói tâm là chủ, cửa không là cửa pháp."(Phật ngữ tâm vi tông, vô môn vi pháp môn.)

Phàmngười cầu pháp nên không có chỗ cầu, ngoài tâm không riêngcó Phật, ngoài Phật không riêng có tâm, không lấy thiệnchẳng bỏ ác, hai bên nhơ sạch đều không nương cậy, đạttánh tội là không, mỗi niệm đều không thật, vì không cótự tánh nên tam giới chỉ là tâm, sum la vạn tượng đềulà cái bóng của một pháp, thấy sắc tức là thấy tâm, tâmkhông tự là tâm, nhân sắc mới có.

Cácngươi chỉ tùy thời nói năng tức sự là lý, trọn khôngcó chỗ ngại, đạo quả Bồ-đề cũng như thế. Nơi tâm sanhra thì gọi là sắc, vì biết sắc không, nên sanh tức chẳngsanh. Nếu nhận rõ tâm này, mới có thể tùy thời ăn cơmmặc áo nuôi lớn thai thánh, mặc tình tháng ngày trôi qua,đâu còn có việc gì.

Cácngươi nhận ta dạy hãy nghe bài kệ này:

Tâm địa tùy thời thuyết

Bồ-đề diệc chỉ ninh

Sự lý câu vô ngại

Ðương sanh tức bất sanh.

Dịch:

Ðất tâm tùy thời nói

Bồ-đề cũng thế thôi

Sự lý đều không ngại

Chính sanh là chẳng sanh.

*

Cóvị Tăng hỏi:- Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật?

Sưđáp:- Vì vỗ con nít khóc.

- Connít nín rồi thì thế nào?

- Phitâm phi Phật.

- Ngườitrừ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào?

- Nóivới y là "phi vật".

- Khichợt gặp người thế ấy đến thì phải làm sao?

- Hãydạy y thể hội đại đạo.

*

Cóvị Tăng hỏi:

- Lytứ cú tuyệt bách phi, thỉnh Thầy chỉ thẳng ý Tổ sư từẤn Ðộ sang?

Sưđáp:

- Hômnay ta mệt nhọc không thể vì ngươi nói, ngươi đến hỏiTrí Tạng. Vị Tăng ấy đến hỏi Trí Tạng.

TríTạng bảo:- Sao không hỏi Hòa thượng?

Tăngđáp:- Hòa thượng dạy đến hỏi Thầy.

TríTạng hỏi:

- Hômnay tôi đau đầu, không thể vì ông nói, đến hỏi Sư huynhHải.

Tăngđến hỏi Hoài Hải, Hoài Hải bảo:- Ðến chỗ ấy tôi cũngchẳng hội.

Tăngtrở lại trình Sư, Sư bảo:- Tạng đầu bạch, Hải đầuhắc.

*

Cưsĩ Long Uẩn đến hỏi:

- Nướckhông gân xương hay thắng chiếc thuyền muôn hộc, lý nàythế nào?

Sưđáp:- Trong ấy không nước cũng không thuyền, nói gì là gânxương?

Uẩnbảo:- Người không lầm xưa nay, thỉnh Thầy để mắt nhìnlên!

Sưliền nhìn thẳng xuống.

Uẩnnói:- Một cây đàn cầm không dây, mà Thầy đàn rất hay.

Sưliền nhìn thẳng lên. Uẩn lễ bái. Sư trở về phương trượng.Uẩn theo sau thưa:- Vừa rồi muốn làm khéo trở thành vụng.

*

Mộtđêm, Trí Tạng, Hoài Hải, Phổ Nguyện theo hầu Sư xem trăng.

Sưhỏi:- Ngay bây giờ nên làm gì?

TríTạng thưa:- Nên cúng dường.

HoàiHải thưa:- Nên tu hành.

PhổNguyện phủi áo ra đi.

Sưbảo:- Kinh vào Tạng, Thiền về Hải, chỉ có Phổ Nguyệnvượt ngoài sự vật.

*

HoàiHải hỏi:- Thế nào là chỉ thú Phật pháp?

Sưđáp:- Chính là chỗ ngươi bỏ thân mạng.

Sưlại hỏi Hoài Hải:- Ngươi lấy pháp gì chỉ dạy người?

HoàiHải dựng đứng cây phất tử.

Sưbảo:- Chỉ thế thôi hay còn gì khác?

HoàiHải ném cây phất tử xuống.

*

Tănghỏi:- Thế nào được hiệp đạo?

Sưđáp:- Ta sớm chẳng hiệp đạo.

Tănghỏi:- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Ðộ sang?

Sưliền đánh và nói:- Ta nếu không đánh ngươi, các nơi sẽcười ta.

*

ÐặngẨn Phong từ biệt Sư đi nơi khác, Sư hỏi:- Ði đến đâu?

ẨnPhong thưa:- Ði đến Thạch Ðầu.

- ÐườngThạch Ðầu trơn.

- Cócây gậy tùy thân, gặp trường thì đùa.

ẨnPhong vừa đi đến Thạch Ðầu đi nhiễu giường thiền mộtvòng, dựng tích trượng động đất một tiếng, hỏi:

- Ấylà tông chỉ gì?

ThạchÐầu nói:- Trời xanh! trời xanh!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về thưa với Sư. Sư bảo:

- Ngươinên đi lại bên ấy, nếu Thạch Ðầu nói "trời xanh!" ngươi"hư! hư!"

ẨnPhong lại đi đến Thạch Ðầu làm như trước.

ThạchÐầu bèn: Hư! hư!

ẨnPhong không đáp được, lại trở về trình với Sư. Sư bảo:

- Tađã nói với ngươi "đường Thạch Ðầu trơn".

*

Cóvị Giảng sư đến hỏi:- Thiền tông truyền giữ pháp gì?

Sưhỏi lại:- Tọa chủ truyền giữ pháp gì?

- Tôigiảng được hơn hai mươi bản kinh luận.

- Ðâukhông phải là sư tử con?

- Khôngdám.

Sưthốt ra tiếng: Hư! hư!

Giảngsư nói:- Ðây là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ra khỏi hang.

Sưbèn im lặng.

Giảngsư nói:- Ðây cũng là pháp.

- Làpháp gì?

- Phápsư tử ở trong hang.

- Khôngra không vào là pháp gì?

Giảngsư không đáp được, bèn từ giã đi ra đến cửa, Sư gọi:

- Chủtọa!

Giảngsư xoay đầu lại.

Sưhỏi:- Là pháp gì?

Giảngsư cũng không đáp được.

Sưbảo:- Ông thầy độn căn.

*

Mộthôm Sư dạy chúng:

- Ðạokhông dụng tu, chỉ đừng ô nhiễm. Sao là ô nhiễm? - Có tâmsanh tử, tạo tác, thú hướng đều là ô nhiễm. Nếu muốnhội thẳng đạo ấy, tâm bình thường là đạo. Sao gọi làtâm bình thường? -Không tạo tác, không thị phi, không thủxả, không đoạn thường, không phàm thánh. Kinh nói: "Chẳngphải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh thánh hiền, là hạnhBồ-tát." Chỉ như hiện nay đi đứng ngồi nằm, ứng cơ tiếpvật đều là đạo. Ðạo tức là pháp giới, cho đến diệudụng như hà sa đều không ngoài pháp giới. Nếu chẳng phảivậy, tại sao nói "pháp môn tăng địa", tại sao nói "vô tậnđăng"? Tất cả pháp đều là pháp của tâm, tất cả tênđều là tên của tâm. Muôn pháp đều từ tâm sanh, tâm làcội gốc của muôn pháp. Kinh nói: "Biết tâm đạt cội nguồnnên hiệu là Sa-môn." Tên đồng nghĩa đồng, tất cả phápđều đồng thuần nhất không lẫn lộn.

Nếuở trong giáo môn được tùy thời tự tại thì dựng lậppháp giới trọn là pháp giới, lập chân như là chân như,lập lý tất cả pháp trọn là lý, lập sự tất cả pháptrọn là sự, nắm giở một thì ngàn theo, sự lý không khác,toàn là diệu dụng. Lại không có lý riêng, đều do xoay lạicủa tâm. Ví như bao nhiêu bóng mặt trăng thì có, mà bao nhiêumặt trăng thật thì không, bao nhiêu nguồn nước thì có, màbao nhiêu tánh nước thì không, bao nhiêu sum la vạn tượngthì có, mà bao nhiêu hư không thì không, bao nhiêu lời nóiđạo lý thì có, mà bao nhiêu Tuệ vô ngại thì không; bao nhiêucác thứ thành lập đều do một tâm. Dựng lập cũng được,dẹp hết cũng được, thảy là diệu dụng. Diệu dụng trọnlà nhà mình, chẳng phải lìa chân mà có, nơi nơi đều chân,thảy đều là thể của nhà mình.

Nếuchẳng vậy, lại là người nào? Tất cả pháp đều là Phậtpháp, các pháp tức là giải thoát, giải thoát tức là chânnhư, các pháp không ngoài chân như, đi đứng ngồi nằm thảylà dụng bất tư nghì, không đợi thời tiết. Kinh nói: "Chỗchỗ nơi nơi đều có Phật." Phật là năng nhân, có trí tuệkhéo hợp lòng người, hay phá lưới nghi cho tất cả chúngsanh, vượt ra vòng trói buộc của có và không v.v... tình chấpphàm thánh hết, nhân pháp đều không, chuyển bánh xe khônggì hơn, vượt các số lượng, việc làm không ngại, sự lýđều thông, như trời hiện mây, chợt có lại không, chẳngđể dấu vết. Ví như vẽ nước thành lằn, không sanh khôngdiệt. Ðại tịch diệt tại triền gọi là Như lai tàng, xuấttriền gọi là Pháp thân thanh tịnh. Thể không tăng giảm,hay lớn hay nhỏ, hay vuông hay tròn, hợp vật hiện hình nhưtrăng trong nước, vận dụng mênh mông, không lập mầm gốcchẳng hết hữu vi, không trụ vô vi. Hữu vi là dụng củavô vi, vô vi là chỗ nương của hữu vi, chẳng trụ chỗ nương,nên nói: "Như không chẳng chỗ nương." Nghĩa tâm sanh diệt,nghĩa tâm chân như: Tâm chân như dụ như gương sáng soi vậttượng. Gương dụ tâm, vật tượng dụ pháp. Nếu tâm chấppháp là dính với cái nhân bên ngoài, tức là nghĩa sanh diệt.Tâm không chấp pháp tức là nghĩa chân như.

Thanhvăn tai nghe Phật tánh. Bồ-tát mắt thấy Phật tánh. Liễuđạt không hai gọi là bình đẳng tánh. Tánh không có khác,dụng thì chẳng đồng. Tại mê là thức, tại ngộ là trí.Thuận lý là ngộ, theo sự là mê. Mê tức là mê bản tâmmình, ngộ là ngộ bản tánh mình. Một phen ngộ là hằng ngộchẳng trở lại mê. Như đang khi mặt trời mọc lên khôngtrở lại tối. Mặt trời trí tuệ xuất hiện, không chungcùng cái tối phiền não. Liễu đạt cảnh giới của tâm liềntrừ vọng tưởng. Vọng tưởng đã trừ tức là vô sanh. Pháptánh sẵn có, có chẳng nhờ tu. Thiền không thuộc ngồi, ngồitức có chấp trước. Nếu thấy lý này là chân chánh hiệpđạo, tùy duyên qua ngày, đứng ngồi theo nhau, giới hạnhhuân thêm, nhóm nơi tịnh nghiệp. Chỉ hay như thế, lo gì chẳngthông.

Ðệtử của Sư được nhập thất (được vào thiền thất, làđã ngộ đạo) có đến tám mươi bốn vị, mỗi người làmchủ một phương truyền hóa vô cùng.

Ðờèường niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ tư (788 T.L.) khoảngtháng giêng, Sư lên núi Thạch Môn, Kiến Xương, đi kinh hànhtrong rừng thấy chỗ hang động bằng phẳng, bèn bảo thịgiả:

- Thâncũ mục của ta sẽ ở tháng sau và trở về nơi này. Nói xong,Sư trở về.

Ðếnngày mùng bốn tháng hai, Sư có chút bệnh, tắm gội xong, ngồikiết già nhập diệt, thọ tám mươi tuổi, được sáu mươituổi hạ.

Sauvua sắc ban hiệu Ðại Tịch.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com